MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đã đạt được những bước phát triển vượt
bậc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Khoa học kỹ thuật
được ứng dụng rộng rãi, đã và đang thay thế dần sức người, tạo ra năng suất
cao đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh của con người.
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội ngành ngân hàng cũng có những bước
phát triển cho riêng mình. Hệ thống ngân hàng ngày càng được trang bị hiện
đại với đội ngũ nhân viên trình độ cao, các sản phẩm dịch vụ đa dạng và
phong phú, rủi ro thấp, đảm bảo tốt nhất lợi ích cho khách hàng đến giao dịch.
Niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng được nâng cao, các sản phẩm
dịch vụ của ngân hàng luôn được khách hàng đón nhận và sử dụng. Sự phát
triển của ngân hàng còn được thể hiện trong các giao dịch khu vực và quốc tế
ngày càng lớn và diễn ra thường xuyên góp phần vào sự phát triển chung nền
kinh tế các nước trong xu thế hội nhập hiện nay.
Ở nước ta, ngành ngân hàng ra đời tương đối muộn so với các nước trên
thế giới nhưng trong những năm gần đây đã thể hiện được vai trò quan trọng
của mình đối với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, đặc biệt là giai
đoạn hiện nay khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Hệ thống ngân hàng ngày càng đa dạng về loại hình, bao gồm các ngân hàng
quốc doanh, ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh
liên kết đặc biệt đã có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài. Hiện tại
trên thị trường Việt Nam có 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 ngân
hàng liên doanh, 03 công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và 44
văn phòng đại diện. Số lượng này còn tăng nhanh trong thời gian tới khi nền
kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó,
ngày càng có nhiều sự tham gia của các ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ
1
phần mới. Từ đó, chúng ta có thể thấy được sự cạnh tranh quyết liệt giữa các
ngân hàng để có thể tồn tại và phát triển. Trong những năm gần đây các ngân
hàng đã mạnh mẽ cải cách, nâng cấp và mở rộng hợp tác về dịch vụ như thu
hộ tiền mặt, thanh toán, cho vay hợp vốn, tài trợ vốn cho các dự án, tài trợ
vốn tiêu dùng, phát hành thẻ ATM… Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phụ thuộc
chủ yếu vào tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng vừa và nhỏ nguồn thu từ tín
dụng có thể lên tới 90%. Hoạt động tín dụng hiện nay đang gặp rất nhiều khó
khăn, lạm phát ở nước ta luôn ở mức cao nên nguồn vốn huy động được rất
thấp. Trong khi đó, để kiềm chế lạm phát NHNN đã áp dụng chính sách tiền
tệ thắt chặt, hạn chế tăng trưởng tín dụng, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc… điều
này làm tăng chi phí vốn huy động của các ngân hàng.
Tại chi nhánh NHN
O
&PTNT Hoàng Quốc Việt tình trạng cũng diễn ra
tương tự, nguồn vốn huy động được của ngân hàng bị hạn chế buộc ngân
hàng phải chọn lọc khách hàng để cho vay điều này ảnh hưởng tới thu nhập
của ngân hàng. Mặt khác, chi nhánh mới được chuyển đổi thành chi nhánh
cấp 1 (từ tháng 2/2008) nên hoạt động chưa được ổn định và gặp rất nhiều
khó khăn trong quá trình huy động và sử dụng vốn. Giai đoạn trước mắt, chi
nhánh hạn chế cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân, tập trung vào khách
hàng truyền thống, tăng cường hiệu quả tín dụng đối với các khoản đang thực
hiện đặc biệt đối với khách hàng là các doanh nghiệp vì đây là đối tượng được
cấp khoản tín dụng lớn và mức độ rủi ro cao.
Để góp phần nâng cao hiệu quả các khoán tín dụng của chi nhánh đối với
khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh tôi đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất
lượng tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHN
O
&PTNT
Hoàng Quốc Việt”.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1 Nghiên cứu thực trạng hoạt động cấp tín dụng của hệ thống ngân
hàng nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2
2.2 Nghiên cứu, đánh giá quá trình cấp tín dụng đối với khách hàng
doanh nghiệp tại chi nhánh NHN
O
&PTNT Hoàng Quốc Việt.
2.3 Đưa ra một số biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHN
O
&PTNT Hoàng Quốc Việt.
3. Đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề tập trung phân tích, đánh giá về hoạt động tín dụng đối với
khách hàng doanh nghiệp hiện nay tại chi nhánh, đồng thời đưa ra một số biện
pháp nâng cao hiệu quả các khoản tín dụng hiện tại và trong thời gian tiếp
theo.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do còn hạn chế nhiều về nhiều mặt như thời gian, kiến thức, thông tin…
nên đề tài tập trung nghiên cứu tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại chi
nhánh NHN
O
&PTNT Hoàng Quốc Việt.
Về lý thuyết, đề tài dựa trên các vấn đề lý luận của chuyên ngành tài
chính – ngân hàng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu và
đánh giá.
6. Kết cấu chuyên đề:
Bao gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng của Ngân hàng
Thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với khách hàng doanh
nghiệp tại chi nhánh NHN
O
&PTNT Hoàng Quốc Việt.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách
hàng doanh nghiệp tại chi nhánh NHN
O
&PTNT Hoàng
Quốc Việt.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng Thương mại và các dịch vụ chính của ngân hàng
thương mại
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng là thuật ngữ dùng để chỉ một tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực tài chính. Hoạt động ban đầu của ngân hàng bắt nguồn từ một công việc
rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những người sở hữu nó, tránh hư hỏng,
mất mát. Đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người giữ hộ một khoản tiền
công. Khi nền kinh tế - xã hội phát triển hơn, hoạt động thương mại trở lên
quan trọng và không thể thiếu đối với mỗi quốc gia thì nhu cầu về tiền ngày
càng lớn, lúc này ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người dư tiền và
cung cấp cho những người thiếu và có nhu cầu sử dụng thêm tiền. Ngân hàng
là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, xã hội càng
phát triển vai trò của ngân hàng càng được thể hiện rõ.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau tuỳ thuộc vào sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng
thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số
lượng. Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản
nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương
mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, thu hút vốn từ nơi nhàn rỗi và
bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục
đích kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt đó là “vốn - tiền”, ngân hàng trả
lãi suất huy động thấp hơn lãi suất cho vay và phần chênh lệch lãi suất đó đem
lại lợi nhuận cho ngân hàng. Trong ngân hàng thương mại, tiền ngân hàng có
4
ban đầu, tiền huy động được từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội được gọi là
tài sản nợ hay nguồn vốn của ngân hàng. Còn tiền cho các công ty, các cá
nhân hay các tổ chức khác trong xã hội vay cũng như tiền gửi tại các ngân
hàng, tổ chức tài chính khác gọi là tài sản có hay tài sản của ngân hàng.
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Trung gian tài chính
Trước kia, quan hệ giữa người thặng dư vốn với người cần vốn là mối
quan hệ trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) tức là họ phải phù hợp với nhau
về thời gian, không gian, quy mô…rất khó có thể thành công trong khi rủi ro
là rất lớn, nguồn vốn không được tận dụng triệt để vừa gây lãng phí vốn vừa
làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Mối quan hệ tín dụng trực
tiếp ngày càng thể hiện những hạn chế của nó không còn phù hợp trong nền
kinh tế và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Với chức năng trung gian
tài chính ngân hàng tiến hành huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh
tế, tập trung lại thành một khoản lớn. Phương thức huy động có thể theo thể
thức tự nguyện thông qua cơ chế lãi suất hoặc theo thể thức bắt buộc qua cơ
chế điều hành của chính phủ. Sau khi đã có một nguồn vốn tập trung ngân
hàng cung ứng cho những người cần nó bao gồm các doanh nghiệp, chính
phủ, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Với mối quan hệ tín dụng gián
tiếp này ngân hàng đã khắc phục được hạn chế của quan hệ tín dụng trực tiếp,
đáp ứng một cách chính xác và đầy đủ, kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho các cá
nhân và doanh nghiệp. Trong quá trình huy động và cung ứng vốn ngân hàng
luôn kiểm soát nhằm giảm tới mức tối thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức thông tin không cân xứng gây ra. Mỗi khoản huy động và cho vay
ngân hàng đều đem lại lợi ích cho người gửi tiết kiệm, người đi vay và cho
chính mình.
1.1.2.2 Tạo phương tiện thanh toán
Trong nền kinh tế tiền – vàng là phương tiện thanh toán thông dụng, xã
5
hội càng phát triển phương tiện thanh toán bằng tiền – vàng dần được thay thế
bằng những loại phương tiện khác ưu thế hơn. Ban đầu ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại bằng cách phát hành các giấy tờ
nhận nợ. Việc phát hành giấy nhận nợ này dựa trên số lượng tiền kim loại mà
ngân hàng đang nắm giữ. Với nhiều ưu điểm nổi bật là gọn nhẹ, thanh toán
nhanh chóng, tính an toàn cao, có thể thanh toán một lượng lớn… giấy ghi
nhận nợ của ngân hàng dần đã thay thế tiền kim loại và phương tiện thanh
toán không thể thiếu trong quá trình thanh toán trong xã hội.
Đối với hoạt động tín dụng của NHTM, khi cho vay số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể sử dụng
để thanh toán khi mua hàng hoá, dịch vụ mà không cần sử dụng tiền mặt
trong các giao dịch của mình. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng đã tạo
ra phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở
các ngân hàng cho vay lẫn nhau. Với mỗi NHTM quá trình tạo phương tiện
thanh toán phụ thuộc vào các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ thanh
toán bằng tiền mặt, tác động của chính sách tiền tệ do NHNN tại những thời
kỳ….
1.1.2.3 Trung gian thanh toán
NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán cho các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dưới các hình thức như thanh toán bằng
séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, các loại thẻ… một cách nhanh chóng, thuận
tiện, chính xác và tiết kiệm chi phí cho khách hàng. Ngoài ra, các NHTM còn
thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua NHTW hoặc các trung tâm
thanh toán. Khoa học công nghệ ứng dụng trong ngân hàng càng hiện đại thì
quá trình thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng, nó không chỉ gói gọn
trong các ngân hàng trong hệ thống hay trong một quốc gia mà còn cả các
6
ngân hàng khác trên thế giới. Việc hình thành các trung tâm thanh toán quốc
tế đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng và nhu cầu thanh toán qua
ngân hàng trở nên quan trong đối với mỗi quốc gia trong xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay.
1.1.3 Các dịch vụ của ngân hàng thương mại
1.1.3.1 Cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM, nó mang lại nguồn
thu chủ yếu cho NHTM. Cho vay bao gồm cho vay thương mại, cho vay tiêu
dùng và tài trợ cho dự án.
Cho vay tiêu dùng là NHTM cung cấp vốn cho đối tượng khách hàng là
các cá nhân và các hộ gia đình nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm sinh hoạt
hàng ngày. Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng rất hạn chế cho vay đối với
các cá nhân và hộ gia đình họ cho rằng các khoản cho vay này có độ rủi ro vỡ
nợ tương đối cao. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã
hội thu nhập của người tiêu dùng đã ngày càng gia tăng đồng thời do sự cạnh
tranh mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng buộc các NHTM phải hướng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Hiện nay, cho vay tiêu
dùng đã và đang đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động cho
vay của các ngân hàng.
Cho vay thương mại: Các NHTM cung cấp vốn cho khách hàng doanh
nghiệp, đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Cho vay thương mại là hoạt động ra đời tương đối sớm. Ngay thời kỳ
đầu các ngân hàng đã tiến hành chiết khấu thương phiếu mà thực chất ở đây là
cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho
ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là chuyển từ chiết khấu thương phiếu
sang cho vay trực tiếp để khách hàng có vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như mở rộng quy mô sản xuất.
Tài trợ cho dự án:Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng hoạt động
7
cho vay dần được hoàn thiện và phong phú hơn. Ngoài cho vay tiêu dùng, cho
vay thương mại các NHTM còn tiến hành tài trợ cho các dự án bằng cách bỏ
toàn bộ hoặc một phần vốn vào một dự án thường là các dự án xây dựng nhà
máy mới. Hoạt động tài trợ dự án thường đem lại cho ngân hàng nguồn thu
nhập tương đối lớn nhờ lãi suất cao nhưng độ rủi ro không hề thấp.
1.1.3.2 Dịch vụ mua, bán ngoại tệ
Mua, bán ngoại tệ là một trong những đầu tiên mà các ngân hàng thực
hiện. Ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và
hưởng phí dịch vụ. Thị trường tài chính phát triển các NHTM không chỉ mua,
bán ngoại tệ ở trong nước mà còn tiến hành kinh doanh mua, bán ngoại tệ trên
thị trường quốc tế để hưởng chênh lệch tỷ giá của các loại ngoại tệ trên những
thị trường khác nhau tại những thời điểm khác nhau. Nghiệp vụ mua, bán
ngoại tệ thường do các ngân hàng lớn thực hiện bởi vì những giao dịch đó có
mức độ rủi ro lớn, đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao.
1.1.3.3 Dịch vụ nhận tiền gửi
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn tiền
gửi của khách hàng, nguồn đi vay và các nguồn khác (nguồn uỷ thác, nguồn
trong thanh toán…) trong đó, nguồn tiền gửi là lớn nhất và có vai trò quan
trọng trong việc hình thành các khoản cho vay đối với khách hàng. Ngân hàng
mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền và cam kết hoàn trả
đúng hạn hoặc bất cứ lúc nào khách hàng yêu cầu. Các NHTM huy động tiền
gửi trong nền kinh tế thông qua cơ chế lãi suất, số tiền lãi được coi như là một
khoản chi phí mà ngân hàng phải trả cho khách hàng gửi tiền để có thể được
sử dụng khoản tiền đó.
1.1.3.4 Dịch vụ bảo quản vật có giá
Ngân hàng thực hiện lưu giữ, bảo quản vàng và các tài sản có giá khác
cho khách hàng trong két của mình (vì vậy còn gọi dịch vụ bảo quản vật có
giá là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng giữ lại các vật có giá và giao cho
8
khách hàng giấy biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do
khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên các giấy chứng nhận
đã được sử dụng như tiền – dùng làm phương tiện thanh toán cho các giao
dịch của khách hàng. Với tiện ích nhanh chóng, thuận tiện, độ an toàn cao nên
đã khuyến khích khách hàng giao dịch với ngân hàng để sử dụng giấy chứng
nhận của ngân hàng trong thanh toán. Với dịch vụ bảo quản vật có giá ngân
hàng có thể thu được một khoản phí từ khách hàng.
1.1.3.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền
mặt, đây là hình thức thanh toán không thể thiếu trong nền kinh tế hiện nay.
Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng hoá, dịch
vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế được thực hiện bằng cách
trích chuyển tài khoản trong hệ thống ngân hàng hoặc bù trừ công nợ mà
không dùng tiền mặt. Các doanh nghiệp có các giao dịch với nhau không nhất
thiết phải trực tiếp gặp nhau và thanh toán cho nhau, mà ở đây họ đã thông
qua một người trung gian đứng ra thanh toán. Việc sử dụng dịch vụ này tiết
kiệm rất nhiều về thời gian, chi phí và nâng cao thu nhập cho các doanh
nghiệp. Mặt khác, các ngân hàng mở thêm chi nhánh, thanh toán qua ngân
hàng được mở rộng phạm vi càng tạo nhiều tiện ích cho khách hàng. Điều này
càng khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng nhờ
ngân hàng thanh toán hộ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được
xem như là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân
hàng. Hiện nay, với việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào lĩnh vực
ngân hàng nhiều phương thức thanh toán được phát triển như uỷ nhiệm thu,
uỷ nhiệm chi, thanh toán qua L/C, thanh toán bằng điện tử, thẻ thanh toán…
1.1.3.6 Dịch vụ quản lý ngân quỹ
Các NHTM mở tài khoản và giữ tiền của các doanh nghiệp và cá nhân
nên có điều kiện tìm hiểu và tạo mối quan hệ với các khách hàng đó. Với kinh
9
nghiệm quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân của mình, nhiều
NHTM đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ. Thực hiện
dịch vụ này, ngân hàng đồng ý quản lý hoạt động thu – chi cho một khách
hàng và ngân hàng được sử dụng phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các
hoạt động của mình cho đến khi khách hàng cần rút tiền mặt để thanh toán.
1.1.3.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Chính phủ các quốc gia luôn có nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp
bách trong khi thu không đáp ứng đủ nên các khoản cho vay của các NHTM
là nguồn vốn mà Chính phủ muốn tiếp cận. Với đặc quyền của mình chính
phủ thường tìm cách buộc các ngân hàng phải cam kết thực hiện ở một mức
độ nào đó các chính sách của chính phủ ngay từ khi mới thành lập. Các
NHTM phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng
lượng tiền huy động được hoặc cho vay ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà
nước…
1.1.3.8 Dịch vụ bảo lãnh
Các ngân hàng lớn thường có uy tín cao nên có khả năng đứng ra bảo
lãnh cho một doanh nghiệp trước đối tác của họ. Dịch vụ bảo lãnh tương đối
đa dạng bao gồm nhiều loại khác nhau như: Bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh
toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo chất
lượng sản phẩm, bảo lãnh đối ứng…
1.1.3.9 Dịch vụ cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Các NHTM cho phép khách hàng của mình có thể lựa chọn thuê các
thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó NHTM là
người đứng ra bỏ vốn mua máy móc, thiết bị đó và cho khách hàng thuê lại.
Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn
2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do đó, ta có thể thấy dịch vụ cho thuê của
ngân hàng cũng có điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung
và dài hạn.
10
1.1.3.10 Dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do tính chuyên môn hoá cao, đội ngũ cán bộ có trình độ cao và có
nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính nên các NHTM được các doanh
nghiệp nhờ quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính của mình. Dịch vụ
uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác đầu
tư… thậm chí được uỷ thác ngay cả trong di chúc. Nhiều khách hàng còn coi
ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính cho họ
1.1.3.11 Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
NHTM đứng ra cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái
phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ tới những người kinh
doanh chứng khoán.
1.1.3.12 Dịch vụ bảo hiểm
NHTM bán bảo hiểm cho khách hàng, đảm bảo hoàn trả cho khách hàng
trong trường hợp khách hàng đó bị rủi ro như bị chết, tai nạn, tàn phế …
1.1.3.13 Dịch vụ đại lý
NHTM lớn với chi nhánh rộng khắp cung cấp dịch vụ đại lý cho các
ngân hàng nhỏ chưa có điều kiện thiết lập chi nhánh. Khi đó, các NHTM lớn
hơn sẽ tiến hành các hoạt động thay các ngân hàng nhỏ như thanh toán hộ,
phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi, …
1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại
1.2.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá, nó phản
ánh mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu vốn với người sử dụng các nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi
khi đến hạn.
Có thể hiểu một cách đơn giản tín dụng là quan hệ giao dịch giữa các
chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia bằng
nhiều hình thức như cho vay, bán chịu hàng hoá, chiết khấu, bảo lãnh,… được
11
sử dụng trong một thời gian và theo một số điều kiện nhất định đã thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên
là ngân hàng và bên kia là các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp trong và
ngoài nước, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người
cho vay.
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội thông qua các hình thức khác nhau như tiền gửi tiết
kiệm, tiền gửi thanh toán hoặc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…
Với tư cách là người cho vay, sau khi đã huy động được một lượng vốn
tương đối ngân hàng tiến hành cung ứng vốn đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn
cho các cá nhân, tổ chức hay các doanh nghiệp vào quá trình sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng.
1.2.2 Phân loại tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau, tuỳ thuộc mục đích nghiên
cứu của mỗi tổ chức, cá nhân khác nhau. Thông thường được phân loại dựa
theo một số tiêu thức sau:
1.2.2.1 Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng)
Việc phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với ngân hàng vì thời gian liên quan trực tiếp đến tính an toàn hay mức độ
rủi ro và khả năng sinh lợi của các khoản tín dụng. Theo thời gian tín dụng
ngân hàng bao gồm
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và
thường được sử dụng để vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các
doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, thường được
sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp phục vụ cho xây dựng cơ bản, đầu
tư xây dựng mới các xí nghiệp, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và
mở rộng quy mô sản xuất.
12
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn nằm giữa 2 loại tín
dụng trên, loại tín dụng này được dùng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và
đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu
hồi vốn nhanh.
Có thể có những quy định khác nhau về thời gian của tín dụng trung và
dài hạn, có ngân hàng quy định trung hạn là từ 1 – 7 năm và dài hạn là trên 7
năm.
1.2.2.2 Căn cứ vào đối tượng tín dụng
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được dùng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế như dự trữ hàng hoá như mua nguyên vật
liệu, công cụ, dụng cụ phục vụ sản xuất. Tín dụng lưu động thường được sử
dụng để cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời.
- Tín dụng vốn cố định: Loại tín dụng được dùng để hình thành vốn để
mua tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất,
xây dựng các công trình mới phục vụ sản xuất. Thời hạn cho vay đối với loại
tín dụng này là trung và dài hạn.
1.2.2.3 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: loại tín dụng dành cho các
doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Tín dụng tiêu dùng: Hình thức tín dụng dành cho cá nhân, hộ gia đình
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng: mua sắm nhà cửa, xe cộ, vật dụng… phục vụ quá
trình sinh hoạt. Tín dụng tiêu dùng được thể hiện bằng hình thức tiền hoặc
bán chịu hàng hoá.
1.2.2.4 Phân loại căn cứ theo tài sản đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, hoạt động cấp tín dụng chỉ dựa trên uy
tín của khách hàng. Đối với khách hàng tốt, trung thực, khả năng tài chính
13
mạnh, khách hàng truyền thống ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không cần
đòi hỏi nguồn thu nợ bổ sung hay tài sản khác đảm bảo.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung cấp cho
đối tượng khách hàng cần phải có tài sản đảm bảo hoặc có sự đứng ra bảo
lãnh của bên thứ ba. Đây là những khách hàng mới đến giao dịch, khách hàng
kinh doanh trên những lĩnh vực có độ rủi ro cao, tài sản đảm bảo sẽ là căn cứ
pháp lý ràng buộc trách nhiệm của khách hàng đối với khoản vay của mình,
tăng khả năng thu hồi lại được vốn.
1.2.2.5 Phân loại theo hình thức
Tín dụng ngân hàng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập mà ngân
hàng được hưởng. Phần ngân hàng được hưởng coi như là lãi suất xác định
trước mà chủ thương phiếu phải trả, ngân hàng tuy ứng trước tiền cho khách
hàng song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
- Cho vay là việc ngân hàng cấp tiền cho khách hàng, đồng thời kèm
theo một bản cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một
khoảng thời gian nhất định.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết hoàn thành các nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không có khả năng thực hiện
các nghĩa vụ đó. Ở đây, ngân hàng không phải xuất tiền ra để thực hiện mà
ngân hàng cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để sinh lợi.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản và cho khách hàng
thuê lại theo những thoả thuận nhất định, sau đó khách hàng phải hoàn trả cả
gốc và lãi cho ngân hàng.
1.2.2.6 Phân loại tín dụng theo rủi ro
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
- Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
14
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời
hạn ngắn và khách hàng đã có kế hoạch khắc phục, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ kém, giá trị tài
sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá.
1.2.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.2.3.1 Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn
nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong xã hội có nhiều nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi thường nằm trong
tay các cá nhân, hộ gia đình. Số lượng nguồn này tương đối lớn nhưng lại nhỏ
lẻ, phân tán. NHTM với chức năng là một trung gian tài chính sẽ đứng ra gom
tất cả các nguồn này lại thành một nguồn tập trung. Với một nguồn vốn lớn
huy động được NHTM sẽ cấp cho các chủ thể tạm thời thiếu vốn đáp ứng nhu
cầu bổ sung vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy, tín dụng ngân
hàng đã tạo ra thu nhập cho các chủ thể bao gồm ngân hàng, người gửi tiền,
khách hàng đi vay. Đối với những người dư vốn, họ vừa bảo toàn được số vốn
ban đầu vừa có một khoản thu nhập từ lãi của ngân hàng trả. Đối với người đi
vay, họ đã tìm được nguồn vốn bổ sung không làm hoạt động sản xuất kinh
doanh bị gián đoạn, mặt khác trong hợp đồng tín dụng của họ đối với ngân
hàng có những điều kiện ràng buộc làm họ phải thực sự tận dụng nguồn vốn
đi vay một cách hiệu quả nhất, tạo ra thu nhập lớn nhất có thể từ nguồn vốn đi
vay được. Đối với ngân hàng cũng tạo ra được thu nhập cho mình từ khoản
chênh lệch về lãi suất cho vay và đi vay, đây cũng là nguồn thu chính của
ngân hàng là động lực để ngân hàng luôn tìm kiếm và huy động nguồn vốn
tạm thời dư thừa trong xã hội.
1.2.3.2 Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản
15
xuất mở rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển
Với việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, tín dụng ngân hàng giúp cho
quá trình sản xuất kinh doanh của xã hội diễn ra liên tục, nhưng đây cũng là
một sức ép buộc các doanh nghiệp sử dụng tín dụng ngân hàng phải luôn có
sự nỗ lực trong quá trình hoạt động của mình để tạo ra các sản phẩm có sức
cạnh tranh so với đối thủ và có được lợi nhuận lớn nhất có thể. Chính sự nỗ
đó buộc các doanh nghiệp phải có sự đầu tư, đổi mới, mở rộng quy mô sản
xuất… để đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội bằng các sản phẩm của mình.
1.2.3.3 Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc tổ
chức, điều hoà lưu thông tiền tệ
Việc thay đổi tăng, giảm cấp tín dụng cho nền kinh tế làm tăng, giảm
lượng tiền trong lưu thông. Đây là một trong những cơ sở để NHTW thực
hiện chính sách tiền tệ của mình.
1.2.3.4 Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia.
Các NHTM thông qua việc đầu tư vốn vào các ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước nhằm đổi mới công nghệ, hiện đại hoá các loại máy móc, trang
thiết bị tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giảm giá thành sản phẩm nâng cao
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.3 Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại
1.3.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng
Khái niệm về chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn, bao hàm
nhiều nội dung khác nhau, nhưng nội dung quan trọng thể hiện ở tỷ lệ nợ quá
hạn trên tổng dư nợ. Do vậy, trong một số trường hợp khi nói đến chất lượng
tín dụng theo nghĩa hẹp người ta chỉ nêu lên tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ,
tỷ lệ này càng cao thể hiện chất lượng tín dụng càng thấp và ngược lại.
Theo mức chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% và tỷ lệ nợ khó
đòi trong tổng nợ quá hạn thấp thì được coi là tín dụng có chất lượng tốt, tỷ lệ
16
này trên 5% thì được coi là nợ có vấn đề.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương
mại
Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng tại một
NHTM, tuy nhiên chủ yếu có một số chỉ tiêu cơ bản sau được dùng:
Thứ nhất, chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn: là tỷ lệ phần trăm giữa tổng các
khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ của ngân hàng tại một thời điểm nhất
định (thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm).
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Tỷ lệ nợ
quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn cho biết với 1 đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ quá
hạn. Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng tốt.
Thứ hai, chỉ tiêu về tỷ lệ nợ xấu: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu với
tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm nhất định (thường là cuối tháng,
cuối quý, cuối năm).
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Tỷ lệ nợ
xấu
T ỷ lệ nợ xấu cho biết cứ 1 đồng dư nợ của ngân hàng có bao nhiêu đồng
nợ xấu. Cũng như tỷ lệ nợ khó đòi, tỷ lệ nợ xấu càng nhỏ thì hoạt động tín
dụng của ngân hàng là rất tốt.
Theo quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của thống
đốc NHNN Việt Nam về việc “ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
17
=
Nợ xấu
Tổng dư nợ
x 100%
=
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
x 100%
dụng” có giải thích một số từ ngữ như sau:
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho
những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực
hịên nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và
hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng, nó bao gồm dự phòng
cụ thể và dự phòng chung.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi
đã quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ thuộc nhóm 2, 3, 4, 5.
Nợ xấu là khoản nợ đã quá hạn trong thời gian dài, khả năng thu hồi lại
rất thấp. Nợ xấu được coi là chi phí khác của ngân hàng nên nó làm giảm thu
nhập ròng của ngân hàng.
Nợ của các NHTM được phân làm 5 nhóm:
Nợ nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định
Nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ đã quá hạn dưới 90 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã
cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ dưới 90 ngày theo thời hạn
18
đã cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180
ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định.
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày
theo thời hạn đã được cơ cấu lại
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm theo quy định.
Thứ ba, chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng vốn: là tỷ lệ giữa tổng dư nợ so
với tổng vốn huy động.
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Hiệu suất sử dụng
vốn
=
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp chúng ta so sánh, phân tích khả năng cho vay của
ngân hàng so với khả năng huy động vốn đồng thời xác định hiệu quả của một
đồng vốn huy động được.
Thứ tư, chỉ tiêu về vòng quay vốn tín dụng trong năm là tỷ lệ giữa thu
nợ trong năm so với dư nợ bình quân năm
Vòng quay vốn tín
dụng trong năm
=
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân năm
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn vay trong năm tức
là một đồng vốn của ngân hàng được cho vay bao nhiêu lần trong năm. Chỉ
tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ ngân hàng thu được nhiều nợ và
19
chứng tỏ rằng nguồn vốn mà ngân hàng đã đầu tư vào hoạt động kinh doanh
là có hiệu quả. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cũng đánh giá được một cách tương
đối vì trong một số trường hợp kết quả chưa hẳn đã là vậy. Ví dụ, NHTM A
cho vay doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong dư nợ, các khoản tín dụng này
tương đối ổn định, khách hàng trả nợ rất đúng hạn nhưng vòng quay vốn tín
dụng lại nhỏ hơn một NHTM B nào đó chủ yếu cho vay tiêu dùng có vòng
quay vốn nhanh trong khi rủi ro cao, do đó chưa thể kết luận được về chất
lượng tín dụng của ngân hàng nào là cao hơn.
Thứ năm, chỉ tiêu về lợi nhuận:
Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt
động tín dụng
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín
dụng
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết khả năng sinh lời của vốn tín dụng, một
khoản tín dụng ngắn hạn hay dài hạn có thể xem là có chất lượng cao nếu nó
tạo ra được nhiều lợi nhuận cho khách hàng và ngược lại khoản tín dụng đó sẽ
là không đạt được hiệu quả cao nếu lợi nhuận mà nó đem lại ít. Tuy nhiên,
đây cũng là một chỉ tiêu tương đối vì nó còn phụ thuộc vào nhiều các yếu tố
khác như chính sách về lãi suất, chính sách khách hàng, mục tiêu phát triển
của ngân hàng…
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng
Thương mại.
Trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, mỗi khoản tín dụng luôn
chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm cả những yếu tố tích cực
góp phần nâng cao chất lượng của khoản tín dụng đó. Bên cạnh đó cũng có
những yếu tố có tác động ngược lại, làm giảm chất lượng tín dụng và ảnh
hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, việc phân tích, tìm hiểu các yếu
tố đó là hết sức cần thiết đối với mỗi ngân hàng để từ đó phát huy những mặt
tích cực đồng thời có những biện pháp làm giảm những mặt tiêu cực ảnh
20
hưởng tới chất lượng của mỗi khoản tín dụng.
Nhìn chung, có các nhân tố chính sau ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng mà chúng ta cần quan tâm bao gồm:
1.3.2.1 Các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng Thương mại
a. Chiến lược phát triển của ngân hàng
Đây là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân
hàng, một chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của xã hội và năng lực của bản thân ngân hàng sẽ bảo đảm cho việc chọn
lựa hướng đi đúng trong quá trình cấp tín dụng cũng như trong các hoạt động
khác của ngân hàng.
Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với các ngân hàng có quy mô
nhỏ, vốn ít, lượng thông tin nắm bắt ở mức độ hạn chế… một chiến lược sai
lầm sẽ không còn cơ hội cho ngân hàng có thể khắc phục lại được ngay, nó
ảnh hưởng lâu dài tới các hoạt động của ngân hàng trong thời gian tiếp theo.
b. Chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất trong các hoạt động
của ngân hàng, nó mang tính chất sống còn đối với bất kỳ NHTM nào. Chính
sách tín dụng đóng vai trò then chốt điều tiết các mặt hoạt động như: huy
động vốn và cho vay, lãi suất, sản phẩm tín dụng, kỹ thuật quản lý rủi ro tín
dụng và thu hút khách hàng… nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược đề ra
trong kinh doanh. Vì vậy, chính sách tín dụng trong mỗi giai đoạn phải phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, có mục tiêu, định
hướng cụ thể. Một chính sách tín dụng phù hợp sẽ tạo điều kiện cho ngân
hàng sử dụng tối ưu hoá các nguồn lực của mình một cách an toàn, nâng cao
tối đa chất lượng của các khoản tín dụng.
c. Thông tin tín dụng
Trong giai đoạn hiện nay bất kỳ một ngành nghề hay một lĩnh vực kinh
doanh nào thông tin luôn chiếm một vị trí quan trọng, đây là phần không thể
21
thiếu được trong quá trình hoạt động của xã hội. Thông tin tín dụng cũng vậy,
nó đóng góp một phần không nhỏ cho mọi thành công của bất kỳ một NHTM
nào. Nhờ có thông tin tín dụng mà Ngân hàng có thể đưa ra những quyết định
cần thiết liên quan đến các khoản cho vay, giảm thiểu được các rủi ro tín dụng
có thể xảy ra.
d. Công tác tổ chức của Ngân hàng Thương mại
Đây cũng là một nhân tố quan trọng thuộc về ngân hàng mà có ảnh
hưởng tới chất lượng các khoản tín dụng, thậm chí tới cả các hoạt động khác
của ngân hàng. Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức được bố trí, sắp xếp một
cách khoa học, tận dụng một cách tối đa thế mạnh của từng cá nhân, tạo ra sự
liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận… sẽ là cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ đáp
ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, nắm bắt cơ hội kinh doanh, quản lý chặt
chẽ và an toàn nguồn vốn của mình.
e. Chất lượng nguồn nhân lực của NHTM
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất
cứ một doanh nghiệp nào. Đối với ngân hàng cũng vậy, con người là nhân tố
không thể thay thế được cho dù các yếu tố khác có hiện đại và hoàn thiện đến
đâu, con người là nhân tố chính, nhân tố cốt lõi quyết định hiệu quả mọi hoạt
động. Con người luôn là bộ mặt, hình ảnh của ngân hàng tạo dựng lên thương
hiệu cho ngân hàng. Ngày nay, trong hoạt động ngân hàng sự cạnh tranh khốc
liệt giữa các ngân hàng càng đòi hỏi chất lượng của đội ngũ cán bộ, công
nhân viên ngân hàng cả về đạo đức lẫn nghiệp vụ chuyên môn.
f. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ
Đây là một trong những hoạt động chính của các ngân hàng, nó được
tiến hành một các thường xuyên, liên tục nhằm duy trì hoạt động của ngân
hàng diễn ra một cách an toàn và hiệu quả. Trong hoạt động cấp tín dụng, quá
trình kiểm tra, thẩm định chặt chẽ các khoản tín dụng sẽ hạn chế đến mức
thấp nhất rủi ro tín dụng có thể xảy ra, nâng cao chất lượng các khoản tín
22
dụng của ngân hàng và đảm bảo thu nhập cho ngân hàng.
1.3.2.2 Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
a. Năng lực, trình độ quản lý của các doanh nghiệp
Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp là yếu tố quan trọng
quyết định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có đội
ngũ cán bộ, công nhân viên với trình độ cao, nhiều kinh nghiệm trong quản lý
nguồn vốn đi vay là điều kiện cần thiết để đem lại hiệu quả cao trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, đảm bảo khả năng thanh toán các khoản
tín dụng cho ngân hàng.
b. Đạo đức của người đi vay
Khi đáp ứng mọi điều kiện đưa ra của ngân hàng về điều kiện đảm bảo,
cách thức sử dụng vốn vay, hoàn trả vốn… khách hàng mới được ngân hàng
cung ứng một khoản tín dụng. Tuy nhiên, sau khi đã được nhân vốn khách
hàng không thực hiện đúng các yêu cầu trong hợp đồng đối với ngân hàng mà
sử dụng vốn sai mục đích hoặc khách hàng chây ỳ trả nợ khi đã đến hạn. Rủi
ro đạo đức xảy ra làm giảm chất lượng các khoản tín dụng, ảnh hưởng tới
nguồn vốn và thu nhập của ngân hàng. Vì vậy, công tác thẩm định và quản lý
chặt chẽ các khoản tín dụng là hết sức cần thiết nó đảm bảo hạn chế được các
rủi ro có thể xảy ra trong đó có cả rủi ro về đạo đức.
c. Lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp
Đây là đặc điểm đầu tiên mà các ngân hàng cần quan tâm trước khi tiến
hành cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp hoạt động hay
đầu tư vào các lĩnh vực nhạy cảm, thường xuyên có sự biến động như bất
động sản, chứng khoán… thì thu nhập đạt được thường cao nhưng mức độ rủi
ro lớn nên tác động mạnh tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.3.2.3 Các nhân tố khác
a. Môi trường kinh tế vĩ mô
Một sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước làm ảnh hưởng
23
tới quá trình hoạt động cũng như thu nhập của các doanh nghiệp đi vay. Nếu
đó là một tác động tích cực làm hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều thuận
lợi, tạo nguồn thu nhập lớn hơn và doanh nghiệp sẽ thanh toán đầy đủ, kịp
thời các khoản vay ngân hàng. Tuy nhiên, một tác động không tốt tới quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm giảm nguồn thu nhập của
doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng thanh toán các khoản tín dụng
cho ngân hàng. Ngày nay, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập
sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới, do đó tác động của những biến động nền
kinh tế thế giới vào nền kinh tế nước ta là liên tục và rất mạnh mẽ. Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm sẽ
bị tác động đầu tiên, trong đó hoạt động liên quan đến tín dụng của ngân hàng
chịu ảnh hưởng lớn nhất.
b. Chính sách pháp luật của nhà nước
Mỗi giai đoạn khác nhau chính sách pháp luật của nhà nước luôn có sự
thay đổi tuỳ theo mục đích theo đuổi của Nhà nước cho phù hợp với tình hình
chung của giai đoạn đó. Các chính sách của nhà nước đặc biệt là của NHTW
có liên quan tới hoạt động của các NHTM như chính sách về lãi suất, chính
sách dự trữ bắt buộc, chính sách về ngoại hối…có vai trò quan trọng đối với
hoạt động của nền kinh tế nói chung và của các NHTM hay các doanh nghiệp
nói riêng. Mỗi chính sách đều có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới các
nghiệp vụ cung ứng tín dụng của ngân hàng cho khách hàng của mình.
Ví dụ, chính sách về dự trữ bắt buộc của NHTW yêu cầu các NHTM
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của mình từ 9% lên 11%. Như vậy, thêm 2% lượng
tiền huy động được của các NHTM phải gửi vào NHTW làm hạn chế tín dụng
của ngân hàng, buộc ngân hàng phải có sự lựa chọn kỹ khách hàng để cung
ứng tín dụng, đó là những khách hàng truyền thống, khách hàng có tài sản
đảm bảo lớn, khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng cao… đảm bảo chất
lượng của các khoản tín dụng.
24
c. Các yếu tố bất khả kháng
Đây là các yếu tố tác động tới ngân hàng mà ngân hàng không thể dự
đoán được trước khi nào có thể xảy ra như thiên tai, bão lũ, hoả hoạn, chiến
tranh… Khi xảy ra chúng làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn có thể dẫn tới phá sản, ảnh hưởng tới
khả năng hoàn trả các khoản nợ làm giảm sút chất lượng của các khoản tín
dụng. Đây là điều mà cả ngân hàng và khách hàng đều không muốn.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với
khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hoàng Quốc Việt.
2.1 Khái quát về chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hoàng Quốc Việt.
2.1.1 Chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh
Là một chi nhánh của NHN
O
&PTNT Việt Nam, chi nhánh Hoàng
Quốc Việt mang đầy đủ chức năng của một NHTM và có những đặc thù riêng
của một chi nhánh NHN
O
&PTNT Việt Nam. Chức năng của chi nhánh là kinh
doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế
chủ yếu trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư và diêm nghiệp.
25