Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Phân tích đánh giá tình hình và một số đề xuất nhằm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt Hà Nội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.71 KB, 107 trang )

Lời Nói Đầu
Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển và theo nhu cầu của thị
trường các loại hình dịch vụ cũng ngày một nâng cao chất lượng, dịch vụ
bảo hiểm là một trong số đó. Nhằm bảo đáp ứng những vấn đề mới của
nên kinh tế cũng như sự lo lắng về tinh thần của con người hiện nay các
loại hình nghiệp vụ bảo hiểm ngày càng đa dạng và phong phú.
Với mục tiêu phát triển Việt Nam trở thành một nước đô thị hóa thì
xây dựng đô thị vẫn luôn là vấn đề được nhà nước quan tâm và đầu tư,
ngành bảo hiểm cũng từ đó mà triển khai những nghiệp vụ bảo hiểm phù
hơp nhằm đảm bảo nhu cầu cấp thiết của các hoạt động xây dựng đô thị.
Có thể dễ dàng thấy rằng khi các công trình xây dưng ngày càng được
đầu tư với quy mô lớn thì mức rủi ro sinh ra ngày càng cao, với những sai
sót nhỏ nhưng có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, các cá nhân
chịu trách nhiệm về xây dựng thi công hay thiết kể sẽ phải chi trả một
khoản tiền vô cùng lớn để bồi thường và giải quyết hậu quả. Đó là một
gánh nặng lớn đối với không chỉ riêng một cá nhân mà với cả một tổ
chức. Chính vì ngành bảo hiểm giới thiệu sản phẩm bảo hiểm Trách
nhiệm nghề nghiệp Kiến trúc sư và Kỹ sư tư vấn.
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư
vấn ra đời giúp cho đội ngũ kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn ổn định về mặt
tài chính để yên tâm hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế kể cả khi
phát sinh trách nhiệm phải bồi thường theo phán quyết của toà án do
những lỗi sai sót bất cẩn trong quá trình thực hiện chuyên môn nghiệp
vụ của chính họ. Nghiệp vụ bảo BHTNNNN KTS & KSTV đã được triển
khai ở rất nhiều nước trên thế giới. Điều đó chứng tỏ rằng nghiệp vụ này
ra đời là một tất yếu khách quan và đã đem lại rất nhiều lợi ích cho các
KTS và KSTV cũng như đem lại lợi ích cho công ty bảo hiểm và nhà
nước. Ngoài ra nó còn góp phần đảm bảo công bằng cho xã hội nói chung
và đảm bảo công bằng cho những người bị thiệt hại nói riêng.
Bảo Việt là công ty đầu tiên triển khai hoạt động nghiệp vụ bảo
hiểm này, đến nay với hơn 10 năm kinh nghiệm công ty đã khẳng định


được uy tín của mình trên thị trường. Hiện nay tại Hà Nội các dự án thi
công công trình ngày càng nhiều, với tiêu chuẩn và yêu cầu ngày càng
cao, tuy nhiên số lượng những nhà thầu xây dưng và phụ trách thì không
lớn nên tiềm năng khách hàng của nghiệp vụ này còn hạn chế. Tuy nhiên
nhận thức được tính thiết yếu của nghiệp vụ bảo hiểm TNNN KTS &
KSTV nhiều công ty bảo hiểm cũng bắt đầu tiến hành cung cấp loại hình
dịch vụ này tạo nên sự cạnh tranh rất lớn về khách hàng cũng như hợp
đồng bảo hiểm. Chính vì vấn đề cấp thiết đó Bảo Việt Hà Nội đang cần
phải tìm ra những biện pháp để khắc phục những thiếu sót còn lại trong
quá trình thực hiện hợp đồng, với mục tiêu tăng chất lượng dịch vụ, tăng
doanh thu cho Công ty, Bảo Việt Hà Nội vẫn đang tiến hành hoàn thiện
từng bước chăm sóc khách hàng, giới thiệu sản phẩm, quảng bá thương
hiệu…
Có thể nhận thấy tuy nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV không còn
xa lạ nhưng để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và vận dụng những
cơ sở lý luận đó phù hợp với điều kiện Việt Nam trong quá trình triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm này không phải là điều đơn giản. Nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề, cùng với mong muốn được tìm hiểu,
nghiên cứu sâu và tìm hiểu tình hình triển khai của nghiệp vụ, trên cơ sở
đó đưa ra một số đề xuất nhằm thúc đẩy công tác triển khai nghiệp vụ này
nên em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích đánh giá tình hình và một số đề
xuất nhằm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt Hà Nội” làm nội dung
cho luận văn cuối khóa của mình.
Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn.
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt
Hà Nội.

Chương III: Một số đề xuất nhằm thúc đẩy quá trình triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kiến trúc sư và
kỹ sư tư vấn.
Trong thời gian thực tập tại phòng bảo hiểm Rủi ro kỹ thuật, em đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ nhân viên trong công ty
và sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của thầy giáo TS. Trịnh Hữu Hạnh
trong suốt quá trình làm chuyên đề này. Đồng thời, em xin lòng cảm ơn
tới các thầy cô giáo trong bộ môn Bảo hiểm, cùng các cô chú, anh chị cán
bộ tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian
qua.
Do còn hạn chế về mặt kiến thức cũng như không có kinh nghiệm
thực tế nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót, em mong
được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đề chuyên đề này hoàn
thiện hơn.
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM NGHỀ
NGHIỆP CHO KTS & KSTV
1.1. Tổng quan về bảo hiểm TNNN KTS & KSTV
1.1.1. Khái quát chung về bảo hiểm TNNN
Bảo hiểm TNNN là loại bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của người
được bảo hiểm phát sinh do việc vi phạm trách nhiệm nghề nghiệp. DN
bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm về mặt tài chính cho các cá nhân, tổ chức,
Cty hành nghề chuyên môn đối với trách nhiệm dân sự phát sinh từ việc
hành nghề chuyên môn. Những người hành nghề chuyên môn phải thực
hành công việc, thao tác nghề nghiệp chuyên môn với sự cẩn thận và tay
nghề đảm bảo yêu cầu chuyên môn. Tuy nhiên, thực tế vì nhiều lý do vẫn
có thể gây thiệt hại cho bên thứ ba từ những hành động bất cẩn, những sai
phạm hoặc thiếu sót trong quá trình thực hiện các công việc chuyên môn.
Bảo hiểm TNNN ra đời với mục đích bảo vệ quyền lợi của người
mua bảo hiểm, giúp giảm bớt gánh nặng về trách nhiệm bồi thường khi

rủi ro xảy ra đối với người mua bảo hiểm. Thông thường những cá nhân
hay tổ chức sử dụng loại hình bảo hiểm này thực hiện nghề nghiệp có
mức TNNN, mức rủi ro khá lớn, tác động đến nhiều người , nhiều hoạt
động , khi xảy ra rủi ro sẽ tiêu tốn rất nhiều chi phí và thiệt hại lớn. Bảo
hiểm TNNN giúp giảm bớt áp lực của người mua bảo hiểm này đối với
nghề nghiệp của họ, cũng như đối với bên thứ ba chịu thiệt hại nếu rủi ro
không may sảy ra.
1.1.2. Sự cần thiết và tác dụng bảo hiểm TNNN KTS & KSTV
BHTNNN KTS & KSTV có một số tác dụng gắn liền với đặc điểm
của ngành nghề ngoài những tác dụng chung của bảo hiểm như là “lá
chắn kinh tế” của các cá nhân và doanh nghiệp, đảm bảo ổn định đời sống
và hoạt động sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm (NĐBH),
góp phần mang lại sự an toàn, giảm thiểu rủi ro trong xã hội, tăng thu
ngân sách cho nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển…
Cũng như các ngành công nghiệp xây dựng ở nước ngoài, Việt Nam
cũng đầu tư rất nhiều tài chính nhằm cải thiện hạ tầng kinh tế cũng như
nâng cao chất lượng, hình ảnh của quốc gia. Trong quá trình thi công xây
dựng chắc chắn khó có thể tránh được những siếu sót sai lầm của các
khâu như thiết kế, thi công, lắp đặt, chọn nguyên liệu… KTS và KSTV
thường phục vụ đáp ứng cho nhu cầu của các nhà đầu tư khi thực hiện
đầu tư các công trình xây dựng hay các dự án công nghiệp. Đó là những
tài sản có giá trị lớn, đôi khi là sản nghiệp của nhiều nhà đầu tư góp vốn
lại, vì vậy tổn thất xảy ra mà KTS hoặc KSTV phải gánh chịu có thể rất
lớn, khả năng tài chính của bản thân họ không thể đáp ứng được.
Bảo hiểm TNNN KTS & KSTV giúp cho nhà đầu tư cũng như các
KTS hay KSTV yên tâm và có khả năng chi trả đảm bảo nếu không may
có sự cố xảy ra. Mặt khác bên cạnh việc giúp giải quyết khả năng chi trả
đền bù, BHTNNN còn giúp cho những cá nhân tổ chức khi tiến hành có
trách nhiệm với công việc của mình, đảm bảo đúng đủ chỉ tiêu chuẩn đề
ra khi tiến hành đánh giá kiểm tra hợp đồng… Với vai trò này nghiệp vụ

bảo hiểm này đã giúp hạn chế được tương đối lớn khả năng xảy ra thiệt
hại về vật chất cũng như con người. Sự cạnh tranh cũng là một yếu tố là
tăng rủi ro cho các KTS và KSTV. Cạnh tranh có thể diễn ra trong lĩnh
vực công nghệ, ví dụ bằng cách áp dụng những thiết kế đơn giản hơn,
những vật liệu đơn giản hơn và mới lạ có thể chưa được áp dụng cẩn
thận… trong khi các KTS hay KSTV khi có sức ép của cạnh tranh thường
sẽ cố gắng hạn chế trách nhiệm chấp nhận được giữa tiền lương và trách
nhiệm của anh ta. Từ đó nâng cao chất lượng cũng như nâng cao hiệu quả
công trình tại Việt Nam.
1.1.3. Vai trò của bảo hiểm TNNN KTS & KSTV ở Việt Nam
BHTNNN KTS & KSTV có một số tác dụng gắn liền với đặc điểm
của ngành nghề ngoài những tác dụng chung của bảo hiểm như là “lá
chắn kinh tế” của các cá nhân và doanh nghiệp, đảm bảo ổn định đời sống
và hoạt động sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm (NĐBH),
góp phần mang lại sự an toàn, giảm thiểu rủi ro trong xã hội, tăng thu
ngân sách cho nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển…
Cũng như các ngành công nghiệp xây dựng ở nước ngoài, Việt Nam
cũng đầu tư rất nhiều tài chính nhằm cải thiện hạ tầng kinh tế cũng như
nâng cao chất lượng, hình ảnh của quốc gia. Trong quá trình thi công xây
dựng chắc chắn khó có thể tránh được những siếu sót sai lầm của các
khâu như thiết kế, thi công, lắp đặt, chọn nguyên liệu… KTS và KSTV
thường phục vụ đáp ứng cho nhu cầu của các nhà đầu tư khi thực hiện
đầu tư các công trình xây dựng hay các dự án công nghiệp. Đó là những
tài sản có giá trị lớn, đôi khi là sản nghiệp của nhiều nhà đầu tư góp vốn
lại, vì vậy tổn thất xảy ra mà KTS hoặc KSTV phải gánh chịu có thể rất
lớn, khả năng tài chính của bản thân họ không thể đáp ứng được.
Bảo hiểm TNNN KTS & KSTV giúp cho nhà đầu tư cũng như các
KTS hay KSTV yên tâm và có khả năng chi trả đảm bảo nếu không may
có sự cố xảy ra. Mặt khác bên cạnh việc giúp giải quyết khả năng chi trả
đền bù, BHTNNN còn giúp cho những cá nhân tổ chức khi tiến hành có

trách nhiệm với công việc của mình, đảm bảo đúng đủ chỉ tiêu chuẩn đề
ra khi tiến hành đánh giá kiểm tra hợp đồng… Với vai trò này nghiệp vụ
bảo hiểm này đã giúp hạn chế được tương đối lớn khả năng xảy ra thiệt
hại về vật chất cũng như con người. Sự cạnh tranh cũng là một yếu tố là
tăng rủi ro cho các KTS và KSTV. Cạnh tranh có thể diễn ra trong lĩnh
vực công nghệ, ví dụ bằng cách áp dụng những thiết kế đơn giản hơn,
những vật liệu đơn giản hơn và mới lạ có thể chưa được áp dụng cẩn
thận… trong khi các KTS hay KSTV khi có sức ép của cạnh tranh thường
sẽ cố gắng hạn chế trách nhiệm chấp nhận được giữa tiền lương và trách
nhiệm của anh ta. Từ đó nâng cao chất lượng cũng như nâng cao hiệu quả
công trình tại Việt Nam.
Theo thông tư số 76/2003/TT-BTC ngày 04/8/2003 hướng dẫn về
bảo hiểm trong đầu tư và xây dựng, có quy định: Bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp tư vấn đầu tư và xây dựng, thực hiện việc mua bảo hiểm bắt
buộc đối với các cá nhân và tổ chức khi tham gia hoạt động tư vấn đầu tư
và xây dựng và hoạt động thi công xây lắp công trình, không phân biệt
nguồn vốn đầu tư. Việt Nam đang rất khuyến khích phát triển nghiệp vụ
bảo hiểm này, không chỉ bởi tính cấp thiết nhất thời đảm bảo năng lực bồi
thường, giải quyết hậu quả mà còn là tính phát triển bền vững dài lâu, tạo
nên một nền móng vững chắc, làm việc có quy trình quy tắc hiện đại đủ
tiêu chuẩn… từ đó phát triển các công trình, quy hoạch đô thị… đẩy
mạnh phát triển ngành dịch vụ bảo hiểm , đồng thời phát triển kinh tế đất
nước một cách hiệu quả chắc chắn.
1.2. Quá trình phát triển của nghiệp vụ TNNN KTS & KSTV
Lịch sử phát triển của bảo hiểm là một quá trình đã kéo dài từ cách
đây hàng nghìn năm, bắt đầu từ những nhu cầu cơ bản của con người, xã
hội ngày càng hiện đại , các hoạt động kinh doanh được mở rộng làm
phát sinh những nhu cầu bảo hiểm ngày càng phức tạp. Cũng từ đó ngày
càng nhiều các loại bảo hiểm được hình thành nhằm đáp ứng những yêu
cầu thiết thực trong đời sống sinh hoạt và làm việc.

Nước Anh là quê hương của nhiều loại hình bảo hiểm như bảo hiểm
hàng hải, bảo hiểm cháy, bảo hiểm nhân thọ… BHTNNN KTS & KSTV
cũng không nằm ngoài quy luật này. So với các loại hình BHTN NN
khác, BHTNNN KTS & KSTV ra đời muộn hơn. Cụ thể, ngay từ năm
1880, Luật trách nhiệm chủ sử dụng lao động ra đời ở Anh không chỉ
khai sinh ra loại hình BHTN chủ lao động mà còn tạo ra nhu cầu về
BHTN NN ở rất nhiều ngành nghề. Vào năm 1896, tổ chức “Northern
Accident” đã triển khai BHTN của dược sỹ và bán BHTN của luật sư
vào đầu thế kỷ 20. Năm 1922, loại BHTN của KTS cũng bắt đầu được
bán ở Lloyd’s. Trong thế kỷ 20, do quyết định của luật pháp và quyết
định của tòa án, trách nhiệm của các nhà chuyên môn nói chung và KTS,
KSTV nói riêng đã tăng lên đáng kể. Hơn nữa, những nguy hiểm trong
hoạt động của họ ngày càng lớn, vì kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao đã
kéo theo giá trị của các công trình và dự án cũng ngày càng lớn, tổn thất
nếu có sẽ rất lớn. Chính vì thế, BHTNNN KTS & KSTV không những
tiếp tục được duy trì mà còn ngày càng phát triển.
Tại Việt Nam, Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (ban hành kèm
theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ) cùng
với Thông tư số 137/1999/TT-BTC ngày 19/11/1999 của Bộ Tài chính
hướng dẫn bảo hiểm công trình xây dựng là những văn bản pháp luật có
vai trò quan trọng đối với sự ra đời của nghiệp vụ BHTNNN KTS &
KSTV.
Cho đến nay các văn bản pháp quy quản lý trong xây dựng đầu tư đã
được sửa đổi, bổ sung thành Nghị định của Chính phủ số 07/2003/NĐ-CP
ngày 30/01/2003 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý
đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP
ngày 08/7/1999 và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của
Chính phủ, cùng với Thông tư số 76/2003/TT-BTC ngày 04/8/2003
hướng dẫn về bảo hiểm trong đầu tư và xây dựng.
Nhận thấy tiềm năng của thị trường, Tổng công ty bảo hiểm Việt

Nam (Bảo Việt) đã xúc tiến nghiên cứu loại hình bảo hiểm này cùng với
sự giúp đỡ của các đồng nghiệp nước ngoài, đặc biệt là công ty tái bảo
hiểm Munich Re. Bảo Việt đã áp dụng mẫu đơn BHTNNN KTS & KSTV
của Munich Re có sự điều chỉnh biên soạn lại cho phù hợp với điều kiện
Việt Nam. Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, ngày 5/11/2001 Bảo
Việt đưa ra Quyết định số 3435/2001/BV/QĐ-TGĐ quyết định về việc
cho phép các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ thành viên của Bảo Việt
triển khai BHTNNN KTS & KSTV.
1.3. Khái quát chung về tình hình khai thác thị trường bảo hiểm TNNN
KTS & KSTV ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình chung thị trường bảo hiểm Việt Nam
Những năm gần đây khó khăn từ nền kinh tế thế giới cũng như của
nước ta đã tác động đến nhiều ngành kinh tế. Ngành bảo hiểm Việt Nam
cũng không tránh khỏi những sóng gió chung như trong lĩnh vực bảo
hiểm phi nhân thọ nợ phí tồn đọng lớn, bảo hiểm nhân thọ sụt giảm
nhanh… Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn đang tăng trưởng,
nhiều doanh nghiệp vẫn trụ vững để phát triển.
Hiện nay, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ngày
càng đa dạng hơn và đi vào chiều sâu nhằm đảm bảo lựa chọn các hình
thức đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh
tế cao như gửi ngân hàng, góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty
cổ phần. Mặt khác, do đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm và do kỹ
thuật quản lý quỹ bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vốn nhàn
rỗi từ dự phòng nghiệp vụ phải đảm bảo tỷ lệ an toàn theo quy định của
pháp luật.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của thị trường bảo hiểm
Việt Nam, nhất là trong thời gian 5 năm gần đây tăng khoảng 22%, (theo
báo cáo đánh giá của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam) đã cho thấy thế mạnh
và bước đột phá lớn của ngành bảo hiểm Việt Nam. Năng lực tài chính
của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng mạnh thông qua vốn chủ sở hữu và

dự phòng nghiệp vụ làm cho khả năng thanh toán và mức giữ lại của từng
doanh nghiệp bảo hiểm nâng lên rõ rệt, tăng khả năng nhận tái bảo hiểm
từ đó tạo ra nguồn vốn lớn để đầu tư lại cho nền kinh tế quốc dân. mặc
dù đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận nêu trên, tuy nhiên, thị
trường bảo hiểm Việt Nam vẫn còn khá nhỏ về quy mô, tỷ lệ doanh thu
phí trên GDP mới chỉ đạt mức xấp xỉ 2% so với mức trung bình 3,2%
trong khu vực ASEAN và 6,5% trên toàn thế giới. Điều này cho thấy tiềm
năng của thị trường rất lớn, còn nhiều cơ hội để phát triển. Ngoài ra, thị
trường bảo hiểm vẫn còn một số tồn tại như sản phẩm trên thị trường mặc
dù nhiều nhưng chưa đa dạng và còn ít các sản phẩm vì mục đích cộng
đồng và an sinh xã hội; năng lực quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp
còn hạn chế, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn tồn tại, hiện
tượng trục lợi bảo hiểm đang có xu hướng gia tăng.
Chính phủ và các cơ quan bảo hiểm đã và đang tiếp tục đầu tư để có
thể hoàn chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp; kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ
khó khăn, giúp cho thị trường bảo hiểm phát triển an toàn, lành mạnh với
tốc độ tăng trưởng, hiệu quả cao hơn.
1.3.2. Thực tiễn khai thác bảo hiểm TNNN KTS & KSTV ở thị trường Việt
Nam
Giống như các nhà hoạt động chuyên môn khác, yêu cầu chuyên
môn cao cũng là khó khăn cho các KTS và KSTV. Các yêu cầu hoàn
thiện nghề nghiệp luôn tăng lên, và các rủi ro chuyên môn mới bổ sung
vào các rủi ro truyền thống. KTS và KSTV đưa ra giải pháp mà chủ đầu
tư yêu cầu, mà đương nhiên luôn phải là giải pháp tối ưu nhất. Nhìn
chung, điều này được thực hiện chỉ khi họ thực sự có trình độ, luôn bám
sát việc ứng dụng công nghệ mới trong lĩnh vực của mình bởi vì vật liệu
xây dựng và kỹ thuật xây dựng từng ngày được thay thế. Kể cả khi họ sử
dụng những vật liệu mới nhất định nào đó, họ cũng phải chịu trách nhiệm
trước chủ đầu tư về việc khẳng định những vật liệu này phù hợp với công
trình thiết kế. Do mong muốn có được sản phẩm tiện lợi và hiện đại, việc

áp dụng cái mới sẽ làm tăng mức độ rủi ro trong hoạt động chuyên môn
của các KTS và KSTV. Như vậy, nếu anh talà một chuyên gia có chuyên
môn cao, những yêu cầu đối với anh ta tăng lên, còn nếu bản thân anh ta
không được đào tạo về chuyên môn cụ thể đó, anh ta phải thuê các
chuyên gia nhằm thực hiện những yêu cầu cụ thể của công việc. Ví dụ:
Khi một nhà máy được chuẩn bị xây dựng và lắp đặt, các tòa nhà theo
yêu cầu phải được thiết kế, hệ thống đường điện phải được thiết kế, các
kế hoạch lắp đặt và các kế hoạch chi tiết phải được lập, kế hoạch mua
sắm các thiết bị cũng phải được chuẩn bị… Nhiều công việc liên quan
đến một dự án lớn như vậy có thể được thực hiện bởi một số lượng lớn
các nhà thầu. Thông thường, sẽ có nhiều văn phòng kỹ sư tham gia vào
việc lập kế hoạch cho một dự án lớn. Các văn phòng này hoặc là do một
văn phòng đại diện thuê, hoặc là do người chủ, nhà tổng thầu hoặc một
tập đoàn thuê để làm những công việc đặc biệt. Vì có nhiều hãng hợp tác
với nhau, và thông thường vài văn phòng KSTV hợp tác với nhau, những
rủi ro là các thiếu hụt hoặc sự chồng chéo trong việc lập kế hoạch sẽ ảnh
hưởng đến việc vận hành trơn tru của toàn bộ công việc.
Sự cạnh tranh cũng là một yếu tố là tăng rủi ro cho các KTS và
KSTV. Cạnh tranh có thể diễn ra trong lĩnh vực công nghệ, ví dụ bằng
cách áp dụng những thiết kế đơn giản hơn, những vật liệu đơn giản hơn
và mới lạ có thể chưa được áp dụng cẩn thận… Chủ lao động hoặc tổng
thầu khi thuê KTS và KSTV sẽ buộc anh ta phải chịu trách nhiệm ít nhất
là theo các điều khoản pháp lý, đôi khi còn ngoài những điều khoản này,
trong khi các KTS hay KSTV sẽ bị sức ép của cạnh tranh thường quan
tâm đến việc hạn chế trách nhiệm chấp nhận được (theo quan điểm của
anh ta) giữa tiền công và trách nhiệm của anh ta.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật ngày càng chặt chẽ đòi hỏi nâng cao
kiến thức chuyên môn và nghĩa vụ phải thận trọng, mở rộng trách nhiệm
của KTS và KSTV dựa trên cơ sở lỗi, đôi khi làm cho loại hình bảo hiểm
này trở nên bắt buộc đối với các KTS và KSTV. Vì thế, phải thừa nhận

rằng BHTNNN cũng sẽ là yêu cầu của các nhà đầu tư đối với KTS và
KSTV, và đó là yếu tố làm tăng khả năng cạnh tranh giữa các KTS và
KSTV với nhau. Ngược lại, vấn đề cạnh tranh cũng tác động làm tăng vai
trò của BHTNNN KTS & KSTV vì các KTS và KSTV được bảo hiểm
theo Đơn bảo hiểm loại này sẽ có ưu thế hơn trong mắt các nhà thầu và
các nhà đầu tư.
Ở Việt Nam theo thông tư số 76/2003/TT-BTC ngày 04/8/2003
hướng dẫn về bảo hiểm trong đầu tư và xây dựng, có quy định: Bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp tư vấn đầu tư và xây dựng, thực hiện việc mua
bảo hiểm bắt buộc đối với các cá nhân và tổ chức khi tham gia hoạt động
tư vấn đầu tư và xây dựng và hoạt động thi công xây lắp công trình,
không phân biệt nguồn vốn đầu tư.
Thực tế đã chỉ ra rằng các KTS và KSTV ngày càng gặp nhiều khó
khăn hơn mọi nơi trên thế giới. Số lượng những vụ kiện trách nhiệm nghề
nghiệp trong lĩnh vực này trên thế giới ngày càng gia tăng. Tất cả nhứng
vấn đề trên đã khẳng định sự cần thiết của BHTNNN KTS & KSTV, đặc
biệt trong thời kỳ ngành công nghiệp xây dựng và đầu tư cơ bản đang
phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
1.4. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ TNNN KTS & KSTV
1.4.1. Khái niệm một số thuật ngữ liên quan
Kiến trúc sư
Kiến trúc sư có thể được coi là một người có chuyên môn trong việc
lập kế hoạch/ thiết kế công trình xây dựng hoặc những công việc khác
đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong việc tổ chức sắp xếp xây dựng
theo hợp đồng, trong giám sát công việc và quản lý theo hợp đồng cho tới
khi hoàn thành.
Tại hầu hết các nước bất cứ ai sử dụng chức danh “KTS” đều phải
được đăng ký và việc sử dụng bất kỳ một cái tên hay chức danh bao gồm
từ “KTS” mà không được đăng ký sẽ là vy phạm phát luật. Đối với Việt
Na, Bộ Xây dựng đã ban hành quyết định số 23/2000/QĐ-BXD về việc

ban hành Quy chế cấp chứng chỉ hành nghề thiết kế công trình.
Kỹ sư tư vấn.
Trong khuôn khổ của luận văn này, từ “kỹ sư tư vấn” được dùng để
chỉ những người mà hoạt động của họ có liên quan chặt chẽ với lĩnh vực
xây dựng, chẳng hanh kỹ sư kết cấu, kỹ sư hệ thống điện, sưởi, điều hòa,
vệ sinh và chuyên gia về cách ly và cách âm.
Cũng có những KSTV thiết kế dự án công nghiệp, nghĩa là họ không
chỉ lập dự án xây dựng cho một nhà máy mà còn thực hiện những việc
liên quan đến trang bị và tổ chức nhà máy như: lập kế hoạch cơ bản để
lắp đặt hệ thống máy móc, tổ chức quy trình làm việc, tư vấn có liên quan
đến hệ thống máy móc cần thiết và hoạt động của nó, và tư vấn các vấn
đề về bố trí hoặc việc sử dụng vật tư thích hợp. Tuy nhiên, những hoạt
động này dựa trên một quy mô lớn chứ không dựa vào các tiêu chuẩn kỹ
thuật, những cái thường có trong lĩnh vực xây dựng mà thông thường
người thiết kế tin cậy.
Kỹ sư có thể có vị trí giống như KTS nhưng thường chuyên về dịch
vụ và chi tiết kỹ thuật. Ví dụ: Kỹ sư dân dụng thường quan tâm đến việc
thiết kế và xây dựng đường, cầu cống, kênh, đào, đường sắt, kênh
mương…
Thiết kế
Thiết kế là sự phác họa có tính hệ thống về số đo trong cấu trúc công
trình. Nó bao gồm tất cả những chỉ dẫn cần thiết của KTS hoặc KSTV
cho việc xây dựng công trình. Thông qua việc thiết kế, các ý tưởng được
chuyển thành các ý tưởng có thể triển khai trên thực tế. Về bản chất, thiết
kế đưa ra các bản vẽ/ đồ án (sơ đồ bố trí, bản vẽ cách vận hành, sơ đồ chi
tiết của tất cả các loại) mà mô tả rõ ràng về loại hình và số lượng các
hạng mục công việc xây dựng để trúng thầu (bỏ thầu, các loại hợp đồng,
đặc tính kỹ thuật). Ngoài ra, thiết kế cũng đưa ra những chỉ dẫn riêng trên
công trình về các hạng mục có thể được mô tả không phải trong bản vẽ,
cũng không phải trong các chi tiết kỹ thuật hoặc vẫn chưa được chỉ ra ở

đó. Các hình thức chỉ dẫn tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể mà không có các
quy định cố định đặt ra cho tài liệu chỉ dẫn.
Việc thiết kế có thể được chia thành:
• Xác định cơ sở của thiết kế: Bao gồm việc xác định vấn đề, tham
khảo các khuyến nghị có liên quan đến vấn đề cần giải quyết và đưa ra
các tiêu chí quyết định việc lựa chọn của các chuyên gia tham gia vào
công tác thiết kế.
• Chuẩn bị lập dự án (chuẩn bị dự án và lập dự án): Để chuẩn bị
lập dự án cần tiến hành các công việc như sau:
- Một là, cần tiến hành phân tích các điều kiện thực hiện thiết kế,
phối hợp các mục tiêu thiết kế đã được xác định, và chuẩn bị cho công tác
lập kế hoạch.
- Hai là, tiến hành lập bản vẽ phác thảo về tất cả những phần thiết
yếu của dự án, bao gồm tổng dự toán công trình và báo cáo thuyết minh.
- Cuối cùng, tổ chức thảo luận sơ bộ với các chuyên gia để cân
nhắc về tính khả thi của kế hoạch và trao đổi với đại diện của các cấp
chính quyền về cơ hội được cấp phép triển khai công trình.
• Kế hoạch thiết kế: Tiến hành lập bản vẽ chi tiết và chặt chẽ để hạn
chế tối đa những thay đổi trong quá trình tiến hành sau này. Trên cơ sở
các phần thiết kế bộ phần, tập hợp để hình thành bản thiết kế tổng thể.
Tiếp tục, thảo luận về khả năng nhận được giấy phép từ các cấp chính
quyền.
• Bản vẽ thi công: Hoàn thiện bản thiết kế với đầy đủ các kích cỡ
và tất cả các chi tiết cũng như chỉ dẫn cần thiết cho việc thực hiện dự án.
Lập bản vẽ thiết kế tổng thể và chi tiết có sự lý giải theo yêu cầu.
• Chuẩn bị và hoàn thành hợp đồng: Để hoàn thành bước này cần
triển khai các công việc. Thứ nhất, tính toán và biên soạn số lượng làm cơ
sở cho việc chuẩn bị các chi tiết kỹ thuật, xem xét tất cả những đóng góp
của các chuyên gia khác tham gia vào công tác lập kế hoạch. Thứ hai,
soạn thảo các chi tiết kỹ thuật cùng với các hóa đơn số lượng theo những

bộ phận khác nhau. Thứ ba, phối kết hợp các chi tiết kỹ thuật của các
chuyên gia khác tham gia vào công tác lập kế hoạch.
• Hỗ trợ trong ký kết hợp đồng: KTS và KSTV cần chuẩn bị tài liệu
hợp đồng cho tất cả các bộ phận liên quan, xác định và đánh giá yêu cầu,
phối hợp và khái quát hóa công việc của các chuyên gia tham gia ký kết
hợp đồng, thực hiện đàm phán với những người bỏ thầu và thực hiện các
hỗ trợ khác liên quan đến việc ký kết hợp đồng.
Giám sát
Trong báo cáo này, việc giám sát chỉ đề cập đến giám sát thi công
công trình liên quan đến các chi tiết thiết kế. Trong đó, giám sát thi công
công trình là việc xem xét xem thiết kế có tuân theo giấy phép hoặc phê
chuẩn xây dựng hay không cũng như việc thực hiện bản vẽ thi công và
các chi tiết kỹ thuật có đảm bảo tuân thủ theo tiêu chuẩn kỹ thuật được
công nhận và các quy định tương ứng hay không.
Công việc giám sát bao gồm cả việc kiểm soát và sửa chữa các chi
tiết của những điểm có sẵn, việc chuẩn bị và giám sát kế hoạch thực hiện,
kiểm tra số lượng cùng với các đơn vị thi công, cùng với sự hỗ trợ từ phía
các chuyên gia lập kế hoạch cân nhắc quyết định có chấp nhận việc thi
công công trình hay không. Ngoài ra, xem xét các hóa đơn, xác định các
chi phí, đăng ký để có được sự chấp nhận của chính quyền và hỗ trợ trong
các thủ tục tương ứng.
Công việc giám sát cũng bao gồm việc hoàn thiện công trình, bao
gồm việc biên soạn và chuyển giao các tài liệu theo yêu cầu, ví dụ như
các chỉ dẫn hoạt động, các tài liệu thử nghiệm. Liệt kê theo danh sách về
các giai đoạn bảo hành. Tiến hành giám sát việc dỡ bỏ các thiếu sót được
xác định trong khi công nhận công trình xây dựng và thực hiện kiểm soát
chi phí.
Nhìn chung, công việc giám sát cần sự phối hợp công việc giữa các
chuyên gia khác nhau cùng tham gia giám sát công trình.
Nghiên cứu tiền khả thi.

Nghiên cứu tiền khả thi bao gồm: các bối cảnh chung về kinh tế, xã
hội, pháp luật có ảnh hưởng đến các dự án; nghiên cứu thị trường; nghiên
cứu kỹ thuật; nghiên cứu về tổ chức các chuyên gia, công nhân; nghiên
cứu tài chính; nghiên cứu các lợi ích kinh tế-xã hội.
Nghiên cứu khả thi.
Nghiên cứu khả thi là công việc bao gồm các hoạt động diễn ra
trong hai bước đầu tiên được vạch ra trong “Thiết kế” nghĩa là: Thứ nhất,
xác định các cơ sở. Thứ hai, chuẩn bị lập dự án (chuẩn bị dự án và chuẩn
bị lập kế hoạch). Về bản chất, nghiên cứu khả thi chính là “phân tích” và
“tổng hợp”.
Về phân tích, mục đích cơ bản của phân tích là nhận diện, phân tích,
khẳng định và sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của chủ
thể được thiết kế. Để thực hiện nhiệm vụ này, các dữ liệu có được nhờ
phân tích tính khả thi kinh tế, lập chương trình và phân tích địa điểm phải
được thực hiện và tổ chức thành một mẫu cho phép sử dụng trong việc
thiết kế dự án tương ứng.
Những tài liệu này trong nhiều trường hợp có thể được người chủ
cung cấp hoặc được người tư vấn hay KTS/KSTV phát triển trong quá
trình cung cấp dịch vụ phân tích trước khi thiết kế hoặc phân tích địa
điểm.
Về tổng hợp, tổng hợp là việc kết hợp tất cả các thực tế có trong
phân tích vào một giải pháp thống nhất hoặc các giải pháp có thể, mà cuối
cùng nó cho phép chủ đầu tư quyết định việc thực hiện dự án.
Khảo sát số lượng và chất lượng.
Khảo sát số lượng và chất lượng là một quy trình riêng, việc này bao
gồm các hoạt động sau, trong đó có một số hoạt động đã được mô tả
trong phần “Thiết kế” và “Giám sát”: Dự toán chi phí và các chi tiết thiết
kế thi công; chuẩn bị hóa đơn về các chi tiết thiết kế thi công; đưa ra chi
phí sơ bộ và lập kế hoạch chi phí; lập hồ sơ dự thầu; kiến nghị loại hợp
đồng; kiến nghị về việc trúng thầu; thỏa thuận với các chủ thầu; đánh giá

công việc đang tiến hành.
Kiểm soát chi phí và lập các báo cáo tài chính: Về thực chất, đó là
việc thanh toán chi phí xây dựng cuối cùng với các nhà thầu và nhà thầu
phụ.
1.4.2. Đặc điểm bảo hiểm TNNN KTS & KSTV
1.4.2.1. Đối tượng bảo hiểm và đối tượng tham gia bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm
Việc áp dụng chế độ bảo hiểm được thực hiện khi nào? Thông
thường trách nhiệm pháp lý phát sinh khi xuất hiện hành vi trái pháp luật
của các cá nhân hay tổ chức và các hành vi này là nguyên nhân gây thiệt
hại cho bên thứ ba. Như vậy, bảo hiểm được thực hiện chỉ khi có đủ ba
điều kiện sau:
- Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba;
- Có hành vi trái pháp luật của các cá nhân hay tổ chức
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay
tổ chức và thiệt hại của bên thứ ba.
Đối tượng của BHTNNN KTS & KSTV là trách nhiệm pháp lý đối
với những tổn thất hoặc bất kỳ khiếu nại nào được lập ra để chống lại
NĐBH trong thời hạn hiệu lực của đơn bảo hiểm phát sinh từ những lỗi,
thiếu sót hoặc sự bất cẩn của NĐBH hoặc nhân viên của NĐBH trong khi
thực hiện công việc chuyên môn của mình.
Đối tượng tham gia bảo hiểm
Đối tượng tham gia bảo hiểm là các cá nhân, doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xây dựng và kiến trúc, thực hiện công việc tư vấn,
giám sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi…
BHTNNN KTS & KSTV được thiết kế cho những người thực hiện
các công việc lập kế hoạch, tư vấn, giám sát trong lĩnh vực xây dựng. Vì
thế, các KTS và kỹ sư xây dựng là những đối tượng chính thụ hưởng loại
hình dịch vụ này. Ngoài ra, còn có các KSTV thuộc các lĩnh vực khác mà
công việc của họ cũng liên quan mật thiết đến ngành xây dựng: các

chuyên gia thống kê, các kỹ sư điện, kỹ sư lắp đặt hệ thống sưởi, điều
hòa, thiết bị vệ sinh và các chuyên gia về cách âm…
Tại Việt Nam, BHTNNN KTS & KSTV là loại hình bảo hiểm bắt
buộc áp dụng đối với các dự án đầu tư bằng các nguồn vốn của nhà nước
như vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn phát triển của doanh nghiệp nhà
nước. Ngoài ra, các dự án có nguồn vốn đầu tư nước ngoài, gồm các dự
án liên doanh với nước ngoài hay các dự án 100% vốn nước ngoài cũng
nằm trong nhóm bắt buộc áp dụng hình thức bảo hiểm này.
1.4.2.2. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm xác định phạm vi trách nhiệm của doanh nghiệp
bảo hiểm, trong đó nêu rõ trong trường hợp nào thì người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm sẽ được bồi thường, và trong trường hợp nào thì
doanh nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối bồi thường. Đây là sự thoả
thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trước khi
ký kết hợp đồng bảo hiểm. Sự thoả thuận này là để tránh khiếu nại không
cần thiết từ phía người tham gia bảo hiểm khi phát sinh tổn thất mà người
bảo hiểm từ chối bồi thường với lý do tổn thất không thuộc phạm vi bảo
hiểm Bảo hiểm TNNN cho KTS & KSTV ra đời góp phần ổn định tài
chính cho các KTS & KSTV khi phát sinh trách nhiệm pháp lý phải
bồi thường. Các công ty bảo hiểm khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này
đều quy định phạm vi được bảo hiểm và các điểm loại trừ một cách rõ
ràng. Các quy định này buộc các đối tượng tham gia bảo hiểm có trách
nhiệm đề phòng hạn chế các rủi ro mà họ có thể gặp phải, đồng thời giúp
cho các công ty tránh được những rủi ro do trục lợi bảo hiểm. Trách
nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm được xác định dựa vào rủi ro xảy
ra có thuộc rủi ro được bảo hiểm của công ty bảo hiểm hay thuộc phạm vi
các điểm loại trừ.
1.4.2.3. Giới hạn trách nhiệm bồi thường.
BHTNNN KTS & KSTV được triển khai theo dự án và theo năm.

Do đó, giới hạn bồi thường tiêu chuẩn có thể là của từng dự án hoặc của
nhiều dự án trong một năm. Tại Việt Nam, giới hạn bồi thường tiêu chuẩn
của BHTNNN KTS & KSTV theo dự án là 2 tỷ đồng cho mỗi khiếu nại
và 2 tỷ đồng tổng cộng cho toàn bộ thời hạn bảo hiểm, còn của BHTNNN
KTS & KSTV theo năm là 2 tỷ đồng cho mỗi khiếu nại và 5 tỷ đồng tổng
cộng cho cả thời hạn bảo hiểm.
Người bảo hiểm đồng ý bồi thường cho NĐBH tới một giới hạn
trách nhiệm nhất định theo nguyên tắc sau:
Một là, tổng cộng tiền bồi thường không được vượt quá giới hạn bồi
thường. Giới hạn bồi thường được ghi rõ trong Giấy chứng nhận bảo
hiểm của Đơn bảo hiểm (gọi tắt sau đây là Giấy chứng nhận bảo hiểm)

×