Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Đánh giá và tìm hiểu vai trò và tiềm năng của đinh mức tín nhiệm đối với ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.57 KB, 46 trang )

I/ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
1/ Một số khái niệm
1.1/ Định mức tín nhiệm (ĐMTN)
ĐMTN được dùng để đo lường mức độ rủi ro gắn liền với một
khoảng đầu tư nào đó. ĐMTN là việc đánh giá về khả năng của một đơn
vị phát hành trong việc thực hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài
chính.
Nghĩa vụ tài chính gồm trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu, các khoảng nợ
và các khoảng tiền vay ngân hang.
Có nhiều loại ĐMTN khác nhau. ĐMTN đợt phát hành trái phiếu
và ĐMTN của đơn vị phát hành. Thông thường, người ta quan tâm nhiều
đến đợt phát hành vì nó không chỉ tính tới độ tín nhiệm của đơn vị phát
hành mà còn tính tới độ tín nhiệm của những tài sản thế chấp.
Ngoài ra còn có ĐMTN trong nước hay toàn cầu. Các tổ chức
ĐMTN trong nước sẽ ĐMTN các DN trong nước. Trong khi đó, các tổ
chức ĐMTN quốc tế sẽ định mức những đơn vị phát hành trên toàn cầu
phục vụ cho các nhà đầu tư lớn.
1.2/ Tín nhiệm DN
Tín nhiệm DN là ý kiến về khả năng của DN trong việc thực hiện
các nghĩa vụ tài chính được đưa ra bởi một tổ chức . Ý kiến này tập trung
vào việc đánh giá khả năng và mong muốn của DN trong việc thực hiện
cam kết tài chính khi chúng tới hạn. Ý kiến này không nhằm cung cấp
1 | P a g e
đảm bảo khả năng trả nợ của DN được xếp hạng với bất cứ một nghĩa vụ
tài chính cụ thể nào. Tín nhiệm DN có thể tăng hoặc giảm theo khả năng
mà DN có đáp ứng được nghĩa vụ tài chính của mình hay không.
2/ Công ty ĐMTN (CRA)
2.1/ Khái niệm
Công ty ĐMTN hay một tổ chức ĐMTN (còn được gọi là CRA) là
công ty chuyên cung cấp quan điểm của họ về độ tín thác của một DN
trong nghĩa vụ thanh toán tài chính.


CRA là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập nhằm xem xét,
phân tích và đưa ra mức định hạng tín nhiệm đối với cácư công ty đang
tìm kiếm nguồn vốn đầu tư. Nó cung cấp ý kiến về mức độ tin cậy của
một thể nhân cũng như khả năng hoàn thành những nghĩa vụ tài chính của
thể nhân đó.
Sản phẩm của CRA là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống
xếp hạng các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ… Giúp
các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo và so sánh trước khi đưa ra quyết
định nên đầu tư vào những công cụ nào.
Ngoài ra còn có những dịch vụ khác của CRA như đánh giá các tổ
chức tài chính, bảo hiểm, tính toán mức rủi ro tín dụng một khoảng cho
vay của NH, đánh giá xếp hạng quản trị DN, cung cấp thông tin tài
chính,
CRA là một định chế tài chính cao cấp nhất của thị trường tài
2 | P a g e
chính. Vì thế, hoạt động của CRA đòi hỏi tính độc lập, tính tin cậy và
chuyên nghiệp rất cao. Có như vậy mới có thể hướng dẫn đầu tư đồng
thời tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư.
2.2/ Sự khác biệt giữa một CRA và một số tổ chức khác như tư
vấn tài chính, dịch vụ thông tin, các công ty kiểm tóan, ISO,…
Thực chất, chức năng của các loại hình dịch vụ này là như nhau vì
chúng đều nhằm hướng đến việc phân tích, đánh giá để đưa ra các
thôngtin tư vấn kịp thời cho các DN.
Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá một DN, ngoài việc phân tích
theo góc độ tài chính như các tổ chức khác, CRA còn quan tâm đến các
chỉ tiêu phi tài chính. Các chỉ tiêu đó là năng lực cạnh tranh của DN, triển
vọng phát triển của sản phẩm, xu hướng thị trường, ý kiến và phản ứng
của người tiêu dung về các sản phẩm và dịch vụ của DN,…
Kết quả đánh giá sẽ là sự kết hợp giữa kết quả phân tích các chỉ
tiêu tài chính và phi tài chính có tính khác biệt về nghành và qui mô.

2.3/ Các mô hình của CRA
Trên thế giới, hiện có ba loại hình CRA:
● Thứ nhất: Mô hình CRA 100% vốn nước ngoài.
Đây là loại hình do các CRA nước ngoài thành lập và hoạt động
dưới dạng mở chi nhánh tại nước sở tại hoặc đăng ký thành lập công ty.
Mô hình này thường chỉ có một pháp nhân đứng ra thành lập hoặc có hai
pháp nhân nước ngoài.
3 | P a g e
Để mô hình này có thể đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một thị trường
trái phiếu phát triển nhất định và có sự đầu tư lớn từ trong nước cũng như
quốc tế.
● Thứ hai: Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nươc ngoài
Mô hình này do các CRA nội địa và CRA nước ngoài cùng thiết
lập liên doanh để khai thác một số dịch vụ của ĐMTN. Để xây dựng mô
hình thì đối tác trong nước phải là một tổ chức tài chính hoặc một DN đã
rất am hiểu về hoạt động của CRA mới phát huy được vai trò của nó và
tránh không bị đối tác nước ngoài chi phối.
● Thứ ba: Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông
chiến lược nước ngoài.
Với mô hình loại này thì CRA đóng vai trò là một công ty cổ phần,
trong đó ngoài các cổ đông trong nước còn có sự tham gia của các cổ
đông chiến lược nước ngoài. Họ là những nhà đầu tư lớn, có vai trò đặc
biệt quan trong trong việc chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân sự và cử
người điều hành DN. Trong mô hình này không có sự phân biệt đối xử
giữa cổ đông trong nước và nước ngoài về tỷ lệ sở hữu. Nguyên tắc phan
bổ tỷ lệ sở hữu là tùy thuộc vào vai trò của từng nhà đầu tư trong việc
hình thành sự ra đời và hoạt động của CRA.
3/ Các hình thức của ĐMTN
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế
giới. Hoạt động của các tổ chức ĐMTN rất đa dạng với nhiều hình thức

4 | P a g e
và dịch vụ khác nhau.
3.1/ Cung cấp thông tin tín nhiệm DN
● Thông tin tín nhiệm DN :
Thông tin tín nhiệm là những thông tin ngắn gọn, chính xác được
kiểm chứng bởi một tổ chức ĐMTN có uy tín. Thông tin tín nhiệm nhằm
đánh giá khả năng thanh toán, mức độ tín nhiệm của một cá nhân, một
DN, một nghành hoặc một quốc gia. Thông tin tín nhiệm DN giúp các
nhà quản lý ra quyết định nhanh hơn và chính xác hơn nhằm hạn chế rủi
ro trong kinh doanh.
● Cung cấp thông tin tín nhiệm DN:
Đây là một dịch vụ mà các CRA có nghĩa vụ sẽ thường xuyên
ĐMTN các công ty có yêu cầu được định mức xếp hạng nhằm phục vụ
cho nhà đầu tư của công ty. Trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng,
CRA sẽ luôn cập nhật thông tin, theo sát các công ty và nghành những sự
kiện có ý nghĩa hoặc những sự phát triển có ảnh hưởng tới kết quả định
mức nhằm đảm bảo quá trình ĐMTN một cách chính xác. Ít nhất một
năm một lần, CRA sẽ đánh giá lại mỗi công ty. Bất cứ lúc nào trong suốt
quá trình giám sát, CRA cũng có thể ban hành hai loại công bố:
 Cảnh bảo tín nhiệm:
Là lời cảnh báo cho công chúng rằng, đã xảy ra một sự kiện gì đó
hoặc là về điều kiện kinh doanh hoặc là một sự kiện trong công ty mà có
thể ảnh hưởng đến ĐMTN. Cảnh báo tín nhiệm có nghĩa là CRA sẽ đánh
5 | P a g e
giá các sự kiện và các sự kiện này có thể được cho rằng “tích cực”, “tiêu
cực”, hoặc “đang phát triển” phụ thuộc vào các tình huống cụ thể. ĐMTN
hiện thời vẫn còn hiệu lực cho đến khi CRA hoàn thành đánh giá đầy đủ.
 Cập nhật tín nhiệm:
Là việc xem xét lại ĐMTN đã ban hành trước đó. Bản mới được
công bố sau khi CRA đánh giá được ảnh hưởng của một sự kiện có ý

nghĩa và nó bao gồm những thông tin bổ sung cho ĐMTN đã công bố
trước đó. Cập nhật ĐMTN và công bố ĐMTN sẽ “thăng hạng”, “xuống
hạng” hoặc bị hủy bỏ.
3.2/ Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng DN
Đây là một trong những dịch vụ chính của loại hình kinh doanh tín
nhiệm DN. Đánh giá tín nhiệm là một dịch vụ rất phổ biến trên thế giới.
Ở hầu hết các nước phát triển và nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á
đã có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Đây là một dịch vụ hết
sức cần thiết đối với nền kinh tế thị trường, đặc biệt là đối với các NH.
Đánh giá tín nhiệm hay xếp hạng tín nhiệm DN là việc đánh giá
khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ của một công ty, hay đánh giá mức độ
rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Các loại đầu tư này có thể
dưới dạng các công cụ cho vay như vay và gửi tiền tại NH, hay có thể
dưới dạng các chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu, thương phiếu…
Xếp hạng DNlà một phần của quá trình cung cấp thông tin tín
nhiệm DN thôngqua các khâu thu thập, sàng lọc, chia nhóm, phân tích,
6 | P a g e
đánh giá, so sánh và cho điểm các thông tin tín nhiệm để xếp hạng các
DN theo các cấp độ khác nhau. Mục đích của việc xếp hạng DN là đưa ra
ý kiến về khả năng thực hiện một nghĩa vụ tài chính của DN ví các DN
thường sử dụng vốn kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nhà
đầu tư, các NH hay từ nguồn vốn của các nhà cung cấp. Vì vậy mà nó rất
cần thiết cho nền kinh tế, đặc biệt là đối với hoạt động của NH.
Khi tham gia đánh giá tín nhiệm, DN sẽ được nhận những thông tin
đánh giá độc lập, khách quan về tình hình tài chính, khả năng thanh toán
nợ. Mặt khác, các DN còn nhận được dich vụ tư vấn tài chính, quản lý,
quan hệ công chúng (PR)… Tuy nhiên, để có thể đánh giá tín nhiệm của
một DN, các CRA phải dựa trên hai chỉ tiêu là tài chính và phi tài chính.
Có hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các phương pháp kiểm tra chéo phức tạp
để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA, BB… cho mức độ tín

nhiệm của DN .
Chỉ tiêu tài chính bao gồm các con số về vốn, vòng vay, khả năng
thanh toán, tín dụng, thua lỗ, các chỉ số tài chính…
Các chỉ tiêu phi tài chính bao gồm những thôngtin liên quan tới
giám đốc, ISO, thương hiệu hoặc nhân sự, những tai tiếng, uy tín trên
thương trường…
Những chỉ tiêu tài chính sẽ được lượng hóa, những chỉ tiêu phi tài
chính sẽ qua sự đánh giá của các chuyên gia trong ngành. Và nhiệm vụ
của các DN là phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác những tài
7 | P a g e
liệu, thong tin về tình hình tài chính và phi tài chính trong phạm vi của
mình theo yêu cầu của các tổ chức đánh giá. Ngoài ra còn phải tạo điều
kiện cho cán bộ đánh giá trong quá trình kiểm tra, thẩm định lại các thông
tin một cách chính xác.
4. Tiêu chuẩn của một tổ chức ĐMTN
Các tiêu chí tối thiểu của một CRA cần phải đạt được gồm: Khách
quan, độc lập, minh bạch, công khai và chuyên nghiệp. Những tiêu chuẩn
này do NH Thanh toán quốc tế đề ra và đã được các nhà đầu tư trên thế
giới thừa nhận.
Điều cần lưu ý ở đây là, tuy nhiệm vụ chính của các CRA là đánh
giá mức độ tín nhiệm của các DN, nhưng khách hàng chủ chốt của các
CRA là các nhà đầu tư chứ không pahỉ các DNhay các nhà phát hành mặc
dù họ là người trả phí dịch vụ ĐMTN. Vì vậy mà yêu cầu đối với tổ chức
này là khá khắt khe.
Đó phải là một tổ chức hoạt động với tư cách độc lập. Độc lập là
mình không chịu sức ép của bất cứ quyền lực nào, không chịu sự chi phối
trong các qui định được đưa ra bởi bất cứ một cơ quan nào, không xung
đột hay có mối quan hệ lợi ích với các tổ chức được ĐMTN. Có như vậy
các đánh giá tín nhiệm mới mang tính khách quan và đáng tin cậy. Đó
cũng là nhu cầu tồn tại của bản thân các CRA.

Trong điều kiện hiện nay, con người là vấn đề quan trọng hàng
đầu. Các CRA phải có một đội ngũ chuyên gia thực sự giỏi cùng với việc
8 | P a g e
xây dựng một qui trình đánh giá khoa học, khách quan và chính xác, phù
hợp với từng điều kiện của mỗi nền kinh tế. Kết quả xếp hạng phải được
thực hiện bởi một đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vự tài chính và phi tài
chính. Từ việc thu thập thông tin đến việc kiểm tra, thẩm định phải được
tiến hành một cách đầy đủ, chính xác và được đánh giá theo đúng tiêu
chuẩn quốc tế. Cuối cùng các chuyên gia đầu ngành sẽ họp và đưa ra kết
quả cuối cùng, đó là sự tổng hợp của tất cả các bước trên.
Một điều kiện cũng rất quan trọng đối với một CRA là công tác
quảng bá ra công chúng. Một tổ chức muốn đánh giá DN và muốn khẳng
định mình thì trước hết phải tạo dựng được vị thế và uy tín trong cộng
đồng DN.
Tóm lại, điều kiện để một tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động
thành công là được tin cậy, độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ
thuật - nhân lực, đầy đủ về cả số lượng lẫn chất lượng, tiếp cận được với
những thông tin đáng tin cậy về tổ chức được định mức và tạo dựng được
hình ảnh của mình trong cộng đồng DN .
II/ TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐMTN DOANH NGHIỆP
1/ Tổng quan về hoạt động của NHTM Việt Nam
Qua gần 15 năm hình thành và chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang
kinh doanh thị trường, hệ thống NHTM Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ
và có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Mặc dù đã
có nhiều cố gắng trong việc đổi mới nhưng cho đến nay, thực trạng về
9 | P a g e
hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn có rất nhiều bất cập và
hạn chế, gây khó khăn cho việc phát triển của hệ thống NHTM nói riêng
và của cả nền kinh tế nói chung.
1.1/ Về khả năng huy động vốn

Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền
kinh tế, nhu cầu về vốn của nền kinh tế luôn ở mức cao đã buộc các
NHTM phải tăng cường huy động vốn và tăng khối lượng tín dụng cho các
DN. Tuy nhiên, sự có mặt của các ngân hang nước ngoài với khả năng tài
chính dồi dào, loại hình dịch vụ ngân hang đa dạng, nhất là các dịch vụ
NH hiện đại dựa trên công nghệ cao đã buộc các NHTM Việt Nam phải
quan tâm đầu tư hiện đại hóa nghiệp vụ NH, hệ thống hạ tầng kỹ thuật để
cung cấp các dịch vụ NH hiện đại, tiện ích hơn. Nhưng quan trọng nhất
vẫn là phải tăng cường nguồn vốn tự có của chính bản thâm NH mới có
thể đáp ứng các nhu cầu về đầu tư và mở rộng cho vay. Vì vậy, trước khi
đề cập đến khả năng huy động vốn, chúng ta cần quan tâm đến tình hình
vốn điều lệ và vốn tự có của các NHTM Việt Nam vì nó có ý nghĩa rất
quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NH– là loai hình DN kinh
doanh tiền tệ nhằm thu hút vốn của các DN và dân cư.
1.1.1/ Vốn điều lệ và vốn tự có
1.1.2/ Tình hình huy động vốn
1.2/ Về hoạt động cho vay
10 | P a g e
Để có thể cung cấp đủ vốn cho nền kinh tế, hoạt động cho vay trong
các NHTM luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Trong những năm qua,
thị phần cho vay của các NHTM không ngừng tăng lên và đang ngày càng
được mở rộng. Mục đích là nhằm phục vụ cho nhiều thành phần kinh tế
trong nhiều lĩnh vực khác nhau chứ không tập trung cho vay vào các thành
phần kinh tế nhà nước như trước đây. Đó là một dấu hiệu tốt của nền kinh
tế và cũng giúp cho hoạt động của NHTM có nhiều đổi mới tốt hơn.
Bảng : Dư nợ cho vay của hệ thống NHTM Việt Nam
ĐVT: Tỷ đồng
2000 2001 2002
Cho vay Tỷ lệ
(%)

Cho vay Tỷ lệ
(%)
Cho vay Tỷ lệ
(%)
NHTM VN
NH Cổ phần
NH Nước
ngoài
123.840
18.920
29.240
72
11
17
156.950
27.950
30.100
73
13
14
206.535
40.745
33.720
73,5
14,5
12
Tổng cộng 172.000 100 215.000 100 281.000 100
Nguồn: NHnhà nước
Như vậy, với gần 75% thị phần cho vay là của hệ thống NHTM Việt
Nam đã cho ta thấy, NHTM Việt Nam đang giữ vai trò chủ đạo trong việc

cung ứng vốn cho nền kinh tế. Thế nhưng, trong hoạt động tín dụng của
ngân hang nói chung và tình hình cho vay nói riêng, không phải bao giờ
11 | P a g e
tín dụng cũng mang lại kết quả tốt. Quan trọng nhất là phải cho vay một
cách có hiệu quả các chương trình, dự án với một mức độ rủi ro thấp nhất.
Do đó, để đảm bảo ngân hang hoạt động có hiệu quả thì các NH phải cho
vay với doanh số lớn và đặc biệt là phải an toàn. Có như vậy mới có thể
đạt được lợi nhuận cao nhất và tránh không để cho nguồn vốn huy động
được bị sử dụng một cách lãng phí.
1.3/ Về khả năng thu hồi nợ
Bảng : Tỷ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ của hệ thống NHTM Việt
Nam
ĐVT: %
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 T8/2001
Cả hệ thống NH 12 12,1 9,7 9,4
NHTM Nhà nước 11 10,8 10 5,5
Nguồn: IMF, Vietnam: Statistical Appendix and Background Notes, IMF
Staff Courtry Report _ 10/5/2002, trang 75
Nợ quá hạn / Tổng dư nợ là chỉ số thể hiện tỷ lệ an toàn của một
NH. Chỉ số này để đo lường chất lượng nghiệp vụ NH. Những NHcó chỉ
số này thấp cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng của NHnày cao. Theo qui
định, nó phải đạt từ 5% trở xuống. Nhưng qua bảng số liệu ta có thể thấy,
mặc dù tỷ lệ này đang dần được cải thiện, song nó vẫn đang ở mức khá
cao. Trong khi đó, tỷ lệ này qua các năm ở các khối NHnước ngoài là khá
thấp. Xét trên cả hệ thống NHcao nhất là vào năm 1999 với 12,1%, thấp
12 | P a g e
nhất vào tháng 8/2001 với 9,4%.
Từ năm 1998 đến 1999, do tình hình hoạt động không tốt nên đã
làm tỷ lệ này tăng từ 12% lên 12,1%. Trong những năm sau đó, tỷ lệ này
đã được giảm dần, từ 12,1% chỉ còn 9,7% và đến tháng 8 /2001 chỉ còn

9,4%. Nhưng nhìn chung, tỷ lệ này giảm không nhiều, từ năm 1999 đến
tháng 8/2001 chỉ giảm có 2,7%. Tuy nhiên, đây cũng là một dấu hiệu tốt
của hệ thống NH.
Riêng đối với các NHTM Việt Nam trong giai đoạn này, ta có thể
thấy rõ chênh lệch về tỷ lệ Nợ quá hạn / Tổng dư nợ từ năm 1998 là 11%
đến tháng 8/2001 chỉ còn là 5,5%, tức là số nợ quá hạn đã giảm được đến
50%, nhưng vẫn còn lớn hơn rất nhiều so với tỷ lệ an toàn là 5%.
Một trong những nguyên nhân chính gây ra sự kém hiệu quả của
hoạt động NHTM Việt Nam chính là quyền tự chủ của các NH chưa được
tôn trọng. Việc cho vay của các NH này chịu ảnh hưởng của những yếu tố
kinh tế, đặc biệt là các khoảng cho vay đối với các DNnhà nước (DNNN).
Chẳng hạn như cho phép cung ứng các khoản vay mà không phải thế chấp
các tài sản cũng như gia hạn thêm đối với một số khoản nợ, chuyển các
khoản nợ NH thành vốn ngân sách cấp. Tình hình trên là một trong những
tồn tại còn hạn chế của hệ thống NHTM Việt Nam.
Bảng : Dư nợ cho vay của 4 NHTM Việt Nam với các DNNN
ĐVT: Tỷ đồng
13 | P a g e
DNNN (Theo các ngành sản xuất) Tổng dư nợ NH
Mía đường
Sắt thép
Phân bón
Xi măng
Giấy
3.881
896
858
2.900
746
TỔNG CỘNG

Nguồn: Tạp chí NH, số 9/2004 – trang 14
Từ bảng số liệu cho thấy, số dư nợ mà các NHTM dành cho các
DNNN là rất lớn. Lớn nhất là ngành mía đường với 3.881 tỷ đồng; hai
ngành sắt thép và phân bón gần như tương đương nhau với 896 và 858 tỷ
đồng. Thấp nhất là ngành công nghiệp giấy với 746 tỷ. Dù được cho vay
với số dư nợ lớn như vậy nhưng hoạt động ở các DNNN là khá yếu kém.
Thực tế trong thời gian qua, các DNNN trên hoạt động hầu như không có
lãi. Tình hình này đã đặt các NHTM Việt Nam trong tình trạng rủi ro rất
lớn. Chính điều đó là nguyên nhân khiến cho tiềm lực tài chính của các
NHTM tăng rất chậm, nguồn tài chính để tái đầu tư bị suy kiệt theo chu kỳ
xử lý nợ.
Ngoài ra, hoạt động cho vay của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn
chủ yếu dựa vào các tài sản dùng làm đảm bảo, thế chấp. Khi rủi ro xảy ra,
việc xử lý hoặc phát mãi những tài sản này là rất phức tạp. Về mặt pháp lý
phải qua nhiều khâu, gây mất nhiều thời gian và chi phí. Nhưng quan
14 | P a g e
trọng nhất vẫn là khâu xem xét, thẩm định dự án. Khâu này cần đòi hỏi
trình độ và tính chuyên nghiệp của bản thân NH trong việc quản lý rủi ro.
Mặc dù là khâu quan trọng và quyết định nhất, nhưng cho đến nay, hoạt
động của các bộ phận quản lý rủi ro, thẩm định dự án trong hệ thống các
NHTM Việt Nam vẫn còn rất yếu kém. Trình độ nghiệp vụ, chuyên môn
vẫn còn có sự chênh lệch rất lớn so với các nước trong khu vực và quốc tế.
Trong khi đó, những khoảng cho vay lại thu hồi không đủ dẫn đến tỷ lệ nợ
xấu, nợ quá hạn vẫn còn rất cao trong các NH. Đó là một sự lãng phí rất
lớn, vừa là một gánh nặng không chỉ đối với hệ thống NH mà đối với cả
nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Ngoài ra, sự yếu kém còn được biểu hiện cụ thể trong các kế hoạch
hoạt động kinh doanh của các NHTM. Ở Việt Nam cho đến nay, các
NHTM phần lớn vẫn thường tập trung vào các chỉ tiêu số lượng mà chưa
thực sự quan tâm đến chỉ tiêu chất lượng. Thậm chí, các chỉ tiêu số lượng

và chất lượng còn chưa phù hợp theo chuẩn quốc tế. Một điểm hạn chế rất
lớn trong hệ thống NHTM Việt Nam đó là sự thiếu minh bạch trong hoạt
động tài chính của các NH. Điều đó gây khó khăn không nhỏ trong việc
xác minh chắc chắn điều kiện và tình trạng thật sự của chất lượng tín dụng
NH. Hậu quả là lợi nhuận báo cáo của các NHdường như bị thổi phồng
nhưng không thể xác định chắc chắn là đến mức nào.
2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt nam
2.1/ Sự cần thiết:
15 | P a g e
Hiểu biết và quản lý rủi ro là chìa khóa để dẫn đến thành công của
NH. Đối với một khoảng lợi tức tiềm năng đều có sự rủi ro tương ứng.
Cho đến nay, rủi ro tín dụng là rủi ro chính yếu nhất, nó chiếm đến 80%
tổng rủi ro mà NH phải gánh chịu. Lịch sử đã cho thấy nhiều NH thất bại
vì không hiểu chính chắn về khách hàng của mình. Vì vậy, việc phân tích
hoạt động kinh doanh và đánh giá, xếp loại DN được coi là yếu tố quan
trọng hàng đầu của các NHTM Việt Nam hiện nay.
Ở các nước trên thế giới, một trong những kỹ thuật quản lý rủi ro tín
dụng của NH là phương thức sử dụng kỹ thuật phân tích để xét duyệt khả
năng và mặt uy tín về mặt tín dụng của khách hàng một cách thường
xuyên. Nếu khách hàng được sự tín nhiệm tín dụng cao thì được vay nhiều
hơn. Đó là tiến trình xét duyệt tín dụng. Các NH sẽ đưa ra các chỉ tiêu và
kèm theo các thang điểm cơ bản để đánh giá, xếp loại tín dụng theo A, B,
C… Các thông tin tín dụng của NHTW để cho các NH tham khảo.
Ở Việt Nam hiện nay, trong xu thế cạnh tranh và hội nhập tạo nên
thời cơ và thách thức mới, đối với hệ thống NHTM Việt Nam cần phải có
sự đột phá vững mạnh, đởi mới công nghệ, đa dạng hóa và nâng cao chất
lượng sản phẩm. Nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, giảm bơt tỷ lệ nợ quá
hạn hiện nay tại các NH còn khá cao, khoảng ( … ), các NH cần thận
trọng, am hiểu rõ khách hàng của mình là người đang kinh doanh như thế
nào. Vì vậy, việc phân tích tài chính, xếp loại DN là kỹ thuật nghiệp vụ

không thể thiếu được trong hoạt động tín dụng NH và đóng vai trò trong
16 | P a g e
việc quyết định chất lượng tín dụng NH, cho phép NH chủ động lựa chọn
tín dụng NH và xây dựng chính sách tín dụng hợp lý hơn.
2.2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của NHTM Việt Nam:
Trong một nền kinh tế, nếu vốn luôn được coi là điều kiện vật chất
để duy trì các hoạt động kinh tế thì sự tồn tại của các NH lại được coi là
điều kiện cần thiết cho việc lưu thông các nguồn vốn trong xã hội. Vì thế,
việc tổ chức và đảm bảo sự an toàn cho các hoạt động của NHluôn được
xem là vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển
của một đất nước. Đối với nước ta, kể từ khi Đảng và Nhà nước chủ
trương chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh
tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì hoạt động NH là một trong
những lĩnh vực chịu sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc nhất bởi các yếu tố
mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Với số nhu cầu vốn
ngày càng tăng cho các hoạt động kinh tế thị trường thì khả năng huy động
vốn trong các NH lại trở thành vấn đề cần thiết và cấp bách.
Ngày nay hầu hết những TTCK của các nước trên thế giới đều tồn
tại ít nhất một tổ chức ĐMTN, một phần là do xu thế của thời đại, nhưng
phần lớn là do vai trò quan trọng của nó trên thị trường tài chính.
► Thứ nhất, nó thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, là động
lực gián tiếp cho sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam. Các nhà
phát hành cũng thường dùng “xếp hạng tín nhiệm” như là một chiến lược
để huy động vốn. Cho đến thời điểm này, các tổ chức ĐMTN đóng vai trò
17 | P a g e
như là một cầu nối giữa nhà đầu tư và thị trường. Khi thị trường tài chính
và việc toàn cầu hóa ngày càng phát triển thì việc xếp hạng tín nhiệm được
dùng như một công cụ để giám sát thị trường tài chính, nhằm làm giảm
thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và cho cả hệ thống nói chung.
Hiện nay, Việt Nam đang nổ lực để xây dựng một nền kinh tế thị

trường trong đó sự minh bạch là điều kiện thiết yếu để chủ động hội nhập
và phát triển. TTCK là một kênh huy động vốn rất quan trọng nhưng hiện
nay vẫn phát triển một cách chậm chạp với quá nhiều biến động và rủi ro.
Một trong những nguyên nhân của sự trì trệ này là chưa có một tổ chức
đánh giá tín nhiệm. Như vậy, để TTCK phát triển, việc thành lập một tổ
chức đánh giá tín nhiệm là vấn đề hết sức cần thiết. Việc xúc tiến hình
thành CRA tại Việt Nam đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện cơ
sở hạ tầng của thị trường vốn ở Việt Nam mà trên thực tế đang đòi hỏi
phải có nhiều loại định chế trung gian có uy tín và hoạt động độc lập.
► Tầm quan trọng thứ hai của các CRA chính là sự toàn cầu hoá.
Các quỹ đầu tư giờ đây vươn ra khắp thế giới, các quan hệ tín dụng theo
đó cũng bị ảnh hưởng bởi các CRA. Họ không chỉ xếp hạng các tổ chức
phát hành mà còn xếp hạng cả các quốc gia. Bởi vì sản phẩm của các CRA
chính là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống xếp hạng các công cụ
tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ, từ đó giúp cho các nhà đầu tư có
cơ sở để tham khảo, so sánh đối chiếu kỹ càng trước khi đưa ra quyết định
đầu tư cuối cùng của mình, đó là nên đầu tư vào những công cụ nào? Điều
18 | P a g e
này có nghĩa là chính hệ thống xếp hạng mà các CRA đưa ra đóng vai trò
làm người bảo vệ các nhà đầu tư giảm bớt rất nhiều rủi ro khi đầu tư vào
chứng khoán. Bảng xếp hạng của các CRA cũng chính là một trong những
phương tiện báo hiệu sự vận động của TTCK bên cạnh những chỉ báo
khác.
Hệ thống xếp hạng của các CRA không chỉ có lợi về phía các nhà
đầu tư, mà còn mang lại lợi ích to lớn cho các công ty chứng khoán. Chính
hệ thống xếp hạng đã làm nền tảng vững chắc cho việc lựa chọn một danh
mục đầu tư lý tưởng đối với các công ty quản lý, các công ty chứng khoán
cho nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và nghiệp vụ tự doanh. Các CRA
còn là nhân tố kích hoạt TTCK thêm sôi động, tạo thêm công ăn việc làm,
nâng cao và chuẩn hoá kiến thức về phân tích kinh tế, tài chính, kế toán

Hệ quả của những nhân tố kể trên sẽ mang lại luồng sinh khí cho sự phát
triển mạnh mẽ và hoàn thiện TTCK. Điều này đặc biệt có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với TTCK Việt Nam vốn còn rất non trẻ và sơ khai.
► Thứ ba, nó là cơ sở giúp các NH nâng cao hiệu quả trong hoạt
động cho vay tín dụng, góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong
các NH. Vì sự ra đời của các CRA có nhiệm vụ là đánh giá tín nhiệm của
các DN. Nó cũng giống như việc phân tích tài chính và đánh giá rủi ro tín
dụng trong các NH. Nhưng các CRA lại là các tổ chức chuyên nghiệp hơn
với các nghiệp vụ chuyên môn và bài bản hơn. Do đó, các thông tin mà
CRA đưa ra sẽ cung cấp chính xác tình hình và tài chính thực tế của các
19 | P a g e
DN cũng như các thông tin phi tài chính khác. Những thông tin đó sẽ là
những cơ sở rất tốt giúp cho NH cho vay một cách hiệu quả nhất. Bởi chỉ
có những DN có mức xếp hạng cao, độ tín nhiệm tốt mới được phép vay
để đầu tư, sản xuất. Bản thân các DN này khi được đánh giá tín nhiệm cao
cũng có nghĩa là họ làm ăn rất hiệu quả. Như vậy, rủi ro từ những khoản
vay của các DN này là rất thấp. Và khi NH cho vay hiệu quả nghĩa là tỷ lệ
của những khoản nợ quá hạn, nợ xấu sẽ được giảm xuống. Điều đó sẽ góp
phần nâng cao hoạt động và chất lượng tín dụng trong các NH.
► Thứ tư, nó sẽ là yếu tố có tác động tích cực đến khả năng huy
động vốn trong các NH. Các CRA không chỉ đánh giá tín nhiệm các DN
mà còn phân tích, xếp hạng đối với cả các tổ chức tài chính, các công ty
bảo hiểm và các NH…
Như vậy, trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, muốn được đánh
giá cao thì bản thân các NH phải hoạt động thật tốt. Không chỉ tốt từ khâu
hoạt động cho đến việc quản lý hành chính, rủi ro tín dụng và cả về mặt
nhân sự. Khi một NH được CRA đánh giá tốt, có mức độ tín nhiệm cao
nghĩa là NH đã làm tốt các khâu trên. Điều đó không chỉ giúp cho NH thấy
được những mặt mạnh, mặt yếu cảu mình để có những hướng điều chỉnh
đúng đắn và hợp lý hơn. Mặt khác, nó còn làm cho các nhà đầu tư cảm

thấy yên tâm hơn khi gửi tiền hay đầu tư vào các cổ phiếu hoặc dự án của
NH. Lúc này, việc huy động vốn đối với các NH sẽ không còn quá khó
khăn như trước đây. Và khi vốn được huy động càng ngày càng nhiều,
20 | P a g e
nghĩa là nó đã cung cấp cho nhu cầu của thị trường vốn Việt Nam đang
ngày càng tăng, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của cả nền
kinh tế.
► Thứ năm, trong bối cảnh chung như hiện nay, khi mà các NHTM
Việt Nam đang được cổ phần hóa ngày càng nhiều và chuẩn bị được đưa
lên các sàn giao dịch chứng khoán, thì đây có thể sẽ là một kênh huy động
vốn rất lớn của các NH trong tương lai, không chỉ có các nhà đầu tư trong
nước mà còn có sự tham gia của cả các tập đoàn đầu tư tài chính nước
ngoài. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam hiện nay vẫn còn rất non trẻ. Vấn đề
thông tin luôn là một nhu cầu không bao giờ đáp ứng đủ cho các nhà đầu
tư. Vì vậy, việc nắm giữ thông tin sẽ là một yếu tố rất quan trọng giữ vai
trò quyết định đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Trong điều kiện mức độ
hiểu biết của công chúng đầu tư còn hạn chế, các kênh cung cấp thông tin
và đánh giá đúng rủi ro còn rất ít hoặc chưa có, sự xuất hiện của các CRA
sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin cho cộng đồng đầu tư, và chính bảng xếp
hạng của các CRA sẽ làm cho nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiếp cận với thị
trường (nghĩa là giúp họ có cơ sở và tự tin hơn khi thực hiện quyết định
đầu tư vào một loại chứng khoán nợ nào đó). Việt Nam đã có TTCK, song
hoạt động của các tổ chức định mức tín nhiệm vẫn chưa xuất hiện. Nhưng
vì vai trò của tổ chức này là rất quan trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang
trong quá trình hội nhập quốc tế, tự do hoá tài chính và phát triển triển
TTCK, nên việc thành lập và đưa tổ chức ĐMTN vào hoạt động tại Việt
21 | P a g e
Nam là vấn đề hết sức cấp thiết.
Tóm lại, hiệu quả hoạt động và chất lượng tín dụng của một NH
được chứng minh bằng khả năng huy động vốn, hoạt động cho vay và tình

hình dư nợ của bản than NH. Vì vậy, vai trò cảu các CRA đối với hệ thống
NHTM Việt Nam là rất lớn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt
Nam đang chuẩn bị bước vào giai đoạn hội nhập và phát triển. Tuy nhiên,
hoạt động của các NHTM Việt Nam vẫn còn rất yếu và có nhiều hạn chế.
Sự xuất hiện của các CRA sẽ là động lực to lớn giúp cho hoạt động của
các NHTM được tốt hơn, tạo điều kiện cho các NH phát triển mạnh mẽ và
ổn định.
3/ Hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế
giới. Hầu hết các nước phát triển và trong khu vực Đông Nam Á đã có các
tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tại VN, khái niệm trên
vẫn còn rất mới mẻ và loại hình kinh doanh này mới chỉ ở bước khởi đầu.
Từ năm 1996, một nhóm các cán bộ chuyên nghiệp từng công tác
trong các cơ quan thông tin tín dụng, dự án đánh giá tín nhiệm của Nhà
nước đã tập hợp nhau lại và hoạt động thông tin tín nhiệm. 5 năm sau,
Công ty TNHH Giải Pháp Việt Nam chính thức thành lập đầu năm 2001
tại Hà Nội. Công ty tập trung vào ba mảng hoạt động chính là: Thông tin
tín nhiệm, tư vấn luật và dịch vụ đại diện cho các hãng của nước ngoài.
Sau 4 năm hoạt động, năm 2004 Công ty C&R (Credit and Ratings) chính
22 | P a g e
thức được tách riêng, đánh dấu một bước phát triển lớn của Giải Pháp Việt
Nam. C&R chỉ tập trung vào hoạt động trong lĩnh vực Thông tin tín nhiệm
và xếp hạng DN . Công ty được tổ chức dưới hính thức các nhóm hạt nhân
làm việc độc lập, sáng tạo và linh hoạt. Bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên
nghiệp, công ty còn có một mạng lưới cộng tác viên, và các đại diện trên
khắp đất nước. Sự tích cóp liên tục và bền bỉ những thông tin nhỏ nhất đã
đem đến cho C&R một kho dữ liệu đồ sộ và chính xác về hoạt động của
các DN Việt Nam. Công ty thường cung cấp thông tin tín nhiệm ở 3 dạng:
 Báo cáo cơ bản.
 Báo cáo chuẩn .

 Báo cáo tổng hợp chi tiết.
Hiện nay, hoạt động của C&R cũng đã được mở rộng thông qua
cổng thông tin của trang web “Doanh nhân Việt Nam”
(www.doanhnhanvietnam.com). Khi là thành viên của website này, các
DN có quyền cung cấp thông tin về mình và cũng có quyền tiếp cận các
thông tin tín nhiệm về các DN khác trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế ở
Việt Nam và trên thế giới.
Cho đến nay, VN mới có hai DN hoạt động trong lĩnh vực ĐMTN.
Một là Công ty Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng DN (C&R) - được tách
ra từ Công ty Giải pháp VN năm 2004. Hai là Trung tâm đánh giá tín
nhiệm Vietnamnet (Credit Ratings Vietnamnet Center - CRVC) thuộc
công ty phần mềm truyền thông VASC, vừa đi vào hoạt động trong gần
23 | P a g e
một năm qua. (Bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 4/6/2005)
Những dịch vụ chủ yếu của C&R là cung cấp thông tin tín nhiệm,
xếp hạng tín nhiệm DN và điều tra thị trường theo ngành kinh tế. Trong
khi đó, dù mới ra đời, CRVC cũng đã cung cấp khá nhiều dịch vụ đa dạng
liên quan đến loại hình ĐMTN. CRVC sẽ là tổ chức chuyên cung cấp cho
DN các dịch vụ thu thập thông tin, đánh giá xếp hạng, ĐMTN các tổ chức
tài chính, xếp hạng DN .
Đồng thời, đơn vị này cũng nhận tư vấn, hỗ trợ DN trong việc tạo
dựng uy tín trên thị trường, xây dựng thương hiệu có sức cạnh tranh; thẩm
định lại các thông tin; xây dựng cơ sở dữ liệu về các DN, doanh nhân, từ
đó phát triển dịch vụ tư vấn tài chính, môi giới đầu tư
Đối tượng phục vụ chính của C&R và CRVC là các nhà đầu tư, các
DN hay hệ thống các NHtrong nước và quốc tế. Thông tin tín nhiệm và
đánh giá tín nhiệm DN là một loại hình kinh doanh đặc biệt, liên quan mật
thiết đến hình ảnh và uy tín của các DN . "Nguyên tắc hoạt động của C&R
là những thông tin đưa ra phải hoàn toàn mang tính khách quan và được
điều tra trực tiếp trên nguyên tắc ý thức trách nhiệm như của chính mình.

Trong quá trình xây dựng các chỉ tiêu, cả C&R và CRV đều tham khảo
đánh giá của các tổ chức định giá tín nhiệm lớn nhất trên thế giới là
Standard & Poor's, Moody's và Equifax…và xây dựng được hệ thống đánh
giá riêng, phù hợp với điều kiện của VN. Theo đó, hơn 100 chỉ tiêu tính
điểm và các phương pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc
24 | P a g e
xếp hạng từ AAA, AA, BB cho mức độ tín nhiệm của DN .
Sau một thời gian hoạt động, dù số lượng không nhiều nhưng những
hợp đồng mà C&R nhận được cũng cho thấy các DNVN cũng bắt đầu có
sự quan tâm tới lĩnh vực này. Tính đến nay, C&R đã cung cấp rất nhiều
báo cáo tín nhiệm cho các DN trong và ngoài nước. Còn CRV dù chỉ mới
thành lập chưa được một năm nhưng cho đến nay cũng đã nhận được rất
nhiều hợp đồng yêu cầu cung cấp thông tin đánh giá tín nhiệm của các
khách hàng khắp cả nước.
Với số lượng khoảng 15.000 DN và nền kinh tế Việt Nam đang trên
đà phát triển, hệ thống pháp luật ngày càng đổi mới và cởi mở thì việc
thành lập các DN mới sẽ ngày càng tăng lên. Khi đó, sự ra đời của một tổ
chức có thể đánh giá khả năng hoạt động và độ tín nhiệm của một DN là
rất cần thiết. Hiện nay, loại hình hoạt động của ĐMTN đang rất được nhà
nước và các DN Việt Nam quan tâm. Tuy nhiên, việc lựa chọn một mô
hình hoạt động của CRA sao cho thích hợp với những đặc điểm của nền
kinh tế Việt Nam hiện nay không phải là dễ. Mô hình công ty cổ phần có
các cổ đông chiến lược nước ngoài đang được xem là một lựa chọn mang
tính khả thi cao. Việc lựa chọn đúng các cổ đông chiến lược nước ngoài và
vận động họ tham gia thành lập công ty định mức tín nhiệm đầu tiên của
Việt Nam là con đường nhanh nhất để hình thành một tổ chức ĐMTN đủ
uy tín và đảm bảo vai trò độc lập của DN trong thị trường tài chính Việt
Nam.
25 | P a g e

×