Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

sang kien kinh lop 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.38 KB, 11 trang )

phần I : mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
Trong đời sống hàng ngày bản thân mỗi chúng ta đều sử dụng ngôn ngữ nói,
viết để giao tiếp, trao đổi công việc hay bộc lộ cảm xúc. Tuy nhiên, để thực hiện đ-
ợc những công việc đó, chúng ta cần phải có vốn từ phong phú và những hiểu biết
về nghĩa của từ, về cách dùng từ. Thực tế đã có những truờng hợp do hiểu sai về
nghĩa của từ nên dẫn đến sử dụng từ không phù hợp trong giao tiếp , trong viết văn
bản . Ví dụ : Một vị khách đến chơi nhà, sau một số câu hỏi xã giao, ông ta nói
tiếp:
- Vợ ông năm nay mấy tuổi rồi ?
Rõ ràng, vị khách dùng từ mấytrong câu là không phù hợp vìmấy chỉ dùng để
chỉ số lợng không nhiều, về giá trị biểu cảm lại thiếu tôn trọng, nên chăng vị khách
thay từ mấy bằng từ bao nhiêu.
Đối với học sinh tiểu học, việc hiểu sai nghĩa của từ, dùng từ sai, kết hợp các
từ trong câu văn, đoạn văn không phù hợp là một hiện tợng tơng đối phổ biến .
Chẳng hạn có học sinh viết:
Đôi mắt em bé rất đen láyhoặc có em lại viết:Nhờ có cây chuối mà gia đình em
đã khấm khá lênhoặc đặt câu:Vì khú chơi nên em quên lời mẹ dặn.v v Có lần,
một em học sinh lớp 1từ sân trờng chạy vào lớp học mách với tôi một cách rất hồn
nhiên:Cô ơi, một đàn các anh chị chạy vào lớp con. Tôi buồn cời nhng chợt hiểu
rằng vốn từ của các em còn ít ỏi quá, cách dùng từ của các em đôi khi ngây thơ,
ngộ nghĩnh đến đáng yêu.
Từ những câu nói, viết ngộ nghĩnh của các em, tôi nhận thấy việc giúp các em
hiểu rõ nghĩa của từ và biết dùng từ một cách chính xác là một việc làm hết sức cần
thiết đối với mỗi giáo viên tiểu học. Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu, tôi đã
tích luỹ đợc một số biện pháp giải nghĩa từ cho học sinh tiểu học.
Tôi chọn đề tài: Một số biện pháp dạy giải nghĩa từ cho học sinh tiểu học.
II. Cơ sở lý luận
Phơng pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ môn của khoa học giáo dục nên nó
phụ thuộc vào những quy luật chung của khoa học này. Lý luận dạy học đại cơng
cung cấp cho phơng pháp dạy học Tiếng Việt những hiểu biết về các quy luật


chung của việc dạy học môn học. Nó vận dụng nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy
học theo đặc trng của mình.
1
Môn Tiếng Việt là một trong những bộ môn cơ bản của nhà trờng phổ thông
nên phải thực hiện theo nguyên tắc giáo dục học. Bởi vậy nguyên tắc dạy học Tiếng
Việt phải cụ thể hóa mục tiêu và các nguyên tắc dạy học nói chung vào bộ môn của
mình.
Nh vậy mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt nằm trong mục tiêu chung
của giáo dục nớc ta trong giai đoạn mới hiện nay: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dỡng nhân tài, nhằm hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề,
có năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo.
III. Cơ sở thực tiễn :
Chơng trình dạy học chỉ quy định phạm vi dạy học của các môn. Còn nhiệm
vụ của SGK là trình bày nội dung của bộ môn một cách rõ ràng, cụ thể và chi tiết
theo cấu trúc của nó. SGK có chức năng là lĩnh hội củng cố những tri thức tiếp thu
đợc trên lớp, phát triển nhân lực trí tuệ và có tác dụng giáo dục học sinh. SGK cũng
giúp giáo viên xác định nội dung và lựa chọn phơng pháp, phơng tiện dạy học, tổ
chức tốt công tác dạy học của mình.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực trạng dạy giải nghĩa từ cho học sinh khối 5 trờng tiểu học Liêm Chính.
Đề xuất một số biện pháp giải nghĩa từ cho học sinh.
Thời gian, phạm vi nghiên cứu
1. Thời gian: Từ tháng 9 - 2010 đến tháng 3 - 2011
2 . Phạm vi: Học sinh khối 5 trờng Tiểu học Liêm Chính
phần II : Nội dung
I. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1. Đặc điểm tình hình dạy học ở khối 5 trờng Tiểu học Liêm Chính
Năm học 2010 2011 trờng Tiểu học Liêm Chính có 10 lớp,
Để phát huy khả năng giảng dạy của giáo viên đối với từng môn học đồng
thời phát triển toàn diện nhân cách học sinh, năm học 2010 - 2011, nhà trờng tiếp

tục tổ chức công tác dạy phân ban từ lớp 4 và lớp 5. Bản thân tôi đợc nhà trờng
phân công dạy một số phân môn của môn Tiếng Việt khối 5 với tổng số học sinh
52 học sinh.
II. Thực trạng dạy giải nghĩa từ cho học sinh ở trờng tiểu học Liêm Chính.
Trờng Tiểu học Thống Nhất nhiều năm qua đã có bề dày thành tích trong
công tác giảnphơng pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lợng học tập của học
2
sinh.Tuy nhiên việc giải nghĩa từ cho học sinh lại thờng đợc các đồng chí sử dụng
theo phơng pháp truyền thống tức là chỉ giảng giải cho học sinh một cách nôm na.
Chẳng hạn : sầu riêng : là loại trái cây thờng đợc trồng ở miền Nam có gai
hơi giống quả mít,trong có nhiều múi,mùi thơm,vị ngọt.
Hoặc: quả địa cầu: là hình ảnh thu nhỏ của trái đất
Hoặc : Làu bàu : là nói nh trong miệng tỏ vẻ bực dọc,khó chịu v v
Thực ra cách giải nghĩa truyền thống này giúp học sinh hiểu đợc nghĩa của
từ ngay lúc đang học bài có chứa từ đó,nếu sang bài học khác gặp lại từ đã đợc giải
nghĩa trớc đây học sinh sẽ lúng túng khi giáo viên yêu cầu nhắc lại nghĩa của từ đó.
Một nguyên nhân dẫn đến sự lúng túng đó là nhiều cách giải nghĩa của giáo viên
không gây đợc ấn tợng và khắc sâu nội dung ý nghĩa của từ. Để kiểm tra sự hiểu
biết của các em về một số từ ngữ đã học, tôi đã cho làm một bài kiểm tra nh sau
(Đối với học sinh lớp khối 5):
Nêu cách giải nghĩa của em về các từ sau: Tự kiêu, tự tin, tự ái, tự trọng.
Kết quả là:
10 em = 12,8% nêu đúng nghĩa của cả 4 từ
13 em = 16,7% nêu đúng nghĩa của 3 từ
25 em = 32,1% nêu đúng nghĩa của 2 từ
20 em = 25,6% nêu đúng nghĩa của 1 từ
10 em = 12, 8% không nêu đúng nghĩa của từ nào.
Khảo sát 1 bài tập dạng trắc nghiệm trên cả 2 lớp : Cụ thể :
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu
5A 25 1/25= 4% 6/25=24% 12/25= 48% 6/25= 24%

5B 27 6/27=22,22% 9/27=33,33% 7/27= 25,92% 3/27=11,111%
Kết quả trên cho thấy mong muốn của giáo viên đối với việc hiểu nghĩa của
từ ở học sinh cha đạt đợc.Và đó cũng là một động cơ khiến bản thân tôi tìm tòi,
nghiên cứu, tự rút kinh nghiệm trong giảng dạy giúp học sinh nắm đợc nghĩa của từ
tốt hơn.
III. Các giải pháp thực hiện
1- Dự giờ Tham khảo các biện pháp dạy giải nghĩa từ của đồng nghiệp.
Từ tháng 9/2010 đến tháng 2/2011, tôi đã dự một số tiết dạy của đồng nghiệp. Qua
thực tế dự giờ, tôi nhận thấy điểm chung trong việc dạy giải nghĩa từ là dùng biện
pháp giải nghĩa từ vựng. Giáo viên hiểu nghĩa của từ thế nào thì dạy nh thế.
3
Đối với các lớp đầu cấp, một số đồng chí đã dùng phơng pháp trực quan để giải
nghĩa. Thực ra chơng trình tiểu học không có tiết học nào dạy riêng phần giải nghĩa
từ nhng tiết học nào cũng có nội dung giải nghĩa từ đan xen, và việc dạy giải nghĩa
từ cho học sinh là thờng xuyên. Ngoài điểm chung về dạy giải nghĩa từ trên đây, tôi
cũng nhận thấy một số biện pháp khác đợc dùng trong dạy giải nghĩa từ. Tuy nhiên
các biện pháp này đợc các đồng chí giáo viên trong trờng sử dụng cha nhiều.

2 Tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp dạy giải nghĩa từ
Qua các tài liệu học tập ở trờng s phạm và các tài liệu tham khảo khác, tôi đã
nghiên cứu, thử nghiệm qua các tiết dạy, tự rút kinh nghiệm về cách dạy học sinh
hiểu nghĩa của từ.
Việc giúp học sinh hiểu đợc nghĩa của từ,biết dùng từ một cách chính xác đã
đợc bắt đầu từ khi trẻ biết nói, trong đó sự dạy bảo uốn nắn của ngời mẹ và giao
tiếp trong gia đình có ảnh hởng rất lớn đến vốn từ của trẻ . Khi trẻ đến trờng , mối
quan hệ và sự hiểu biết của trẻ rộng hơn, đòi hỏi vốn từ tăng lên và sự hiểu biết về
nghĩa của từ để dùng từ chính xác là rất cần thiết. Vì vậy mỗi thầy cô giáo phải là
những ngời chắt chiu cho học sinh từng ít kiến thức về nghĩa của từ.
* Qua tìm tòi nghiên cứu, dự giờ, rút kinh nghiệm các giờ dạy, tôi đã tập hợp
đợc một số biện pháp giải nghĩa từ nh sau:

1. Giải nghĩa bằng trực quan.
2. Giải nghĩa bằng chiết tự .
3. Giải nghĩa bằng từ đồng nghĩa,gần nghĩa,trái nghĩa.
4. Giải nghĩa bằng so sánh.
5. Giải nghĩa từ bằng đặt câu( Đặt trong ngữ cảnh)
6. Giải nghĩa từ bằng từ điển.
7. Giải nghĩa từ bằng tìm từ lạc.
Các biện pháp tổ chức thực hiện
Để dạy giải nghĩa từ, trớc hết thầy cô giáo phải hiểu nghĩa của từ và biết giải
nghĩa từ phù hợp với mục đích bài học, phù hợp với đối tợng học sinh. Việc dạy
giải nghĩa từ là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Bởi vậy,
trong giảng dạy, chúng ta có thể sử dụng một số biện pháp sau đây nhằm giúp học
sinh hiểu nghĩa của từ.
4
1 . Giải nghĩa từ bằng trực quan
Giải nghĩa từ bằng trực quan là biện pháp đa ra các vật thật, tranh ảnh, sơ đồ
v.v để giải nghĩa từ. Những hình ảnh cảm tính, những biểu tợng của trẻ về thế giới
xung quanh là một tổ hợp cần thiết cho bất kì việc dạy học nào.
Ví dụ: Cô đa ra bức tranh về hình quả măng cụt, sầu riêng cho học sinh miền Bắc
xem nói:Đây là quả măng cụt,Đây là quả sầu riêng
Khi học bài có từquả địa cầu, cô giáo lấy quả địa cầu và cho học sinh quan sát.
Trực quan chiếm vị trí quan trọng trong giải nghĩa từ ở tiểu học vì nó giúp
học sinh hiểu nghĩa của từ một cách dễ dàng. Nhng cách giải nghĩa này đòi hỏi
giáo viên phải chuẩn bị khá công phu và không thể dùng để giải thích những từ trừu
tợng. Biện pháp này nên dùng ở các lớp đầu cấp.
Tơng ứng với các biện pháp giải nghĩa từ bằng trực quan có các bài tập giải nghĩa
từ .
Ví dụ: Bài tập yêu cầu học sinh: Hãy nhìn vào tranh và chỉ xem đâu làđỉnh núi,
chân núi, sờn núihoặc đa tranh yêu cầu học sinh nêu một nét nghĩa:Dựa vào hình
vẽ, em hãy nói xem xe buýt là loại xe dùng để làm gì?.

2 .Giải nghĩa từ bằng chiết tự
Giải nghĩa từ bằng chiết tự nghĩa là phân tích các từ thành các từ tố (tiếng).
Biện pháp giải nghĩa từ này thờng đợc sử dụng trong khi dạy các từ Hán Việt.Qua
quá trình tiếp xúc ngôn ngữ hàng nghìn năm giữa hai dân tộc Trung Hoa và Việt
Nam, kho từ vựng Tiếng Việt đã tiếp nhận và sử dụng một số lợng rất lớn các từ
ngữ gốc Hán.Dạy cho học sinh hiểu và sử dụng vốn từ Hán Việt là đã giải quyết đ-
ợc một bộ phận kiến thức quan trọng về từ vựng Hán Việt.
ở tiểu học, từ Hán Việt không đợc dạy thành những bài học riêng nh trung
học cơ sở mà đợc dạy tích hợp trong các phân môn khác nhau đặc biệt là các phân
môn tập đọc, luyện từ và câu.
Ví dụ tập đọc lớp ba, trong bàiCậu bé thông minh, các từ Hán Việt đợc dạy là:
kinh đô, trọng thởng. Trong bàiAi có lỗi, các từ Hán Việt đợc dùng là:kiêu căng,
hối hận, can đảm, hay bài tập đọcTrống đồng Đông Sơnở lớp 4, các từ Hán Việt
là: chính đáng, hoa văn, vũ công, nhân bản v.v
Việc yêu cầu học sinh hiểu một số yếu tố gốc Hán thông dụng đợc học từ lớp
2. Những từ gốc Hán nhập vào từ vựng Tiếng Việt thời kì Bắc thuộc(Từ 179TCN
đến năm 938) đợc đọc theo hệ thống âm Hán cổ hay còn gọi là từ Hán Việt cổ hoặc
từ Hán Việt.
5
Ví dụ: Buồng (phòng), buông (phóng), bay (phi), bụt (Phật), mày (mi), nồm (nam)
v.v phần lớn là các từ đơn tiết đợc Việt hoá và sử dụng nh từ thuần Việt.
Lớp từ Hán Việt đợc nhập vào từ vựng Tiếng Việt thời kì độc lập tự chủ (Tức thời
kì các triều đại phong kiến Việt Nam) đợc Việt hoá và đợc gọi là từ Hán Việt.
Vídụ: nhất, nhị, tam,bút, sách,viện, trung, nghĩa, quốc, thần, chính phủ, công viên,
độc giả, bàng quan, hi sinh v.v
Khi giải nghĩa các từ gốc Hán, giáo viên nên tách thành từng yếu tố để giải
nghĩa rồi hợp nghĩa các yếu tố đó lại.
Ví dụ:-Tâm sự (Tâm:lòng; sự:nỗi), tâm sự là một từ ghép gốc Hán có nghĩa là nỗi
lòng.
-Tổ quốc (Tổ: ông cha ta từ xa xa; quốc: nớc, đất nớc) Tổ quốc là từ ghép

gốc Hán có nghĩa là đất nớc .
-Vũ công(Vũ :múa; công: ngời biểu diễn), vũ công là ngời biểu diễn nhảy
múa, diễn viên múa.
Dạy cho học sinh nắm đợc ngữ nghĩa của các yếu tố này thì sẽ nắm đợc ngữ
nghĩa của phần lớn các từ vựng Tiếng Việt và vốn từ đợc mở rộng một cách nhanh
chóng.
Ví dụ : Nếu học sinh hiểu nghĩa của từ siêu(là vợt lên, vợt qua một, vợt hẳn) thì
sẽ hiểu đợc nghĩa các từ: siêu nhân, siêu tốc, siêu thị, siêu hình, siêu đẳng.

3 Giải nghĩa từ bằng từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa.
Ví dụ : Siêng học,siêng làm tức là chăm học,chăm làm (dùng từ đồng nghĩa).
-Ngăn nắp là không lộn xộn(dùng từ trái nghĩa).
-Siêng năng là cần cù, chăm chỉ(dùng từ gần nghĩa)
Tơng ứng với cách giải nghĩa này là các bài tập yêu cầu giải nghĩa bằng
đồng nghĩa,gần nghĩa,trái nghĩa.
Ví dụ Ngày khai trờng còn gọi là ngày gì?,cha còn gọi là gì?, hoặc tìm từ
cùng nghĩa với mẹ, chạy, ăn, chết(Kể cả những từ cùng nghĩa với nhau nh-
ng sắc thái biểu cảm khác nhau).
Hoặc: Tìm các từ chỉ vẻ đẹp của con ngời
Mẫu: xinh đẹp (Học sinh có thể tìm từ xinh xắn, xinh tơi, duyên dáng).
Hoặc : Tìm từ trái nghĩa với lời biếng : thật thà, ngoan ngoãn.
6
Các nội dung từ đồng nghĩa, gần nghĩa trái nghĩa đợc học ở lớp thành từng bài
riêng. Tuy nhiên từ lớp 1đến lớp 4, chúng ta cũng có thể sử dụng biện pháp giải
nghĩa từ này trong một số trờng hợp cụ thể ở mỗi bài học.
4 Giải nghĩa từ bằng đối chiếu, so sánh
Ví dụ: Giải nghĩa từ đồi bằng cách so sánh đồi với núi, đồi thấp hơn
núi,sờn thoai thoải hơn.
- Giải nghiã từ sách với vở bằng cách so sánh đối chiếu chúng với nhau: sách
có chữ in dùng để đọc; vở là tập giấy trắng đóng lại dùng để viết.

- Giải nghĩa ông bà nội, ông bà ngoại bằng cách đối chiếu : ông bà nội là
những ngời sinh ra bố,ông bà ngoại là những ngời sinh ra mẹ.Cách giải nghĩa này
đợc xây dựng thành các bài tập giải nghĩa kiêủ:Sách và vở có gì khác nhau?,
Đồi và núi khác nhau nh thế nào?, hoặc phân biệt họ nội với họ ngoại, so sánh
mức độ của các từ: vui, vui vui, vui vẻ, vui mừng v v.
5. Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh
Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ,một câu,
một bài để làm rõ nghĩa của từ. Giáo viên không cần giải thích, nghĩa của từ đợc
bộc lộ nh ngữ cảnh.
Ví dụ :Để giải nghĩa từ náo nức,giáo viên đa ra câu : Chúng em náo nức đón
Tết,hoặc để giúp học sinh hiểu nghĩa của từ nhỏ nhoi gần nghĩa với từ nhỏ bé,
giáo viên đa ra bài tập :
Có thể thay từ nhỏ nhoi trong câu : Suốt đời, tôi chỉ là một chiếc lá nhỏ nhoi
bình thờng bằng từ nào dới đây:
a) Nhỏ nhắn b) nhỏ xinh c) nhỏ bé
Hoặc là dạng bài: Tìm từ ngữ trong ngoặc đơn hợp với mỗi chỗ trống trong đoạn
văn sau:
Anh Kim Đồng là một rất Tuy anh cũng gặp giây phút hết sức
Anh đã hi sinh,nhng sáng của anh vẫn còn mãi mãi.
Các từ cần điền (can đảm, ngời liên lạc, hiểm nghèo, tấm gơng, mặt trận).
Nếu có học sinh điền từ cha chính xác, giáo viên cho học sinh khác nhận xét
và nêu phơng án điền khác.Cuối cùng giáo viên dựa trên phơng án trả lời đúng nhất
để chốt kết quả của bài.
6 Giải nghĩa từ bằng từ điển
Đây là biện pháp giải nghĩa từ phổ biến nhất, là biện pháp giải nghĩa làm cơ
sở cho rất nhiều bài tập giải nghĩa khác nhau. Giải nghĩa từ bằng từ điển tức là giáo
viên hoặc học sinh nêu nội dung nghĩa của từ bằng một định nghĩa.
7
Ví dụ : - Ông nội là cha của cha em.
- Tự trọng là coi trọng phẩm giá của mình.

ở tiểu học,từ lớp 4 các em đã bắt đầu làm quen với cuốn từ điển Tiếng Việt trong
các giờ luyện từ và câu để tìm từ , hiểu nghĩa của từ . Hình thức giải nghĩa từ này
có 3 dạng bài tập đợc kể ra theo thứ tự từ dễ đến khó nh sau:
a) Mức thấp nhất là cho sẵn cả nội dung (tức là nghĩa của từ ) và tên gọi (tức từ)
yêu cầu học sinh phát hiện sự tơng ứng giữa chúng. Đây là dạy bài nối một ô ở cột
nọ với một ô tơng ứng ở cột kia sao cho hợp nghĩa:
Ví dụ A B
Gan dạ (chống chọi) kiên cờng không lùi bớc
Gan góc Gan đến mức trơ ra không còn biết sợ là gì
Gan lì Không sợ nguy hiểm

Khi hớng dẫn giải bài tập này,giáo viên phải làm cho học sinh hiểu ý
nghĩa của từng yếu tố ở hai cột để thấy sự tơng ứng của từng cặp. Các em sẽ lần lợt
lấy một từ ở cột A ghép thử với một từ ở cột B xem có tơng ứng không,cặp nào có
sự tơng ứng sẽ đợc nối lại với nhau.
b) Mức thứ hai là cho sẵn nội dung từ ( các nét nghĩa của từ ) yêu cầu học sinh tìm
tên gọi (từ ) hoặc xếp các từ cho sẵn vào các nhóm nghĩa khác nhau.
Ví dụ : Bài tập yêu cầu học sinh điền tiếp vào chỗ trống trong các câu Ngời làm
nghề cày ruộng, trồng trọt trên ruộng đồng gọi là từ các học sinh cần điền là
nông dân
Hoặc dạy bài tập xếp các từ có tiếng lạc trong ngoặc đơn thành 2 nhóm :
a. Những từ trong đó lạc có nghĩa là vui mừng .
b. Những từ trong đó lạc có nghĩa là : sót lại, sai .
(Lạc quan, lạc hậu, lạc điệu, lạc đề, lạc thú )
Khi làm bài tập này giáo viên gợi ý để học sinh liên hệ thực tế . Tìm từ hoặc dựa
trên nghĩa của từng từ cụ thể để suy xét và đa thành từng nhóm thích hợp với nghĩa
đã cho.
c. Mức cao nhất là cho sẵn từ , yêu cầu học sinh xác lập tơng ứng .
8
Phổ biến nhất là kiểu bài tập đa ra câu hỏi trực tiếp: em hiểu tiết kiệm là gì ? hoặc :

Hoa văn là gì ?
Đây là dạng bài tập tuơng đối khó đối với học sinh tiểu học. Để làm đợc bài
tập này học sinh phải có kỹ năng định nghĩa . Giải nghĩa bằng định nghĩa sẽ
làm cho ngôn ngữ và t duy của học sinh trở nên rõ ràng và sâu sắc hơn. Càng bắt
đầu dạy cho học sinh định nghĩa sớm bao nhiêu thì các em càng biết t duy chính
xác và nói năng đúng đắn bấy nhiêu. Khi dạy học sinh định nghĩa từ, giáo viên cần
lu ý học sinh nghĩa của từ đợc định nghĩa cần dạy trên những nghĩa đơn giản hơn
để tránh sự luẩn quẩn. Các thành tố nghĩa của từ đợc định nghĩa cần đầy đủ nhng tổ
hợp các thành tố nghĩa không quá lớn.
Tuy nhiên, những câu hỏi trực tiếp đôi khi học sinh khó trả lời, vì vậy giáo
viên nên đa các câu hỏi hàm chứa một phần nội dung trả lời.
Ví dụ : - Một ngời làm việc nh thế nào là tận tuỵ ?
- Phong cảnh nh thế nào gọi là thắng cảnh ?
Thay cho các câu hỏi : tận tuỵ là gi?, Thắng cảnh là gì?
7. Giải nghĩa từ bằng cách tìm từ lạc .
Đây là biện pháp giải nghĩa từ mới, thờng đợc sử dụng trong một số trò chơi,
hội thi dành cho học sinh tiểu học mà ta đã gặp trên truyền hình .Biện pháp giải
nghĩa từ bằng cách tìm từ lạc là đa ra một số từ (Khoảng 4-5từ )trong đó có một từ
không cùng ghĩa với các từ còn lại, yêu cầu học sinh phải tìm ra từ lạc nghĩa đó .
Ví dụ : Trong các từ sau từ nào không cùng nhóm nghĩa ?
a.Lạc quan b. Yêu đời c. Tốt đẹp d. Tin tởng
Đáp án là từ : tốt đẹp.
Hoặc bài tập : từ nào (trong mỗi dãy từ dới đây )có tiếng nhânkhông cùng
nghĩa với tiếng nhântrong các từ còn lại ?
a. Nhân loại , nhân tài, nhân đức, nhân đân.
b. Nhân ái, nhân vật , nhân nghĩa , nhân hậu .
c. Nhân quả, nhân tố, nhân chứng, nguyên nhân .
Đáp án : Từ không cùng nghĩa với các từ còn lại ở câu a là nhân đức,
Câu b là : nhân vật ; câu c là : nhân chứng
Khi dạy bài tập dạng này, sau khi học sinh nêu kết quả giáo viên chốt kết

quả đúng và mở rộng nghĩa để các em hiểu rõ nghĩa của nhóm từ.
Ví dụ: Trong dãy từ : nhân quả, nhân tố, nhân chứng, nguyên nhân, từ nhân
chứngcó tiếng nhân không cùng nghĩa với các từ còn lại. Các từ nhân quả, nhân
tố, nguyên nhân, tiếng nhân có nghĩa là cái sinh ra kết quả
9
phần iii. Kết luận
I -Kết quả nghiên cứu :
Là một giáo viên đợc dạy các phân môn Tiếng Việt, bản thân tôi nhận thức rõ
vai trò của dạy giải nghĩa từ. Vận dụng các biện pháp giải nghĩa từ đã trình bày ở
phần nội dung, tôi thấy các tiết học có nội dung dạy giải nghĩa từ nhẹ nhàng hơn,
học sinh không phải gò mình vào việc hiểu nghĩa của từ một cách khô khan , cứng
nhắc.
Ngày 28- 1- 2011 tôi đã cho học sinh khối 5 làm một bài kiểm tra về
nghĩa của từ . Nội dung bài kiểm tra có 3 bài tập .
Bài 1: Dạng nối từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B.
Bài 2: Dạng so sánh nghĩa của từ .
Bài 3: Dạng đặt câu hỏi đã gợi ý việc xác định các nét nghĩa.
Kết quả bài làm của học sinh đã có chuyển biến rõ nét so với bài kiểm tra
đầu kỳ I. Cụ thể :
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu
5A 25 4/25=10,8% 15/25=60% 5/25=20% 1/25=4%
5B 27 8/27=29,62% 12/27=44,44 7/27=25,92% 0/27= 0%
Bài đạt điểm giỏi :12/52 em = 23,07%
Bài đạt điểm khá : 27/52 em = 51,92%
Bài đạt điểm trung bình : 12/52 em = 23,07%
Bài đạt điểm yếu : 1/ 52 em = 1,92%
Số học sinh đạt điểm khá giỏi tăng, số học sinh yếu giảm, so với bài kiểm tra trớc.
Kết quả trên là dấu hiệu đáng mừng trong việc vận dụng các biện pháp dạy
giải nghĩa từ cho học sinh tiểu học.
II- Bài học kinh nghiệm :

Giải nghĩa từ là một biện pháp nêu rõ những đặc tính của từ. Trong khi giải
nghĩa từ, cần tách các dấu hiệu mà học sinh sẽ chú ý đến khi làm quen với từ .ở
tiểu học một từ nhiều khi đợc dạy nghĩa nhiều lần, giáo viên cần giúp học sinh dần
dần mở ra tất cả nội dung của từ .
Việc phân chia thành các biện pháp và các bài tập giải nghĩa từ chỉ là tơng
đối. Trong thực tế, ngời ta thờng kết hợp các biện pháp khác nhau vừa dùng trực
quan, vừa dùng từ đồng nghĩa, dựa vào ngữ cảnh hay sử dụng biện pháp định nghĩa.
Khi dạy nghĩa từ, ngoài việc xác định những từ sẽ dạy, biện pháp giải nghĩa từ,
10
giáo viên còn phải xác định sẵn những từ nào mình sẽ giải nghĩa và những từ nào
để học sinh giải nghĩa dới hình thức thực hiện các bài tập giải nghĩa từ.
Việc lựa chọn các biện pháp giải nghĩa và hình thức bài tập giải nghĩa từ tuỳ
thuộc vào từng trờng hợp cụ thể. Nó bị quy định bởi nhiệm vụ học tập ( từ sẽ đa vào
vốn từ tích cực hay tiêu cực), bởi đặc điểm của từ ( trừu tợng hay cụ thể, danh từ
hay động từ , tính từ, thuần Việt hay Hán Việt), bởi trình độ của học sinh ( trớc đó
đã đợc chuẩn bị để nắm nghĩa nh thế nào ?)vv.
III- Đề xuất :
+ Đối với mỗi giáo viên : Cần không ngừng làm giàu vốn từ của bản thân và nắm
vững nghĩa của từ.
+ Tổ chuyên môn cũng nên đa nội dung này vào nội dung sinh hoạt chuyên môn
hàng tuần để các thành viên học tập, trao đổi rút kinh nghhiệm.
Xin chân thành cám ơn!
Liêm Chính, ngày 26 tháng 3 năm 2011
Ngời viết

Bùi Thị Hằng
11

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×