Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quan hệ lao động - Sự phối hợp cơ chế 2 bên và 3 bên trong quan hệ lao động. Liên hệ thực tế tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.74 KB, 17 trang )

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN NHÓM:
“Sự phối hợp cơ chế 2 bên và 3 bên trong quan hệ lao động. Liên hệ thực tế tại Việt
Nam.”
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay đất nước chúng ta đang bước vào thời kì mở cửa, nền kinh tế cũng vì thế
mà tự do năng động hơn bao giờ hết.Thị trường lao động cũng theo đó mà phát triển và
trở nên phong phú đa dạng hơn. Quan hệ lao động được hình thành trong nhiều lĩnh vực
kinh tế và thương mại, nói nôm na ta có thể hiểu đơn giản là mối quan hệ giữa kẻ mua
người bán và mặt hàng là sức lao động.Từ xa xưa mối quan hệ này đã hình thành và phát
triển, bằng cách này hay cách khác mà quá trình mua bán đó được thỏa thuận, ngày nay
người ta gọi đó là cơ chế 2 bên. Như vậy cơ chế 2 bên đã tồn tại từ rất lâu và vẫn đang
tiếp diễn trong thời đại kinh tế hiện giờ không thể thiếu và thay đổi. Nhưng ngày nay
ngoài cơ chế 2 bên thì còn có sự xuất hiện của cơ chế 3 bên là một cơ chế thông dụng ở
nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển và đang từng bước được ứng dụng và
phát triển tại Việt Nam. Vậy sự xuất hiện của cơ chế 3 bên với những mâu thuẫn với cơ
chế 2 bên có làm nảy sinh sự xung đột hay sự phối hợp thống nhất của 2 cơ chế sẽ tạo ra
những hiệu quả vượt trội? Hiểu được tầm quan trọng của vấn đề này nhóm chúng tôi
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 2
quyết định tìm hiểu đề tài: “ Sư phối hợp cơ chế 2 bên và 3 bên trong quan hệ lao động.
Liên hệ thực tế tại Việt Nam”
1. CƠ CHẾ 2 BÊN
1.1 Khái niệm
Cơ chế hai bên là bất kỳ quá trình nào mà bằng cách đó những sự giàn xếp
hợp tác trực tiếp giữa người sử dụng lao động (tổ chức đại diên của người sử dụng
lao động) và người lao động ( tổ chức đại diện cho người lao động) được thành
lập, được khuyến khích và được tán thành.
- Quá trình nghĩa là phải có nhiều công đoạn, mỗi công đoạn phải có những cách
thức thực hiện khác nhau, chủ thể khác nhau, đối tượng khác nhau, mục đích khác
nhau. Các quá trình này được thành lập, trước hết phải được sự nhất trí của 2 bên


và sau đó là tự tán thành, khuyến khích của Chính phủ thể hiện trong khuôn khổ
luật pháp và các chính sách của Nhà Nước.
- Dàn xếp hợp tác: các bên cần phải có thái độ tích cực, đấu tranh và nhượng bộ để
đảm bảo sự hài hòa về lợi ích. Mỗi bên không quá thiên về lợi ích của mình mà
quên đi lợi ích bên kia cũng như lợi ích chung của xã hội.
- Giới từ “trực tiếp” ám chỉ sự tương tác giữa 2 bên không thực hiên thông qua
Chính phủ. Trong bối cảnh nhất định, một tổ chức trung gian độc lập có thể giúp
cho mối quan hệ hai bên trở nên tốt đẹp hơn.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 3
1.2 Đặc điểm, bản chất
- Chỉ có hai bên tham gia là người lao động (tổ chức đại diện cho người lao động)
và người sử dụng lao động (tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động) và sự
tương tác giữa hai bên là tương tác trực tiếp. Do vậy kết quả tương tác giữa hai
bên sẽ ảnh hưởng trực tiếp, nhanh chóng đến quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên
thông qua các chính sách của ngành, địa phương, doanh ngiệp và cam kết, thỏa
thuận trực tiếp giữa hai bên.
- Cơ chế hai bên không hoạt động độc lập, tách rời hoàn toàn khỏi vai trò của chính
phủ. Trái lại, nó luôn vận hành trong khuôn khổ luật pháp, và những chính sách,
quy định do chính phủ ban hành.
- Cơ chế hai bên thường giải quyết các vấn đề mang tính đặc thù của ngành, địa
phương, các vấn đề cụ thể tại nơi làm việc, nên hoạt động tương đối thường
xuyên, rất dễ dẫn tới nguy cơ xung đột.
- Các bên đối tác tương đối bình đẳng, vì vậy cơ chế tương tác chủ yếu là hai bên
cùng quyết định.
1.3 Hoạt động
- Sự tương tác diễn ra chủ yếu dưới hình thức thương lượng tập thể, thực hiện thỏa
ước lao động tập thể, giải quyết xung đột về lương, thời giờ làm việc, kỷ luật, sa
thải. Nội dung của thỏa ước lao động tập thể thường gồm hầu hết các vấn đề quan
trọng như tiền lương, điều kiện làm việc, môi trường làm việc, việc làm, bảo hiểm,
an toàn vệ sinh lao động lao động,

1.4 Điều kiện vận hành và cơ sở pháp lý
 Có khuôn khổ luật pháp rõ ràng, ổn định và có hiệu lực cao. Đặc biệt là hệ thống
các luật lệ hay quy định liên quan đến quan hệ lao động.
 Phải có thị trường lao động nơi những người lao động và người sử dụng lao động
rang buộc với nhau bởi quan hệ làm thuê. Thị trường lao động là cơ sở phát sinh
sự tương tác về các vấn đề: tiền lương, điều kiện lao động đòi hỏi các bên phải dàn
xếp.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 4
 Các đại diện, tổ chức đại diện của các bên phải thực sự đại diện và hoạt động tích
cực để bảo vệ lợi ích cho bên mình, hoạt động của các tổ chức này phải tương đối
độc lập trong khuôn khổ pháp luật quốc gia.
 Sự tồn tại của các tổ chức trung gian, hòa giải, tòa án lao động đảm bảo giải quyết
các xung đột trong trường hợp hai bên không đạt được thỏa thuận chung.
2. CƠ CHẾ 3 BÊN
2.1 Khái niệm
Theo quan điểm cơ chế ba bên ILO, đã đưa ra định nghĩa: “Cơ chế ba bên là sự
tương tác tích cực của chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động (qua
các đại diện của họ) như là các bên bình đẳng và độc lập trong các cố gắng tìm
kiếm giải pháp cho các vấn đề cùng quan tâm. Một quá trình ba bên có thể bao
gồm việc tham khảo ý kiến, thương thuyết hoặc cùng ra quyết định, phụ thuộc vào
cách thức đã được nhất trí giữa các bên liên quan. Những cách thức này có thể là
đặc biệt theo từng vụ việc hoặc được thể chế hóa”
2.2 Đặc điểm, bản chất
• Đặc điểm
- Cơ chế ba bên chủ yếu tồn tại và vận hành ở cấp quốc gia, ít vận hành ở cấp ngành
và địa phương. Không tồn tại ở cấp doanh nghiệp.
- Vấn đề các bên cùng quan tâm và giải quyết trong cơ chế ba bên là các định hướng
chính sách.
- Cơ chế ba bên có tính đặc thù về chủ thể. Các bên tham gia nhất thiết phải thông
qua các tổ chức đại diện.

- Các bên trong cơ chế ba bên không hoàn toàn bình đẳng. Chỉ có sự bình đẳng giữa
người lao động và người sử dùng lao động. Những quyết định cuối cùng luôn là
chính phủ.
• Bản chất
- Cơ chế ba bên là sự phản ánh tương quan giữa ba lực lượng Nhà nước, đại diện
người lao động và đại diện người sử dụng lao động trong xã hội có giai cấp.
- Nhà nước tham gia vào mối quan hệ ba bên để thực hiện chức năng của mình là
người quản lý xã hội, đảm bảo khối đoàn kết, sự gắn kết trong xã hội.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 5
- Trong đó, nguyên tắc bình đẳng vì lợi ích chung luôn là nguyên tắc nền tảng cho
sự can thiệp của Nhà nước với vai trò là người điều tiết các mối quan hệ xã hội.
Vai trò của các đối tác xã hội trong vấn đề này không thể thay thế được.
- Mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội không phải là mối quan hệ giữa người quản
lý, người bị quản lý, do đó, muốn thực hiện nguyên tắc bình đẳng và vì lợi ích
chung thì phải có vai trò năng động , tích cự của xã hội và các đối tác xã hội. Đây
chính là những biểu hiện của một quá trình dân chủ, đề cập đến giá trị xã hội của
dân chủ.
- Trong quan hệ lao động, cơ chế ba bên là một cơ chế điều chỉnh có tính đặc thù,
xuất phát từ chính những đặc tính riêng biệt của quan hệ lao động, bởi quan hệ này
vừa có tính kinh tế lại vừa có tính xã hội. Chính vì thế khi điều tiết quan hệ lao
động, Nhà nước cần chú ý đến các bên, nhất là người lao động, về tất cả các
phương diện như: lợi ích vật chất, tinh thần, nhu cầu xã hội. “Nhà nước phải đặt
địa vị của mình ngang bằng với các đối tác xã hội, độc lập và bình đẳng . Xét trên
một phương diện khác, cơ chế ba bên không đơn thuần là hoạt động quản lý Nhà
nước, nó còn biểu hiện sự tham gia tích cực của các đối tác xã hội vào việc quyết
định những vấn đề liên quan trực tiếp đến họ”.
2.3 Hoạt động
- Hợp tác ba bên đòi hỏi phải có sự điều hoà nhất định về lợi ích, trong đó Chính
phủ, người sử dụng lao động, người lao động tìm ra được tiếng nói chung để đạt
được những lợi ích cho chính họ và cho toàn xã hội. Hình thức hoạt động của cơ

chế ba bên thể hiện mức độ tham gia trong việc chia sẻ những lợi ích, cũng như
khó khăn mà các bên thường gặp phải. Cơ chế ba bên có nhiều hình thức:
- Hình thức cao nhất mang tính chất lý tưởng là có việc chia sẻ trách nhiệm, trong
đó Chính phủ và các tổ chức đại diện cho người lao động và người sử dụng lao
động cùng bàn bạc, quyết định những vấn đề có liên quan trong phạm vi thẩm
quyền của mình, với tư cách là những đối tác độc lập và bình đẳng thông qua một
cơ quan hoặc tổ chức ba bên. Tuy nhiên, xét cho cùng, mọi hoạt động của cơ chế
ba bên đều phải tuân theo những quy định của pháp luật nên sự bình đẳng này
cũng chỉ mang tính chất tương đối. Vì là lý tưởng, nên hình thức này của cơ chế ba
bên hầu như khó áp dụng
- Hình thức thấp hơn, cơ chế ba bên hoạt động dưới hình thức trao đổi ý kiến. Hình
thức này cao hơn mức đối thoại nhưng chưa đến mức có thể cùng quyết định.
Trong hình thức này, Chính phủ tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện cho người
lao động và người sử dụng lao động về vấn đề đang được đưa ra và các vấn đề có
liên quan trong phạm vi quyền hạn của mình, để các bên tham gia vào việc xây
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 6
dựng và thực hiện các chính sách quốc gia, có thể phủ nhận hoặc chấp nhận các ý
kiến đó. Chính phủ là người quyết định cuối cùng sau khi xem xét ý kiến các bên.
Ở hình thức này, hai đối tác xã hội không được công nhận là bình đẳng với Chính
phủ.
- Hình thức thấp nhất của cơ chế ba bên là hoạt động dưới dạng các cuộc đối thoại
xã hội. Thông qua diễn đàn có tính chất trao đổi thông tin công khai, Chính phủ có
thể tham khảo ý kiến các bên trước khi đi đến những quyết định cần thiết. Đương
nhiên, kết quả các cuộc đối thoại ảnh hưởng rất ít tới các quyết định của Chính
phủ trong việc xây dựng chính sách, pháp luật và giải quyết các vấn đề xã hội. Ý
kiến của các đại diện trong các cuộc đối thoại cũng không mang màu sắc của một
quan điểm chính thống trong tổ chức nên cũng ít có tính hướng dẫn đối với các
bên tham gia quan hệ lao động cũng như để giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Do vậy, hiệu quả của hình thức này thấp hơn hai hình thức trên.
- Các hoạt động của cơ chế ba bên cũng phụ thuộc vào từng cấp độ hình thành. Ở

cấp cơ sở (cấp doanh nghiệp) chủ yếu chỉ có hai đối tác xã hội tham gia dưới hình
thức cùng nhau bàn bạc, thảo luận và quyết định các vấn đề liên quan đến việc áp
dụng pháp luật lao động, chẳng hạn việc cụ thể hoá các quy phạm pháp luật lao
động để thực hiện trong thoả ước lao động tập thể, giải quyết các tranh chấp lao
động phát sinh Ở cấp quốc gia, cơ chế ba bên được hình thành chủ yếu dưới hình
thức tư vấn, tham khảo ý kiến các đối tác xã hội trong việc hình thành các chính
sách quốc gia về lao động và về các phương tiện để đạt được các mục tiêu chính
sách xã hội có liên quan đến lao động, chẳng hạn việc xác định tiền lương tối thiểu
hay danh mục bệnh nghề nghiệp
Sự vận hành của cơ chế ba bên có những biểu hiện khác nhau, tuỳ thuộc
vào chức năng, nhiệm vụ đã được xác định. Song, dù có khác nhau thế nào, thì cơ
chế ba bên đều vận hành trên cơ sở các quy định thống nhất. Với ý nghĩa là công
cụ để giải quyết các vấnđề chung của cả ba bên thông qua hàng loạt các mối tương
tác lẫn nhau mà phương pháp thông dụng nhất được sử dụng trong cơ chế ba bên
là phương pháp đối thoại xã hội. Phương pháp này bao gồm các biểu hiện như:
chia sẻ thông tin; thảo luận ba bên; đàm phán ba bên; ra quyết định chung.
2.4 Điều kiện vận hành và cơ sở pháp lý
 Tồn tại nền kinh tế thị trường có thị trường lao động, nơi NLĐ và NSDLĐ xung
đột với nhau về lợi ích. Có sự độc lập tương đối giữa các bên đối tác xã hội: Chính
phủ, NSDLĐ với NLĐ. Một môi trường dân chủ luôn được coi là sự phối hợp hiệu
quả giữa các bên. Khi đó mỗi bên vừa tôn trong ý kiến của đối tác vừa có đủ điều
kiện đưa ra những yêu cầu và nguyện vọng của mình.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 7
 Các bên phải có tổ chức thực sự đại diện và hoạt động tích cực bảo vệ cho lợi ích
của bên mình. Điều này đòi hỏi sự đoàn kết, nhất trí cao giữa NLĐ, NSDLĐ và tổ
chức đại diện của mình.
 Chính phủ phải có sự vô tư công bằng đối với cả hai bên, sẵn sàng quan tâm, tham
khảo đến đề xuất của các bên.
 Trong nhiều trường hợp,chính phủ phải có thái độ quyết đoán. Mặc dù có sự nhất
trí từ các bên là nguyên tắc của mọi cuộc đối thoại nhưng ko phải khi nào cũng

đoạt được. Chính phủ luôn là người quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm về
điều đó.
 Cần thiết tồn tại và vận hành hiệu quả cơ chế ba bên ở cấp ngành và cấp doanh
nghiệp. Mối quan hệ tốt đẹp giữa NLĐ và NSDLĐ sẽ luôn làm cho cuộc đối thoại
nhanh chóng đạt được sự nhất trí.
3. SỰ PHỐI HỢP GIỮA CƠ CHẾ 2 BÊN VÀ 3 BÊN.
3.1 Nguyên nhân
- Quan hệ lao động rất phức tạp cả về nội dung lẫn phạm vi ảnh hưởng. Do vậy, bên
cạnh những vấn đề chung (có ảnh hưởng lớn, rộng rãi và lâu dài) phải giải quyết
bằng cơ chế 3 bên, cũng có những vấn đề cụ thể hơn không cần sự tham gia trực
tiếp của Chính phủ.
- Các quy luật kinh tế khách quan đòi hỏi sự vận động tương đối độc lập của hai lực
lượng cơ bản trên thị trường lao động (là cung, là cầu về lao động). Để thị trường
lao động vận hành linh hoạt, khai thác hiệu quả các nguồn lực của đất nước, Chính
phủ cần tạo ra các điều kiện rộng rãi để cung và cầu lao động trực tiếp tương tác
với nhau để xác định giá cả (tiền lương), chất lượng hàng hóa sức lao động và điều
kiện lao động.
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa, môi trường kinh tế xã hội của mỗi quốc gia ngày
càng có nhiều biến động khó lường. Điều này làm nảy sinh các vấn đề mới ảnh
hưởng đến quyền lợi của các bên đòi hỏi có nhiều cơ chế sử lý khác nhau.
- Những xu hướng thay đổi vai trò của Chính phủ trong phát triển kinh tế xã hội.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Chính phủ can thiệp trực tiếp, triệt để vào
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 8
các vấn đề của quan hệ lao động. Những nước trước kia áp dụng mô hình này có
xu hướng giảm bớt sự can thiệp hành chính của Chính phủ nhường chỗ cho sự
tương tác tay đôi giữa người lao động và ngưới sử dụng lao động. Trong khi ở
nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển đề cao vai trò của “ bàn tay vô
hình” trong thị trường lao động ngày nay lại có xu hướng tăng cường vai trò của
Chính phủ trong việc kế hoạch hóa thị trường lao động. Do vậy, sự tham gia của
Chính phủ vào quan hệ lao dộngđang ngày càng tăng làm cho cơ chế ba bên phát

huy tác dụng.
Như vậy, cần có sự phối cơ chế 2 và 3 bên để đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động, để giải quyết các vấn đề trong quan hệ lao động.
3.2 Biểu hiện
3.2.1 Sự thống nhất và mâu thuẫn
• Thống nhất
- Cơ chế ba bên và cơ chế hai bên không xung khắc mà thống nhất với nhau.
- Cấp độ cơ chế: Cơ chế ba bên hoạt động chủ yếu ở cấp Chính phủ và địa phương.
- Trong khi cơ chế hai bên chủ yếu hoạt động ở cấp doanh nghiệp và cấp ngành.
- Vấn đề quan tâm: Cơ chế ba bên giải quyết các vấn đề về định hướng chính sách
liên quan đến lao động trong khi cơ chế hai bên giải quyết cụ thể của doanh
nghiệp, của ngành.
- Kết quả đạt được: Kết quả của cơ chế ba bên là hành lang pháp lý, là khuôn khổ
cho sự tương tác cơ chế hai bên. Trong khi sự tương tác tay đôi ở cấp doanh
nghiệp và cấp ngành là cơ sở nảy sinh các vấn đề mà cơ chế ba bên phải giải
quyết. Một cơ chế hai bên lành mạnh cũng góp phần vào thành công của cơ chế ba
bên.
- Một cơ chế ba bên tốt, không thể thay cơ chế hai bên mà là điều kiện nâng cao
hiệu quả vận hành của cơ chế hai bên. Cơ chế ba bên hoạt động càng hiệu quả, các
cuộc thương lượng ở cấp ngành, cấp doanh nghiệp càng dễ dàng đạt được sự
thống nhất. Ngược lại, cơ chế hai bên tốt sẽ nâng cao hiệu quả cơ chế ba bên.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 9
- Theo Tiến sĩ Phạm Công Trứ, bằng việc kí kết các hợp đồng lao động cá nhân giữa
người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) hình thành nên quan
hệ lao động cá nhân - hạt nhân của cơ chế hai bên truyền thống.
- Sau đó bằng việc thực hiện quyền tự do liên kết các tổ chức của cả phía NLĐ và
NSDLĐ được hình thành ở tầm quốc gia, đại diện của tổ chức này cùng với đại
diện của Chính phủ có mối quan hệ với nhau để cùng bàn bạc và giải quyết những
vấn đề có liên quan trong lĩnh vực lao động và xã hội. Trên cơ sở và khuôn khổ
của mối quan hệ này hình thành một cơ chế mang tính pháp lí quốc tế, đó là cơ chế

ba bên.
• Mâu thuẫn
Những mâu thuẫn có thể xảy ra giữa hai cơ chế :
- Quan hệ lao động rất phức tạp cả về nội dung lẫn phạm vi ảnh hưởng. Do vậy ,
bên cạnh những vấn đề chung phải giải quyết bằng cơ chế ba bên , cũng có những
vấn đề cụ thể hơn không cần sự tham gia trực tiếp của chính phủ.
- Sự can thiệp quá sâu của Chính phủ vào các vấn đề vốn thuộc phạm vi giải quyết
của cơ chế hai bên. Điều này gây trở ngại thêm cho doanh nghiệp khi giải quyết
các vấn đề.
- Trong một số trường hợp thì sự phối hợp giữa hai cơ chế lại gây ra trở ngại cho
doanh nghiệp như ở những phạm vi khác nhau , từng trường hợp mà không có sự
kết hợp giữa 2 cơ chế vẫn đề sẽ được giải quyết tốt nhất.
3.2.2 Sự phối hợp
- Cơ chế hai bên là sự tham gia thương lượng, thỏa ước trực tiếp của hai bên tham
gia là người lao động và người sủ dụng lao động. Chính phủ không tham gia trực
tiếp vào hoạt động này nhưng hoạt động của cơ chế hai bên lại không tách biệt
khỏi chính phủ hoạt động dựa trên khuôn khổ luật pháp và những chính sách , quy
định do chính phủ đề ra.
- Cơ chế ba bên là sự tương tác tích cực của Chính phủ , người sử dụng lao động và
người lao động (qua các đại diện của họ).
- Cả hai cơ chế đều vận hành trong vòng tròn pháp luật, có sự phối hợp chặt chẽ với
nhau
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 10
- Luật pháp tương tác trực tiếp là hành lang pháp lý của cả hai cơ chế. Cơ chế hai
bên vận hành ở cấp ngành, địa phương dựa trên khuôn khổ luật pháp. Nhưng khi
có sự tham gia trực tiếp của chính phủ thì trở thành cơ chế ba bên vận hành ở cấp
quốc gia và cũng hoạt động dựa trên khuôn khổ pháp luật.
4. LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM VỀ SỰ PHỐI HỢP CƠ CHẾ 2 BÊN
VÀ CƠ CHẾ 3 BÊN
4.1 Thực trạng

Hiện nay, ở nhiều nước đặc biệt các nước đang phát triển thuộc khu vực
châu Á như Việt Nam vẫn tồn tại quan điểm cho rằng cơ chế 2 bên và cơ chế 3
bên tồn tại độc lập, xung khắc với nhau. Tuy nhiên trong thực tế, sự phối hợp của
hai cơ chế trong cùng một hệ thống sẽ tạo ra những hiệu quả vượt trội.
Ở Việt Nam cơ chế 2 bên giữa NLĐ và NSDLĐ luôn tồn tại trong mọi
doanh nghiệp, hoặc sự tương tác trực tiếp giữa đại diện NLĐ với đại diện NSDLĐ
ở cấp ngành và cấp địa phương, cơ chế này được vận hành thông qua các hình
thức thương lượng tập thể, các thỏa ước lao động tập thể, giải quyết xung đột giữa
hai chủ thể. Tuy là cơ chế hai bên giữa chủ thể NLĐ và NSDLĐ nhưng chúng ta
không thể phủ nhận bóng dáng của chủ thể Nhà nước trong việc thiết lập mối quan
hệ giữa các chủ thể, Nhà nước trong cơ chế hai bên ở Việt Nam không xuất hiện
một cách trực tiếp mà xuất hiện gián tiếp thông qua việc ban hành pháp luật. Cơ
chế 2 bên theo danh nghĩa nó đòi hỏi sự công bằng, bình đẳng giữa hai chủ thể
nhưng ở Việt Nam lại được vận hành chưa thực sự hiệu quả, NSDLĐ vẫn là chủ
thể có lợi thế hơn NLĐ, nhưng nhờ một phần vào các quy định pháp luật có lợi
cho NLĐ mà NLĐ được bảo vệ lợi ích tốt hơn, nhờ thế cơ chế 2 bên được vận
hành tốt hơn. Do vậy dù là trực tiếp hay gián tiếp ta cũng thấy được ảnh hưởng
của cơ chế 3 bên đối với cơ chế 2 bên.
Cơ chế 2 bên và cơ chế 3 bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó cơ
chế 2 bên nằm trong cơ chế 3 bên, dù có thêm sự xuất hiện của chủ thể Nhà nước
nhưng cơ chế 2 bên giữa NLĐ và NSDLĐ vẫn luôn được vận hành. Nhìn nhận ở
góc độ chung nhất: “Cơ chế 3 bên là cơ cấu, hình thức hay biện pháp được sử
dụng với sự tham gia của NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước nhằm xây dựng và thực thi
chính sách pháp luật và các tiêu chuẩn lao động, xử lí các vấn đề phát sinh trong
quá trình lao động với mục đích xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và
đảm bảo hòa bình công nghiệp”. Qua đó có thể thấy rằng cơ chế 3 bên vận hành
nhằm mục đích vận hành cơ chế 2 bên. Ở Việt Nam nghị quyết 1129/2008/QĐ-
TTg ngày 18/08/2008 đã khẳng định tính chất 3 bên trong mối quan hệ lao động.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 11
Ở Việt Nam sự tham gia tồn tại của cơ chế 3 bên thể hiện qua việc công nhận sự

tham gia của tổ chức công đoàn và đại diện của NSDLĐ vào một số hoạt động
liên quan đến xử lí mối quan hệ lao động như vấn đề việc làm, tiền lương, giải
quyết tranh chấp lao động, tiền công, là những vẫn để nảy sinh trong cơ chế 2
bên. Sự thể hiện cơ chế 3 bên ở VN còn có thể thấy qua việc tổ chức và hoạt động
của các cơ cấu hỗn hợp đặc biệt là tầm quốc gia, giữa Chính phủ, tổng liên đoàn
lao động VN, phòng thương mại và công nghiệp VN hoặc liên minh các hợp tác
xã VN trong việc xây dựng hoặc hoạch định chính sách pháp luật liên quan đến
quyền, lợi ích của các bên trong quan hệ lao động, vậy các quyết định đó dựa vào
đâu để có thể ban hành? Chính là dựa trên việc tham khảo mối quan hệ giữa các
chủ thể trong cơ chế 2 bên, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích đối lập của các bên chủ
thể.
Cơ chế 3 bên ở VN được xem như “một hiện tượng phổ biến và có tính
khách quan, nó đánh dấu sự phát triển của CNXH”. Cơ chế 3 bên đã được vận
dụng trong lao động, nó tồn tại để phòng ngừa, giải quyết tranh chấp, đình công,
đòi tiền lương, thời gian trong lĩnh vực lao động. Tuy nhiên cơ chế 3 bên ở VN, sự
phối hợp giữa hai cơ chế đã xuất hiện và tồn tại nhưng nó còn mập mờ, chưa thể
hiện rõ như các quốc gia khác mặc dù đã thể hiện được một số vấn đề nhưng sự
thực hiện đó vẫn chưa đạt được hoàn chỉnh về cơ cấu, đồng thời chưa đảm bảo
được tính chất ba bên trong các hoạt động. Việc tham gia của các tổ chức đại diện
NLĐ và NSDLĐ vào lĩnh vực lao động vẫn bị hạn chế ở vai trò “tư vấn” để cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền “tham khảo”
Về phía chủ thể trong cơ chế 2 bên và 3 bên: NSDLĐ còn tồn tại nhiều yếu
kém vì ở VN các DN còn hoạt động đơn lẻ, kiểu “phận ai nấy giữ”. Chủ thể thứ
hai là các cơ quan Nhà nước giữ vai trò chỉ đạo chi phối đối với hai chủ thể kia,
tuy nhiên từ việc tham mưu xây dựng pháp luật đến thực hiện chức năng quản lí
đều thể hiện một cách hời hợt, yếu kém, thiếu năng lực. Thực tế cho thấy phần lớn
các cuộc đình công xảy ra vì những phát sinh do vi phạm của NSDLĐ nhưng cơ
quan nhà nước lại bất lực, không thể hiện được vai trò của mình. Với chủ thể
NLĐ, NLĐ còn yếu kém về mặt kiến thức tham gia trong quan hệ lao động, dẫn
tới sự thụ động trong các giải quyết vấn đề với NSDLĐ, gây nên những hậu quả

không đáng, gây ảnh hưởng cả với doanh nghiệp, xã hội và chính NLĐ.
Như vậy việc vận hành cơ chế 3 bên hiệu quả sẽ giúp cơ chế 2 bên được
thực hiện và đạt hiệu quả cao. Cơ chế 2 bên lại tác động trở lại đối với cơ chế 3
bên, tạo tiền đề cho cơ chế 3 bên được vận hành và phát triển. Ở VN cần phát huy
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 12
rõ ràng hơn nữa về cơ chế 3 bên, điều chỉnh cơ chế 2 bên tạo điều kiện cho sự
phối hợp hai cơ chế một cách hiệu quả.
4.2 Ví dụ thực tế tại Việt Nam
Hơn 2000 công nhân đình công ở Thái Bình đòi tăng lương. Hầu hết trong
số hơn 2.000 công nhân làm việc cho công ty may mặc 100% vốn Hàn Quốc có
tên Ivory Việt Nam tại thị trấn Vũ Thư, tỉnh Thái Bình đã trở lại làm việc sau ba
ngày đình công để đòi tăng các khoản phụ cấp.
Công ty đã vi phạm luật về giờ làm thêm. Vào sáng 30 tháng 7, biên tập
viên Gia Minh của Đài báo Nhân Dân (cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam) gọi điện đến Công ty Ivory Việt Nam tại thị trấn Vũ Thư, tỉnh Thái Bình để
hỏi thông tin về vụ đình công và được một nhân viên tại đó trả lời như sau: “Anh
phải đến trực tiếp chứ không thể nói qua điện thoại. Vấn đề này chỉ có thể lãnh
đạo trả lời, anh có thể cử ai trực tiếp đến, không trả lời qua điện thoại được. Anh
có thể tìm hiểu qua báo chí Việt Nam đã phản ánh. Đúng báo chí Việt Nam có loan
tin, và cả quá trình giải quyết. Anh đến trực tiếp để rõ hơn.” Vào cuối giờ chiều
ngày 29 tháng 7, Đài của báo Nhân Dân cũng gọi điện thoại đến Sở Lao động-
Thương binh và Xã hội của tỉnh Thái Bình để tìm hiểu về thông tin công nhân
may mặc của công ty Ivory Việt Nam đình công, ông Lý Ngọc Thành, trưởng
phòng Việc làm và An Toàn Lao động của sở này cũng từ chối trả lời qua điện
thoại và nói chưa biết về vụ đình công đó: “Cái này tôi chưa nắm, phải sang làm
việc trực tiếp chứ điện thoại chẳng biết ai đầu dây cả.” Theo tin của tờ Nhân Dân
thì hơn 2000 công nhân của Công ty Ivory Việt Nam đã tràn xuống đường gây ra
tình trạng hỗn loạn trên tuyến Quốc lộ 10 đoạn qua thị trấn Vũ Thư.
Sau khi lực lượng công an giao thông đến can thiệp, công nhân đã lên đứng
trên lề đường. Họ đứng đình công tại đó cho đến 10h sáng rồi bỏ ra về.Nguyên

nhân của đợt đình công diễn ra từ hôm 26 tháng 7 được cho biết do công ty buộc
công nhân phải làm việc thêm giờ trong hai ngày của tuần đến 19h30. Qui định
này gây khó khăn, bất tiện cho những nữ công nhân có con nhỏ và phải lo cho gia
đình.
Ông Trần Huy Hải, phó chủ tịch UBND huyện Vũ Thư cho rằng cuộc đình
công là tự phát nhưng lý do đình công của công nhân là chính đáng vì công ty vi
phạm luật về giờ làm thêm, cũng như định mức quá khả năng người lao động
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 13
Phía công nhân còn đòi hỏi công ty phải tăng các khoản như tiền chuyên
cần, tiền hỗ trợ xăng xe, tiền ăn ca, tiền hỗ trợ thêm để nuôi con nhỏ. Công ty
Ivory Việt Nam thừa nhận với các cơ quan chức năng phía Việt Nam về việc vi
phạm khi tăng thêm giờ làm quá 30 giờ trong một tháng theo như qui định hiện
nay của Việt Nam. Công ty này hứa sẽ bãi bỏ hai ngày làm thêm giờ đến 19h30.
Đối với đề nghị tăng thêm các khoản phụ cấp như vừa nêu, ông tổng giám đốc
Song Joung Heup của Ivory VietNam nói rằng không thể đáp ứng yêu cầu của
công nhân vì những khó khăn về tài chính và sản xuất của công ty. Ông Trần Huy
Hải, phó chủ tịch UBND huyện Vũ Thư có đến làm việc về đợt đình công mới của
công nhân Công ty Ivory Việt Nam, theo đó ông này cho rằng cuộc đình công là tự
phát nhưng lý do đình công của công nhân là chính đáng vì công ty vi phạm luật
về giờ làm thêm, cũng như định mức quá khả năng người lao động.
Theo yêu cầu của ông Trần Huy Hải phó chủ tịch UBND huyện Vũ Thư thì
trong sáng ngày 30 tháng 7, công ty Ivory Việt Nam và công nhân phải tiến hành
đối thoại trong khuôn viên của công ty dưới sự chứng kiến của chính quyền địa
phương và Liên đoàn Lao động cấp huyện, tỉnh.
Hôm ngày 13 tháng 7, chừng 2000 công nhân của công ty Ivory Việt Nam
cũng đã đình công với yêu cầu tăng tiền chuyên cần, tiền xăng xe, tiền trợ cấp con
nhỏ và tiền thâm niên.
Đợt đó, công ty đã đồng ý tăng tiền chuyên cần lên cho mỗi công nhân 400
ngàn đồng một tháng, tiền xăng xe lên 250 ngàn đồng/tháng, tiền trợ cấp con nhỏ
lên 50 ngàn đồng một tháng cho công nhân nào có con nhỏ. Tuy nhiên tiền thâm

niên công ty chưa thể đáp ứng yêu cầu của công nhân.
• Phân tích về sự phối hợp cơ chế 2 bên và 3 bên trong tình huống:
- Nguyên nhân của cuộc đình công: công ty buộc công nhân phải làm việc thêm giờ
trong hai ngày của tuần đến 19h30 trên cơ sở Công ty vi phạm luật về giờ làm
thêm mà Nhà nước đã quy định.
Quy định này của công ty gây khó khăn, bất tiện cho toàn bộ công nhân vì
phải làm thêm giờ mà không được tăng lương, đặc biệt là những nữ công nhân có
con nhỏ và phải lo cho gia đình.
- Biểu hiện của đình công: cuộc đình công tự phát của hơn 2000 công nhân của
Công ty Ivory Việt Nam đã tràn xuống đường gây ra tình trạng hỗn loạn trên tuyến
Quốc lộ 10 đoạn qua thị trấn Vũ Thư.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 14
Đối với đề nghị tăng thêm các khoản phụ cấp như tiền chuyên cần, tiền hỗ
trợ xăng xe, tiền ăn ca, tiền hỗ trợ thêm để nuôi con nhỏ. Ông tổng giám đốc Song
Joung Heup của Ivory Vietnam nói rằng không thể đáp ứng yêu cầu của công nhân
vì những khó khăn về tài chính và sản xuất của công ty.
- Giải quyết đình công: có sự vào cuộc của Nhà Nước, cụ thể là “sau khi lực lượng
công an giao thông đến can thiệp, công nhân đã lên đứng trên lề đường. Họ đứng
đình công tại đó cho đến 10 giờ sáng rồi bỏ ra về”
Tiếp sau đó, Theo yêu cầu của ông phó chủ tịch UBND huyện Vũ Thư thì Công ty
Ivory Việt Nam và công nhân phải tiến hành đối thoại trong khuôn viên của công
ty dưới sự chứng kiến của chính quyền địa phương và Liên đoàn Lao động cấp
huyện, tỉnh.
=> Qua đây ta thấy cơ chế 3 bên đã được vận dụng trong lao động, nó tồn tại để
tham gia, can thiệp phòng ngừa, giải quyết tranh chấp, đình công, đòi tiền lương,
thời gian trong lĩnh vực lao động. Cụ thể trong ví dụ là Nhà nước đã thể hiện vai
trò của mình là dập tắt đình công tạm thời và giải quyết các vấn đề liên quan đến
lợi ích của NLĐ & NSDLĐ thông qua đối thoại 2 bên dưới sự theo dõi của đại
diện phía Nhà nước tại cấp địa phương, tỉnh.
- Khi cơ chế 2 bên là người lao động (tổ chức đại diện cho NLĐ) và chủ người lao

động (tổ chức đại diện cho NSDLĐ) không giải quyết được các vấn đề tranh chấp
mà NSDLĐ ở đây lại là doanh nghiệp nước ngoài thì càng cần có sự can thiệp của
bên thứ ba là nhà nước.
- Do có sự điều tiết và can thiệp của cơ chế 3 bên tạo điều kiện thuân lợi để
hài hòa cơ chế 2 bên, quan hệ lao động lành mạnh hơn, thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế. Cụ thể là sự có mặt của phía Nhà nước là công an giao thông cùng
với chính quyền địa phương và Liên đoàn Lao động cấp huyện, tỉnh.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 15
KẾT LUẬN
Như vậy, bên cạnh cơ chế 2 bên thì cơ chế ba bên ra đời như là một hiện tượng tự
nhiên khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một mức độ nhất định. Kinh tế thị
trường càng phát triển, dân chủ xã hội càng được tôn trọng và bảo đảm thì càng
tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế ba bên tồn tại và phát triển. Chúng ta có thể
thấy mặc dù có sự mâu thuẫn tồn tại ở cơ chế 2 bên và cơ chế 3 bên, nhưng sự
phối hợp của 2 cơ chế lại đem lại những hiệu quả bất ngờ.Sự vận dụng phối hợp 2
cơ chế hiện nay ở Việt Nam vẫn đang còn mới mẻ. Nhưng nếu chúng ta vượt qua
được những trở ngại trong quá trình phối hợp và vận hành cả 2 cơ chế thì chúng ta
sẽ từng bước làm chủ và phát triển sự tương tác này cho nền kinh tế mạnh mẽ hơn
trong tương lai.
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 16
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ
STT Họ và Tên Mã sv Nhiệm vụ Đánh Giá
1 Vũ Mạnh Huy 12D210138 Cơ chế 3 bên B
2 Đỗ Thị Hường
(Thư ký)
12D210143 Biểu hiện sự phối hợp
cơ chế 2 bên và 3 bên
B
3 Bùi Thị Thu Hường 12D210262 Nguyên nhân có sự
phối hợp cơ chế 2 bên,

3 bên
C
4 Nguyễn Thị Huyền
(Nhóm trưởng)
12D210139 Tổng hợp bài, Làm bản
word
A
5 Nguyễn Thị Huyền 12D210258 Làm Slide, phân tích ví
dụ
A
6 Phan Thị Thanh
Huyền
12D210079 Ví dụ liên hệ B
7 Đoàn Thị Thu Huyền 12D210140 Ví dụ liên hệ C
8 Lê Thị Khánh Huyền 12D210257 Mở bài, kết luận C
9 Nguyễn Thị Diệu
Khanh
12D210084 Thực trạng Việt Nam,
Thuyết trình
A
10 Lê Duy Khánh 12D210202 Cơ chế 2 bên B
Thư ký Nhóm trưởng
Hường Huyền
Đỗ Thị Hường Nguyễn Thị Huyền
Thảo luận Quan hệ lao động – Nhóm 05 Page 17

×