Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

đồ án kỹ thuật công trình biển Sự cần thiết phải phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.57 KB, 74 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Mục lục
Mục lục 1
Danh mục bảng biểu 5
Lời nói đầu 1
Chương I: Sự cần thiết phải phát triển công nghiệp phụ trợ
đóng tàu 5
1. Khái quát các đặc điểm của ngành công nghiệp đóng tàu 5
1.1. Khái niệm công nghiệp đóng tàu 5
1.2. Các đặc điểm cơ bản về công nghệ, kỹ thuật và quy trình của ngành
công nghiệp đóng tàu 5
1.2.1. Đặc điểm cơ bản của ngành công nghiệp đóng tàu 5
1.2.2. Đặc điểm quy trình đóng tàu 6
1.3. Các bộ phận cơ bản của một con tàu và các loại tàu cơ bản 9
13.1. Các bộ phận cơ bản của một con tàu 9
1.3.2. Các loại tàu thủy chính 10
1.4. Các bộ phận trong một con tàu mà Việt Nam ta cần hướng tới sản
xuất trong nước 11
2. Công nghiệp phụ trợ đóng tàu 12
2.1. Khái niệm công nghiệp phụ trợ 12
2.2. Công nghiệp phụ trợ cho đóng tàu 16
2.3. Phân loại các ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu 16
3. Sự cần thiết phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu 17
4. Những lợi thế của Việt Nam trong việc phát triển ngành công nghiệp
phụ trợ đóng tàu 18
4.1. Những thuận lợi của Việt Nam trong phát triển công nghiệp phụ trợ
đóng tàu 18
Nguyễn Thị Vân Anh Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
4.2. Những khó khăn của Việt Nam trong phát triển công nghiệp đóng
tàu 19


Chương II: Thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt
Nam trong thời gian qua 21
1. Khái quát thành tựu của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam
trong thời gian qua 21
1.1. Tình hình sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp đóng tàu
trong thời gian qua 21
1.1.1. Tình hình kinh doanh của ngành công nghiệp tàu thủy 21
1.1.2. Cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp tàu thủy 28
1.2. Những khó khăn tồn tại của ngành công ngiệp đóng tàu Việt Nam ta
trong thời gian qua 29
2. Thực trạng của ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt Nam ta
trong thời gian qua 31
2.1. Thực trạng của ngành công nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu
Việt Nam trong thời gian qua 31
2.2. Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu Việt Nam
36
2.2.1. Số lượng các nhà máy 36
2.2.2. Về phân bổ các nhà máy 39
2.2.3. Về công nghệ đóng- sửa chữa tàu 39
2.2.4. Về các ngành công nghiệp phụ trợ 39
Chương III: Giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đóng
tàu trong giai đoạn đến năm 2020 50
1. Định hướng phát triển các ngành phụ trợ 50
1.1. Căn cứ xác định phương hướng phát triển của ngành công nghiệp
tàu thủy nước ta 50
Nguyễn Thị Vân Anh Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2. Quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển công nghiệp phụ
trợ 52
1.2.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển công nghiệp phụ trợ đóng

tàu 52
1.2.2. Kế hoạch thực hiện 57
2. Các giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng
tàu 60
2.1. Quy hoạch phù hợp và hiệu quả 60
2.1.1. Nội dung cơ bản của quy hoạch CNTTVN đến 2010 và định
hướng đến 2020 mục tiêu phát triển quy hoạch 60
2.1.2. Quan điểm phát triển quy hoạch 61
2.1.3. Nội dung quy hoạch 61
2.2. Khuôn khổ pháp lý 62
2.3. Các chính sách hỗ trợ của Nhà Nước 63
2.3.1. Chính sách tín dụng đầu tư 63
2.3.2. Chính sách bảo hộ sản phẩm 63
2.33. chính sách kích cầu tiêu dùng sản phẩm trong nước 63
2.3.4. Chính sách đầu tư cho nghiên cứu và phát triển 63
2.3.5. Các chính sách thuế ưu đãi 63
2.4. Kêu gợi đầu tư nước ngoài 64
2.4. Đào tạo phát triển đội ngũ thiết kế, cán bộ kỹ sư và công nhân có
trình độ cao 64
2.5. Đầu tư nâng cấp các cơ sở công nghiệp phụ trợ đã có để nâng cao
năng lực sản xuất 65
2.6. Cần có sự phối hợp của các ngành các cấp liên quan 66
2.7. Đầu tư có lựa chọn, có ưu tiên 67
Kết luận 68
Nguyễn Thị Vân Anh Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Danh mục tài liệu tham khảo 69
Nguyễn Thị Vân Anh Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Danh mục bảng biểu

Bảng 1: Bảng doanh thu của Vinashin giai đoạn 2004-2008 25
Bảng 2: Bảng tỷ suất lợi nhuận của Vinashin giai đoạn 2004 2008.26
Bảng 3: Dự báo số tàu thuyền tăng thêm trong
giai đoạn 2001-2010 và 2020 27
Bang 4: Dự báo số tàu chở khách tới giai đoạn 2005-2010 27
Bảng 5: Bảng năng lực đóng mới của Vinashin đến 2015 28
Bảng 6: kích cỡ gam máy cắt kim loại điều khiển CNC đã được chế
tạo tại viện máy và dụng cụ công nghiệp 42
Bảng 7: thiết bị sản xuất được trong thơi gian qua 43
Bảng 8: động cơ diesel và máy phát điện đồng bộ dùng cho ngành
hàng hải, đường sắt 44
Bảng 9: động cơ máy chính dùng cho hàng hải 45
Bảng 10: động cơ máy chính dùng cho hàng hải 46
Nguyễn Thị Vân Anh Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn đến 2020, Đảng và Nhà
Nước ta đã xác định rõ ngành công nghiệp tàu thủy là một trong bảy ngành công
nghiệp mũi nhọn của Việt Nam – là ngành có nhiều lợi thế so sánh động mà Việt
Nam cần có những chính sách hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của ngành nhằm
thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp nói chung. Nhưng đến nay, tình trạng ngành
công nghiệp đóng tàu của Việt Nam vẫn chỉ mới dừng lại ở trình độ lắp ráp, hầu
hết các thiết bị, phụ kiện dùng để đóng tàu đều phải nhập khẩu từ bên ngoài. Điều
này dẫn tới giá trị của một con tàu đóng mới rất thấp. Do đó, để ngành phát triển
con đường duy nhất đó là nâng cao giá trị của một con tàu đóng mới, và phương
thức duy nhất để làm được điều đó một cách hiệu quả đó là nâng cao tỷ lệ nội địa
hóa rong ngành đóng tàu. Điều này đồng nghĩa với việc phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp đóng tàu. Như vậy, nhiệm vụ cấp bách trước
mắt để Việt Nam ta phát triển được công nghiệp đóng tàu là phải đi phát triển nhanh

và mạnh các ngành công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu để từ đó tăng tối
đa giá trị gia tăng của một con tàu đóng mới. Trên thực tế, nước ta cũng đã quan
tâm chú ý đầu tư phát triển tới các ngành công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp
đóng tàu trong những năm gần đây. Nhưng do chưa thực sự nhận thức được hết vai
trò hết sức quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp đóng
tàu nên nguồn vốn đầu tư cho ngành còn tương đối hạn hẹp, các chính sách quan
tâm của Chính Phủ cũng chưa thực sự thích đáng, quy hoạch chưa đúng. Do đó, cho
đến nay mặc dù có thể nói Việt Nam có một ngành công nghiệp đóng tàu tương đối
phát triển nhưng ngành phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu thì hầu như chưa có nên
doanh thu nói chung của ngành đóng tàu là còn tương đối thấp. Để sửa sai, trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn tới năm 2020 chính phủ cũng nêu rõ
quan điểm của mình như sau: hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ như một khâu
Nguyễn Thị Vân Anh 1 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
đột phá của giai đoạn 2006-2020 để đưa công nghiệp phát triển cao trong giai đoạn
sau.
Như vậy vừa để phù hợp với chiến lược phát triển, vừa để phát triển được
ngành công nghiệp đóng tàu ta phải tìm ra giải pháp để phát triển các ngành công
nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu. Do đó, đây là một vấn đề cấp thiết của
công nghiệp Việt Nam. Việt Nam muốn phát triển ngành công nghiệp đóng tàu nhất
thiết phải phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp đóng tàu.
Đây cũng là một cách nhằm thúc đẩy nhiều ngành công nghiệp khác phát triển, và
tận dụng mọi lợi thế sẵn có của Việt Nam. Đó là lý do mà em chọn đề tài này.
Kết cấu của bài viết về đề tài những giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ
cho công nghiệp đóng tàu bao gồm ba chương như sau: chương 1: Sự cần thiết phải
phát triển công nghiệp phụ trợ: chương 2: Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ
công nghiệp đóng tàu trong thời gian qua: chương 3: Giải pháp phát triển công
nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu trong giai đoạn tới 2020
Do sự hiểu biết về ngành đóng tàu cũng như các ngành công nghiệp phụ trợ
đóng tàu còn hạn hẹp, thời gian và tài liệu hạn hẹp nên bài viết còn nhiều phần chưa

được rõ , và còn nhiều bất cập sai sot, mong các thầy cô đọc và góp ý để bài viết
được hoàn thiện hơn.
Bài chuyên để này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình và chân thành
của thầy giáo Phan Huy Đức, và của chú cán bộ Bộ Kế Hoạch và đầu tư chú Thông.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phan Huy Đức đã giúp đỡ em hoàn thành
chuyên đề này.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu đê tài
Công nghiệp tàu thủy được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hôi
giai đoạn từ nay tới năm 2020 là một trong bảy ngành công nghiệp mũi nhọn của
nền côngn nghiệp Việt Nam. Do đo, cần nhanh cóng tìm ra giải pháp phát triển
Nguyễn Thị Vân Anh 2 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
ngành một cách hiệu quả nhất và nhanh nhất. HIện nay ngành vẫn chưa phát triển
đúng như mong muốn,tiềm năng của ngành, giá trị gia tăng của một con tùa đóng
mới còn tương đối thấp. Nguyên nhân chính của giá trị gia tăng của tàu do VIệt
Nam đóng mới chưa cao là do trình độ nội địa hóa của ngành còn kém, các thiết bị,
nguyên vật liệu cho đóng tàu chủ yếu là nhập khẩu. Do đó vấn đề phát triển ngành
công nghiệp mũi nhọn công nghiệp đóng tàu trở thành vấn đề phát triển công
nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu. Chỉ khi công nghiệp phụ trợ công nghiệp
đóng trùa phát triển thì mới có thể nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, từ đó nâng cao giá trị
gia tăng của một con tàu đong mới, từ đó mới phát triển được ngành công nghiệp
đong tàu đúng như mong muốn.
Trong bài chuyên đề của mình, tôi tập trung đi tìm giải phát phát triển công
nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu dựa trên cơ sở khác phục những cái mà Việt
Nam ta yếu, tận dụng tối đa những lợi thế của đất nước.
2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ 15 tuần thực tập, sự thu thập tài liệu của bản thân có hạn nên
tôi chỉ xin nghiên cứu chính là tình hihf phát triển của các ngành công nghiệp đóng
tàu và các ngành phụ trợ công nghiệp đóng tàu trong một số năm gần đây, và tập

trung vào tập đoàn công nghiệp tàu thủy VIệt Nam Vinashin là chủ yếu. Trong
ngành công nghiệp đóng tàu tôi chỉ tập trung xem xét tình hình sản xuất cũng như
tình hình kinh doanh những năm gần đây: sản xuất những loại tàu nào, trọng tải bao
nhiêu, doanh thu như thế nào, bản cho những loại đối tượng nào, số lượng bao
nhiêu,…; đặc biệt là hệ thống cơ sử hạ tầng của ngành: có bao nhiêu nhà máy đóng
mơi, bao nhiêu nhà máy sửa chữa, bao nhieu nhà máy sản xuất nguyên vật liệu phục
phụ đóng tàu, Trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp phát triển ngành công nghiệp
phụ trợ để có thể phát triển công nghiệp đóng tàu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong bài là các phương pháp nghiên cứu
thông dụng mà tôi đã được học trong giai đoạn học lý thuyết bao gồm:
Nguyễn Thị Vân Anh 3 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Các phương pháp thu thập số liệu:`các số liệu tôi dùng trong bài chủ yếu tôi
thu thập tại cơ quan thực tập Bộ kế hoạch và đầu tư, từ các báo cáo của các tập đoàn
công ty đóng tàu hàng tháng , hàng năm, từ các trang wed, các tạp chí nói về công
nghiệp đóng tàu,
Phương pháp dự báo: trong một số phầnp tôi sử d ụng phương pháp dự báo để
dự báo tình hình sản xuất của các cơ sở sản xuất tàu thủy trong những năm tiếp theo
của bảng số liệu. và dự báo tốc độ tăng trưởng của chúng trong tương lai gần,
Ngoài ra còn một só phương pháp khác như phương pháp thống kê,phương
pháp dự báo cầu, dự báo nhu cầu về tàu thủy trong những năm sắp tới về số lượng,
số loại tàu như thế nào,…
4. Nội dung nghiên cứu
Trong chuyên đề tốt nghiệp của mình tôi chỉ tập trung nghin cứu các nội dung
sau trong 3 chương của bài viết: Sự cần thiết phải phát triển công nghiệp phụ trợ;
Thực trạng phát triển công nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu trong thời gian
qua; Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ công nghiệp đóng tàu trong giai đoạn
tới 2020.
Nguyễn Thị Vân Anh 4 Kinh tế phát triển 47A_QN

Chuyên đề tốt nghiệp
Chương I: Sự cần thiết phải phát triển công nghiệp phụ trợ
đóng tàu
1. Khái quát các đặc điểm của ngành công nghiệp đóng tàu
1.1. Khái niệm công nghiệp đóng tàu
Ngành cơ khí là một trong bảy ngành công nghiệp trọng điểm mũi nhọn cần
được thúc đảy đầu tư phát triển trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam
trong thời gian tới và định hướng tầm nhìn tới năm 2020. Trong đó, công nghiệp
đóng tàu là một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất của ngành công
nghiệp cơ khí mà nếu phát triển dược sẽ khéo theo nhiều ngành công nghiệp cơ khí
khác phát triển. Ngành công nghiệp đóng tàu là một trong những ngành công
nghiệp nặng chuyên về thiết kế, đóng và sửa chữa các loại tàu thủy.
1.2. Các đặc điểm cơ bản về công nghệ, kỹ thuật và quy trình của ngành công
nghiệp đóng tàu
1.2.1. Đặc điểm cơ bản của ngành công nghiệp đóng tàu
Công nghiệp tàu thủy là ngành công ngiệp đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Ngoài vốn
để thuê mua mặt bằng như những ngành khác thì chi phí để mua các máy móc,
trang thiết bị nằm đóng và sửa chữa tàu thủy là rất lớn. Do đó, để thành lập một nhà
máy đóng tàu thì cấn rất nhiều sự đầu tư của chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư liên
doanh, và đặc biệt không thể thiếu được sự hỗ trợ của nhà Nước.
Ngành công nghiệp tàu thủy là ngành đòi hỏi công nghệ cao và luôn luôn đổi
mới công nghệ. Đóng tàu phải đáp ứng được rất nhiều tiêu chuẩn của thế giới, tiêu
chuẩn về độ an toàn của tùa, tiêu chuẩn về đảm bảo môi trường,… vì thế công nghệ
dùng trong công nghiệp đóng tàu thường là rất cao. Công nghệ này cũng phải được
thường xuyên cập nhật và đổi mới theo nhịp độ thay đổi của công nghệ đóng tàu thế
giới.
Nguyễn Thị Vân Anh 5 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Công nghiệp tàu thủy đòi hỏi đội ngũ công nhân viên cán bộ phải có trình độ.
Không giống như một số ngành công nghiệp nặng khác, công nghiệp đóng tàu đòi

hỏi rất cao về độ chính xác trong thiết kế, đóng và sửa chữa nên yêu cầu công nhân
trong các nhà máy đóng tàu cũng phải có một trình độ tay nghề nhất nhất định. Đặc
biệt là đội ngũ quản lý trong các nhà máy đóng tàu cần phải có trình độ nhất định.
Công nghiệp đóng tàu muốn phát triển phải có sự quan tâm phát triển đồng
đều của nhiều ngành nên rất cần nhiều chính sahcs hỗ trợ của nhà Nước, các chính
sách về vay vốn ưu đãi, các chính sách hỗ trợ về thuê mặt bằng, và nhiều chính sách
khác,…
1.2.2. Đặc điểm quy trình đóng tàu
Để đóng mới hoàn thành một con tàu, cần trải qua mười giai đoạn như sau
∗Giai đoạn 1:Thiết kế
Ở giai đoạn này, người ta thực hiện các bản vẽ thiết kế hình dáng vỏ tàu và
chân vịt, đồng thời tiến hành chế tạo và thử mô hình tàu ngay sau khi kí hợp đồng
và có những đặc tính kỹ thuật cơ bản.
Tiến hành thiết kế cơ bản (Basic design): Trong đó bao gồm cả tính toán thử
nghiêng, khả năng ổn tính, các kết cấu cơ bản như: đường hình dáng, mặt cắt ngang,
các vách chính, các boong, phần mũi, phần lái v v.
Tiến hành thiết kế kỹ thuật và thiết kế thi công (Technical and Production
designs): Trong quá trình này các bản vẽ cơ bản như kết cấu tàu, các hệ thống ống,
máy, điện được triển khai chi tiết. Các bản vẽ thi công được thực hiện cho kết cấu
từng tổng đoạn, lắp đặt thiết bị v.v. . . Đồng thời cũng tiến hành xác định các đặc
tính sơn cho vỏ tàu.
Các bản vẽ thiết kế cơ bản, kỹ thuật và thi công được thực hiện trên máy tính
và bằng các phần mềm thiết kế, các dữ liệu vế vật tư, thiết bị cần mua được chuyển
qua mạng nội bộ sang các bộ phận mua bán vật tư, thiết bị để tiến hành các thủ tục
đặt hàng.
Nguyễn Thị Vân Anh 6 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
*Giai đoạn 2:Cắt tôn, một số nhà máy coi giai đoạn này mới là bắt đầu
khởi công đóng mpis một con tàu
Đầu tiên các tấm tôn được sơn lót, sau đó được chuyển đến phân xưởng cắt

bằng dây chuyền.
Trên cơ sở các thông tin thu nhận được từ máy tính, máy cắt tự động sẽ cắt các
tấm tôn theo đúng như trong bản vẽ thiết kế.
Mỗi tấm tôn khi được cắt ra sẽ có kí hiệu riêng và sau đó chúng được chuyển
sang phân xưởng lắp ráp.
*Giai đoạn 3:Lắp ráp phân, tổng đoạn
Trong quá trình lắp ráp, các tấm tôn riêng biệt được hàn vào với nhau thành
các phân, tổng đoạn.
Công việc lắp ráp được thực hiện theo qui trình sản xuất, các tấm tôn phẳng
như khung đọc, khung ngang được lắp trước, sau đó mới nối với các phần cong.
Quá trình hàn được thực hiện trên dây chuyền.
Ở các nhà máy đóng tàu lớn của Hàn Quốc, hàng ngày trong các phân xưởng
có thể tiến hành lắp từ 20 đến 30 tổng đoạn, mỗi chiếc có trọng lượng tới 300T.
*Giai đoạn 4: Sơ bộ Lắp ráp các khí cụ ,giá đỡ
Rất nhiều thiết bị được lắp sơ bộ trong khi lắp ráp các phân, tổng đoạn tàu.
Các đường ống, cáp điện lớn và các bệ máy cũng được đặt đồng thời trong phân,
tổng đoạn Rất nhiều các bộ phận thiết bị cho buồng máy, cho các đường ống, dây
điện cũng được lắp sơ bộ.
Nguyễn Thị Vân Anh 7 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
*Giai đoạn 5: Sơn
Các phân, tổng đoạn sau khi lắp xong được chuyển đến phân xưởng sơn bằng
các xe chở tổng đoạn Bề mặt các tấm tôn của tổng đoạn được làm sạch và sau đó
sơn từ 3 đến 6 lớp sơn.
Các chỗ dùng để nối các tổng đoạn với nhau sẽ được sơn kỹ hơn sau khi các
tổng đoạn đã được hàn nối với nhau trên đà.
Hiện nay nhiều nhà máy đóng tàu hiện đại có những phân xưởng sơn rất lớn,
được trang bị đầy đủ các thiết bị chống ô nhiễm và sử dụng các hoại sơn không độc,
thân thiện với môi trường, chống gỉ rất tốt, không gây tổn hại cho sức khỏe con
người và kéo dài tuổi thọ của tàu.

*Giai đoạn 6: Đấu tổng đoạn trên đà
Sau khi sơn xong ở bãi lắp ráp ngoài trời gần đà, các phân đoạn nhỏ được hàn
với nhau để thành các tổng đoạn lớn.
Các tổng đoạn lớn được đưa lên đà để hàn đấu với nhau thành con tàu.
*Giai đoạn 7: Hạ thuỷ
Sau khi đấu xong các tổng đoạn và các phần mũi, lái, tàu được hạ thủy xuống
nước và đưa ra cầu tàu để tiếp tục lắp phần ca bin thượng tầng và các thiết bị khác
Theo truyền thống, khi hạ thủy người mẹ đỡ đầu cho con tàu sẽ ném chai sâm
panh vào phần mũi tàu. Sau khi chai sâm panh vỡ tung, tàu được cắt các dây giữ và
được đẩy xuống nước.
*Giai đoạn 8: Lắp hoàn chỉnh thiết bị
Trên những bệ, giá đã được đặt sẵn ở giai đoạn trước trên tàu, các thiết bị như
máy chính, nồi hơi, thiết bị máy, thiết bị điện được tiến hành lắp và hoàn thiện trong
buồng máy, ca bin cũng như trong các khu vực khác của tàu
Nguyễn Thị Vân Anh 8 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Tuy nhiên, ở các nhà máy đóng tàu của Hàn Quốc có tới 90% các thiết bị được
lắp lên tàu trước khi hạ thủy, vì khi lắp thiết bị trên bờ thì các điều kiện về ổn định
tốt hơn và do đó chất lượng lắp ráp cũng tốt hơn.
*Giai đoạn 9: Thử đường dài
Trong quá trình thử đường dài, tất cả chức năng của các hệ thống trên tàu sẽ
được kiểm nghiệm và hoạt động như khi hành trình thật. Máy chính, trạm phát điện
hoạt động cung cấp điện năng cho tất cả các thiết bị để tiến hành thử các hệ thống.
Chủ tàu và cơ quan Đăng kiểm cũng tham gia thử đường dài để xác nhận toàn
bộ các hạng mục theo đúng hợp đồng và thiết kế.
*Giai đoạn 10: Bàn giao
Sau khi tàu thử đường dài xong sẽ làm lễ bàn giao cho chủ tàu.
Sau khi bàn giao xong, tàu được phép chính thức vận hành.
Để nâng cao được tỷ lệ nội địa hoá không những đòi hỏi phải sản xuất được
các thiết bị tàu thuỷ mà còn phải làm chủ được quy trình đóng tàu bằng đội ngũ

công nhân kỹ sư trong nước.Chỉ khi nào ngành đóng tàu Việt Nam làm chủ được
quy trình đóng tàu , đồng nghĩa với làm chủ được công nghệ thì chúng ta mới thực
sự nội địa hoá thành.
1.3. Các bộ phận cơ bản của một con tàu và các loại tàu cơ bản
13.1. Các bộ phận cơ bản của một con tàu
Về cơ bản các thiết bị tàu thuỷ có thể chia làm 3 phần: phần vỏ tàu, phần điện
và phần máy.
* Phần vỏ tàu: bao gồm vỏ thép, các trang thiết bị bên trong tàu, boong tàu,
hầm tàu, xuồng cứu hộ,…
Các vật tư nguyên liệu và thiết bị cần sản xuất như:sản xuất thép tấm và các
loại thép chuyên dụng dùng làm vỏ tàu đòi hỏi phải có nhà máy cán và chế biến
thép đi kèm; các thiết bị nội thất bên trong tàu đòi hỏi phải có nhà máy nội thất tàu
Nguyễn Thị Vân Anh 9 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
thuỷ; sơn và vật liệu hàn…đòi hỏi phải có nhà máy sản xuất vật liệu hàn và nhà
máy sơn,hoá chất. Một vài đòi hỏi trên cho thấy để nội địa hoá được phần vỏ tàu đòi
hỏi phải có ngành công nghiệp phụ trợ rất mạnh, đặt ra rất nhiều khó khăn cho
ngành đóng tàu trong việc nâng cao tỷ lệ nội địa hoá đạt 60% vào năm 2010.
* Phần máy:bao gồm động cơ hai thì, động cơ bốn thì, hệ thống điều khiển,
bánh lái,máy quay chân vịt, máy phát điện, các loại bơm, các thiết bị hộp số, chân
vịt,…
Tàu thủy có rất nhiều loại máy như: máy chính quay chân vịt,máy phát
điện,các loại bơm,nồi hơi tàu thuỷ ,các thiết bị hộp số và chân vịt…Để tự sản xuất
được phần máy tàu cần có ngành cơ khí chế tạo máy đi kèm.
* Phần điện.
Một vài chi tiết, hệ thống cần chế tạo: trước hết phải có được bản thiết kế sơ
đồ hệ thống điện trên tàu, hệ thống chuông truyền lệnh chỉ huy, thiết bị tự động phát
báo hiệu sương mù, bảng đèn và tín hiệu hàng hải, bộ báo động số…Để nội địa hoá
được phần điện cần có ngành điện tử đi kèm.
1.3.2. Các loại tàu thủy chính

Theo chức năng chuyên chở và đối tượng phục vụ: tàu hàng, tàu khách, tàu
đánh bắt thủy sản, tàu quân sự, tàu nghiên cứu thềm lục địa, tàu chuyên dụng.
Theo vùng hoạt động (cấp tàu): bao gồm tàu biển và tàu sông. Tàu biển: cấp
không hạn chế, hạn chế cấp I: cách bờ không quá 200 hải lý, hạn chế cấp II: cách
bờ không quá 50 hải lý, hạn chế cấp III: cách bờ không quá 20 hải lý; Tàu sông:
hạn chế cấp I: chiều cao sóng h
3%
không quá 2m, hạn chế cấp II: chiều cao sóng h
3%
không quá 1.2m; Tàu pha sông biển: theo cấp tàu biển.
Cách phân loại theo chức năng chuyên chở thường được áp dụng rộng rãi
nhất. Tàu hàng là loại tàu chuyên chở hàng hóa, tàu khách là tàu chuyên chở khách
du lịch hoặc tàu chở khách thông thường, tàu đánh bắt thủy sản là tàu các ngư dân
hoặc các doanh nghiệp dùng để ra biển đánh bắt thủy hải sản, tàu quân sự là tàu
Nguyễn Thị Vân Anh 10 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
dùng trong ngành quân sự như tàu chiến,…, tàu nghiên cứu thềm lục địa thường là
tàu ngầm dùng chuyên lặn sâu xuống các lục địa để các nhà khoa học nghiên cứu
dưới đáy đại dương, và các loại tàu chuyên dụng khác là các loại tàu chuyên dùng
vào một mục đích nào đó,…
1.4. Các bộ phận trong một con tàu mà Việt Nam ta cần hướng tới sản xuất
trong nước
Để nâng cao giá trị gia tăng của một con tàu Việt Nam ta cần chú tâm tới phát
triển các bộ phận của một con tàu mà cần trình độ công nghệ có thể chưa cần quá
cao, ta không cần sản xuất tất cả các bộ phận của một con tùa mà ta chỉ nên phát
triển sản xuất những gì tận dụng được những lợi thế trong nước như:
Vỏ tàu bằng thép: yêu cầu cần có ngành công nghiệp thép đóng tàu phát triển
theo. Ngành công nghiệp thép đóng tàu có thể liên doanh hoặc chuyển giao công
nghệ từ các hãng sản xuất thép nổi tiếng thế giới để chế tạo thép tấm đóng tàu kích
thước lớn 24m*4,5m*0,05m; thép hình các loại; thép ống không hàn; thép cường độ

cao, thép chế tạo, thép không rỉ,…Hiện nay, tổng công ty tàu biển Việt Nam đang
triển khai xây dựng nhiều nhà máy cán thép phục vụ cho đóng tàu.
Động cơ tàu thủy: hiện nay, có tổng công ty máy Động lực và máy Nông
nghiệp Bộ Công nghiệp có 21 đơn vị thành viên, có thể sản xuất được các loại động
cơ tàu thủy 160CV, hộp số 6-90CV, xích neo 10000DWT.
Bộ điều kiển tự động: trình độ tin học Việt Nam ta hiện nay cũng tương đối
cao, và ngành công nghệ thông tin ở VIệt Nam cũng tương đối phát triển và có
nhiều tiềm năng, do đó ngành công nghiệp đóng tàu nên đầu tư phát triển sản xuất
các thiết bị điều khiển tự động. Đây là giai đoạn mà ta có thể nhảy vọt để phát triển
công nghiệp đóng tàu.
Ngoài ra, Việt nam ta cũng có thể hướng tới sản xuất các bộ phận khác như
các trang thiết bị nội thất trên tàu, hệ thống điện, hệ trục, chân vịt,…
Nguyễn Thị Vân Anh 11 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Công nghiệp phụ trợ đóng tàu
2.1. Khái niệm công nghiệp phụ trợ
Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” được sử dụng rộng rãi, thế nhưng khái niệm
công nghiệp phụ trợ chưa hình thành một cách hiểu thống nhất trong các lý thuyết
kinh tế cũng như trên thực tế.Junichi Mori (2005) cho rằng có hai cách tiếp cận đối
với khái niệm công nghiệp phụ trợ: từ lý thuyết kinh tế và từ thực tiễn sản xuất kinh
doanh.
Theo lý thuyết kinh tế, công nghiệp phụ trợ được định nghĩa là các ngành sản
xuất đầu vào (manufactured inputs). Công nghiệp phụ trợ chính là những ngành sản
xuất các sản phẩm đầu vào, gồm: Các sản phẩm, hàng hóa trung gian (intermediate
goods);Các sản phẩm, hàng hóa phục vụ quá trình sản xuất (capital goods).
Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, có hai cách hiểu về công nghiệp phụ trợ.
Ở góc độ hẹp, công nghiệp phụ trợ là các ngành sản xuất phụ tùng linh kiện phục vụ
cho công đoạn lắp ráp ra sản phẩm hoàn chỉnh. Ở góc độ rộng hơn, công nghiệp phụ
trợ được hiểu như toàn bộ các ngành tạo ra các bộ phận của sản phẩm cũng như tạo
ra các máy móc, thiết bị hay những yếu tố vật chất nào khác góp phần tạo thành sản

phẩm. Khái niệm công nghiệp phụ trợ trên thực tế chủ yếu sử dụng trong các ngành
công nghiệp có sản phẩm đòi hỏi sự kết nối của nhiều chi tiết phức tạp đòi hỏi tính
chính xác cao, dây chuyền sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt.
Hai ngành công nghiệp hay sử dụng nhiều khái niệm công nghiệp phụ trợ là ngành
ô tô và điện tử. Tuy nhiên, nếu đặt góc nhìn rộng hơn, công nghiệp phụ trợ phải
được hiểu một cách tổng quát như một hình dung về toàn bộ quá trình sản xuất nói
chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi
loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ
khác nhau về yếu tố phụ trợ.
Công nghiệp phụ trợ còn được hiểu theo nghĩa: gồm tất cả các ngành công
nghiệp sản xuất đầu vào hay bó hẹp trong một số ngành sản xuất các bộ phận sản
Nguyễn Thị Vân Anh 12 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
phẩm, linh kiện và thiết bị phục vụ cho một số ngành sẽ tùy thuộc vào mục đích tiếp
cận của người sử dụng khái niệm này.
Có ba cách thể hiện chính thức định nghĩa về công nghiệp phụ trợ trong các
văn bản cấp quốc gia, gồm:
Theo cách tổng quát. Định nghĩa chính thức của quốc gia về công nghiệp phụ
trợ được Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) đưa ra vào vào
năm 1993: Công nghiệp phụ trợ là các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tố cần
thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn… cho các ngành công nghiệp lắp ráp
(bao gồm ô tô, điện và điện tử). Cũng theo cách này, Phòng Năng lượng Hoa Kỳ
trong ấn phẩm năm 2004 với tên gọi “Các ngành công nghiệp phụ trợ: công nghiệp
của tương lai”, đã định nghĩa công nghiệp phụ trợ là những ngành sử dụng nguyên
vật liệu và các quy trình cần thiết để định hình và chế tạo ra sản phẩm trước khi
chúng được lưu thông đến ngành công nghiệp sử dụng cuối cùng (end-use
indutries). Tuy khái niệm của Phòng Năng lượng Hoa Kỳ đưa ra rất tổng quát
nhưng cơ quan này, trong phạm vi chức năng của mình, tập trung chủ yếu vào mục
tiêu tiết kiệm năng lượng. Do đó, công nghiệp phụ trợ theo quan điểm của cơ quan
này là những ngành tiêu tốn nhiều năng lượng như than, luyện kim, thiết bị nhiệt,

hàn, đúc…
Theo cách cụ thể. Định nghĩa của Văn phòng phát triển công nghiệp phụ trợ
Thái Lan (Bureau of Supporting Industries Development - BSID): Công nghiệp phụ
trợ là các ngành công nghiệp cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng
gói và dịch vụ kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản (nhấn mạnh các ngành
cơ khí, máy móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử là những ngành công nghiệp
phụ trợ quan trọng).
Theo cách liệt kê. Hội đồng đầu tư Thái Lan phân loại các ngành công nghiệp
sản xuất thành phẩm thành 3 bậc: lắp ráp, sản xuất linh kiện và phụ kiện, và các
ngành công nghiệp phụ trợ. Năm sản phẩm chính của ngành công nghiệp phụ trợ là
gia công khuôn mẫu, gia công áp lực, đúc, cán và các gia công nhiệt.
Nguyễn Thị Vân Anh 13 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Có thể nói, công nghiệp phụ trợ cho đến nay vẫn chưa được hiểu một cách
thống nhất. Không chỉ về chuẩn hóa định nghĩa hay cách tiếp cận, còn có hai quan
điểm trái ngược nhau về đặc thù của ngành công nghiệp phụ trợ.
Quan điểm từ các lý thuyết kinh tế phát triển về công nghiệp thượng nguồn và
hạ nguồn cho rằng, công nghiệp phụ trợ có đặc tính thâm dụng vốn, có độ phủ rộng
phục vụ và chia sẻ với nhiều ngành sản xuất. Khác với ngành hình thành sản phẩm
cuối cùng có thể cần nhiều nhân lực phổ thông, các thiết bị, linh kiện, sản phẩm hỗ
trợ được sản xuất với sự đầu tư tốn kém về máy móc và nguồn nhân lực kỹ thuật
cao. Chính vì vậy, công nghiệp phụ trợ là những ngành thâm dụng vốn, đòi hỏi cao
về chất lượng lao động. Mặt khác, công nghiệp phụ trợ có độ phủ rộng, sản phẩm có
thể sử dụng chung cho nhiều ngành, do đó phải đáp ứng được những yêu cầu
nghiêm ngặt về công nghệ và tiêu chuẩn kỹ thuật. Cả hai đặc tính này khiến công
nghiệp phụ trợ ở các nước đang phát triển kém tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại các nước đang phát triển thường không đủ nguồn lực về vốn cũng
như về lao động kỹ thuật cao để có thể phát huy vai trò của công nghiệp phụ trợ khi
tham gia chuỗi giá trị.
Ngược lại, công nghiệp phụ trợ trong quan điểm khác gắn với khái niệm

doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khái niệm công nghiệp phụ trợ của Trần Văn Thọ
(2006) chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất
các thành phẩm chính, cụ thể gồm những linh kiện, phụ tùng, phụ liệu, bao bì…và
bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm công
nghiệp phụ trợ, theo ông, thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, những ngành sản xuất thâm dụng vốn như quan
điểm trên sẽ không được tính là công nghiệp phụ trợ. MITI - Bộ Công nghiệp và
Thương mại quốc tế Nhật Bản (đổi thành METI vào năm 2001) ban đầu với mục
đích thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại các nước Đông Nam Á cũng đã có cách hiểu tương tự. Trong các báo cáo của
MITI vào năm 1985, công nghiệp phụ trợ được xem là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nguyễn Thị Vân Anh 14 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
sản xuất linh kiện, đóng vai trò tạo lập hạ tầng công nghiệp vững mạnh tại các quốc
gia Đông Nam Á. trong trung và dài hạn.
Ở Việt Nam, quan niệm về công nghiệp phụ trợ xuất hiện trong các chương
trình hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Khái niệm này được du nhập vào nước ta thông
qua vai trò của Diễn đàn kinh tế Việt Nam (VDF) và ảnh hưởng của các luồng FDI
Nhật Bản, đặc biệt gắn với việc chọn lựa địa điểm đặt các nhà máy sản xuất của
những tập đoàn đa quốc gia. Thuật ngữ công nghiệp phụ trợ được sử dụng chính
thức từ năm 2004, chủ yếu trong các chỉ thị, công văn chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ. Chỉ thị số 47/2004/CT-TTg ngày 22/12/2004 về các giải pháp nâng cao sức
cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có đề ra nhiệm vụ trong năm
2005: “Tập trung phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để tăng cường khả năng
cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, phụ liệu đầu vào trong nước cho sản
xuất hàng công nghiệp xuất khẩu và thúc đẩy mối quan hệ bổ trợ liên ngành giữa
các ngành công nghiệp…”. Một vài công văn và chỉ thị sau đó cũng lặp lại nội dung
này (Chỉ thị 27/2006/CT-TTg ngày 07/08/2006). Đặc biệt, nội dung phát triển phát
triển công nghiệp đã được đề cập trong Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành
công nghiệp Việt Nam (Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04/04/2006 về phê

duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các
vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020). Công nghiệp phụ trợ trở thành
một trong những nội dung chính đối với Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp
điện tử Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 (Quyết định số 75/2007/QĐ-
TTg ngày 28/05/2007). Tuy nhiên, trong các văn bản này vẫn chưa xuất hiện một
định nghĩa chính thức về công nghiệp phụ trợ.
Ngày 31/07/2007, Bộ Công nghiệp ra Quyết định số 37/2007/QĐ-BCN phê
duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020. Nội dung quy hoạch không xác định thế nào là công nghiệp hỗ trợ, chủ yếu
nêu ra các ngành cần tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, gồm: dệt-may, da
giày, điện tử-tin học, sản xuất và lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo. Thực tế, công nghiệp
hỗ trợ hay công nghiệp phụ trợ chỉ khác nhau ở cách sử dụng từ ngữ. Nếu căn cứ từ
Nguyễn Thị Vân Anh 15 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
nguyên gốc, supporting industries chủ yếu hướng tới các ngành lắp ráp, có sản
phẩm cuối cùng là một chỉnh thể được lắp ráp từ nhiều bộ phận, linh kiện khác
nhau. Có lẽ theo ý đồ những nhà soạn thảo chính sách, sử dụng thuật ngữ công
nghiệp hỗ trợ sẽ bao hàm nhiều ngành hơn, phù hợp với việc đưa ra các giải pháp
chung. Như vậy, đến nay vẫn chưa hình thành quan điểm chính thức về công nghiệp
phụ trợ ở Việt Nam. Các chính sách, văn bản dường như cẩn trọng trong cách sử
dụng thuật ngữ do những khó khăn trong việc định hình một khái niệm vốn có
nhiều quan điểm và tùy từng mục tiêu mà có các lý giải khác nhau.
2.2. Công nghiệp phụ trợ cho đóng tàu
Công nghiệp phụ trợ đóng tàu là một ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành
công nghiệp đóng tàu. Theo cách hiểu đơn giản nhất ngành công nghiệp phụ trợ
đóng tàu là ngành công nghiệp sản xuất các bộ phận trung gian phục phụ cho
ngành công nghiệp đóng tàu bao gồm các ngành công nghiệp sản xuất các linh kiện,
phụ tùng phục vụ sản xuất đóng tàu.
2.3. Phân loại các ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu
Công nghiệp chế tạo thép đóng tàu: thép tấm, thép ống, thép hình,…

Công nghệ chế tạo động cơ tàu thủy động cơ Diesel cao tốc, trung tốc, thấp
tốc; 4 thì, 2 thì,…
Công nghệ chế tạo hệ thông hộp số , trục và chân vịt tàu thủy.
Công nghệ chế tạo hệ thống phát điện tàu thủy.
Công nghệ chế tạo trang thiết bị tàu thủy:động cơ điện, khí điện tàu thủy, cáp
điện tàu thủy, các loại đèn công tắc, ổ cắm tàu thủy, các loại tủ bảng điện tàu thủy,
các hệ thống tự động điều khiển.
Công nghệ chế tạo nghi khí hằng hải: rađa, dò sâu, định vị vệ tinh, đo tốc độ
nước, và đo hướng gió, hệ thống thông tin liên lạc…
Công nghệ chế tạo thiết bị trên boong tàu: nắp hầm hàng, caanf cẩu, tời các
loại, hệ thống neo, hệ thống cứu sinh,…
Nguyễn Thị Vân Anh 16 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Công nghệ chế tạo máy phụ tàu thủy: nồi hơi tàu thủy, các loại bơm, các loại
van vòi, phụ kiện đường ống,các loại máy lọc dầu, hầm dầu, lọc nơpcs biển, làm
mát nước và dầu, sản xuất nước ngọt, hệ thông đo bao mức két,…
Công nghệ chế tạo vật liệu phụ đóng tàu: sơn tàu thủy, vật liệu hàn, điện
cựcchống ăn mòn, vật liệu cách nhiệt, cách âm,…
Công nghệ chế tạo vật liệu trang thiết bị và nội thất tàu thủy
Ngoài ra còn rất nhiều loại máy móc thiết bị phụ tùng, vật tư khác có thể được
sử dụng từ các ngành công nghiệp phụ trợ khácphục phụ đóng tàu.
3. Sự cần thiết phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu
Phát triển công nghiệp phụ trợ đóng tàu để nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành công nghiệp đóng tàu trong nước. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành là vấn đè sống còn của ngành công nghiệp đóng tàu đặc biệt là trong giai
đoạn khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Phát triển công nghiệp đóng tàu là một cách nâng cao vị thế đất nước dựa vào
tận dụng tối đa tiềm năng của đất nước. Việt Nam ta là một quốc gia co nhiều tiềm
ănng, lợi thế cho sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp đóng tùa. Bờ biển dài
3250km, có thể xây dựng hàng trăm hải cảng, 20000m bến, 2,2 triệu m bãi cùng

nhiều eo vịnh nhỏ. Đặc biệt, nhiều địa điểm có thể xây dựng các cảng nước sâu có
cơ hội để đón nhận xu thế đầu tư công nghệ diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Phát triển
công nghiệp đóng tàu cũng góp phần phát triển giao thông đường thủy, mà nước ta
là trung gian giao thông giữa châu Âu và châu Á, án ngữ giữa các tuyến giao thông
hằng hải giữa Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, giữa Châu Âu và trung cận Đông
tới Trung Quốc,… Hơn nữa dân số vùng duyên hải chiếm 32% dân số cả nước, đây
là một nguồn lao đông dồi dào và là một tiềm năng cho phát triển ngành công
nghiệp tàu thủy
Ngành công nghiệp đóng tàu là một trong những ngành công nghiệp tiềm năng
của công nghiệp nặng nước ta, là một trong 8 ngành công nghiệp nằm trong những
Nguyễn Thị Vân Anh 17 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
ngành công nghiệp cần định hướng phát triển, do đó viecj phát triển ngành công
nghiệp đóng tàu là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Muốn phát triển ngành công
nghiệp đóng tau trước hết phải phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cho đóng tàu.
Hay nói cách khác nước ta khoong thể phát triển ngành công nghiệp dóng tàu khi
không phát triển trước ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàung tàu, nội địa hóa ngành
công nghiệp đóng tàu, tăng giá trị gia tăng của một tàu đóng mới do Việt Nam ta
sản xuất.
Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đóng tàu còn là mắt xích để phát triển
các ngành công nghiệp khác như ngành công nghiệp sản xuất thép, công nghệ thông
tin, điện tử, …
Tận dụng tối đa các nguồn lực trong nước như nguồn nhân công dồi dào, giàu
tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là quặng để sản xuất thép,…
Đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp cao, góp phần đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng suy thoái hiện nay.
4. Những lợi thế của Việt Nam trong việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ
đóng tàu
4.1. Những thuận lợi của Việt Nam trong phát triển công nghiệp phụ trợ đóng
tàu

Bên cạnh những khó khăn ngành đóng tàu Việt Nam cũng có rất nhiều thuận
lợi phát triển.
Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển công nghiệp đóng tàu như nguồn tài
nguyên rất dồi dào để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ như sản xuất thép
đóng tàu, dooif dào nguồn nhân công giá rẻ. Việt Nam là cầu nối giao thông cho rất
nhiều quốc gia.
Ngành đóng tàu được chọn làm ngành công nghiệp trọng điểm ưu tiên phát
triển của Việt Nam. Đồng nghĩa với nó là vị trí ưu tiên trong chính sách phát triển
các ngành công nghiệp trong giai đoạn tới của Chính Phủ.Hàng năm đóng tàu nhân
Nguyễn Thị Vân Anh 18 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
được rất nhiều vốn dành cho đầu tư phát triển từ nhà nước. Đây là một thuận lợi rất
lớn nhưng cũng là áp lực thúc đẩy ngành phát triển.
Xu hướng hợp tác phân công lao động quốc tế trong ngành đóng tàu hiện nay
cũng tạo ra cơ hội cho ngành phát triển.
Việt Nam có giá nhân công rẻ đây là thuận lợi rất lớn cho ngành đóng tàu
trong cạnh tranh với các nước như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nhu cầu về tàu thủy các loại ngày càng cao tạo ra cho ngành tàu thủy VIệt
Nam những đơn đặt hàng ổn định cũng là một cơ hội thuận lợi cho ngành công
nghiệp tàu thủy VIệt Nam phát triển.
4.2. Những khó khăn của Việt Nam trong phát triển công nghiệp đóng tàu
Ngành đóng tàu Việt Nam tuy đã có truyền thống lâu đời nhưng hiện nay đang
ở trình độ thấp hơn so với các nước có ngành đóng tàu phát triển mạnh trong khu
vực như Nhật Bản ,HànQuốc và TrungQuốc.Ngành đóng tàu sẽ gặp khó khăn khi
phải cạnh tranh với các nước trên trong việc giành các hợp đồng đóng mới tàu
biển.Ngành đóng tàu đang gặp một số khó khăn chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: hệ thống cảng biển phát triển không đồng bộ với sự phát triển của
ngành đóng tàu.Xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại là điều kiện đầu tiên để phát
triển các ngành kinh tế biển trong đó có ngành đóng tàu.Những cảng trọng điểm
quốc gia Việt Nam hiện nay có cảng Cái Lân,Hải Phòng-ĐìnhVũ,Cửa Lò,Tiên sa-

Đà Nẵng,Quy Nhơn,Nha Trang,Dung Quất,Sài Gòn,Thị Vải và cảng Cần Thơ.Hệ
thống cảng biển Việt Nam hiện nay phát triển khá tủn mủn vì vậy không có tác
dụng hỗ trợ phát triển đóng tàu.Việt Nam muốn quy hoạch các trung tâm đóng tàu
lại phải đầu tư xây dựng hệ thống cảng biển.
Thứ hai: các ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành đóng tàu không phát triển.
Đóng tàu là ngành công nghiệp khá tổng hợp ,sử dụng sản phẩm của rất nhiều
ngành như :cơ khí chế tạo máy, điện tử,sơn,vật liệu hàn…làm đầu vào.Chính vì vậy
thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ là khó khăn rất lớn của ngành.
Nguyễn Thị Vân Anh 19 Kinh tế phát triển 47A_QN
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ ba: Những năm gần đây ngành đóng tàu Việt Nam phát triển rất nhanh
với tốc độ khoảng 40%/năm, để đáp ứng tốc độ tăng trưởng này đòi hỏi một lượng
nhân lực bổ xung hàng năm rất lớn.Thực tế hiện nay nhân lực đóng tàu đang thiếu
cả về số lượng và chất lượng .Ngành đang thiếu nhân lực chất lượng cao đặc biệt
trong các khâu đòi hỏi kỹ thuật cao như thiết kế.Với sự thiếu hụt này ngành không
thể tiến hành đổi mới nâng cấp công nghệ đóng tàu,gây cản trở lớn tới sự phát
triển .
Thứ tư:Ngành đóng tàu là ngành công nghiệp nặng đòi hỏi vốn đầu tư rất
lớn.Với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay việc thiếu vốn đầu tư phát triển
ngành đóng tàu là không tránh khỏi.Thiếu vốn đầu tư phát triển trong những năm
tới đang là khó khăn rất lớn đặt ra.
Nguyễn Thị Vân Anh 20 Kinh tế phát triển 47A_QN

×