Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất thuốc nổ thuộc Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.49 KB, 148 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng. Những kết luận khoa học của Luận án chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Dương Thị Vân Anh
i
MỤC LỤC
ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TK : Tài khoản
CP : Chi phí
NVLTT : Nguyên vật liệu trực tiếp
NCTT : Nhân công trực tiếp
SXC : Sản xuất chung
CPSXKD DD : Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
VLN : Vật liệu nổ
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
iv
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy kế toán của Tổng công ty công nghiệp Hoá chất mỏ
Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.2: Công nghệ sản xuất thuốc nổ AnFo Error: Reference source not
found
Sơ đồ 2.3: Công nghệ sản xuất thuốc nổ AH1 Error: Reference source not
found
Sơ đồ 2.4: Công nghệ sản xuất thuốc nổ Zecnô Error: Reference source not
found
Sơ đồ 2.5: Tổ chức bộ máy kế toán của Tổng công ty công nghiệp hoá chất mỏ. Error:


Reference source not found
Sơ đồ 2.6: Trình tự ghi sổ kế toán tại Tổng Công ty Công nghiệp hóa chất mỏ
- Vinacomin Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.7: Trình tự ghi sổ kế toán tại các doanh nghiệp thành viên2.1.7.3. Tài
khoản kế toán Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.8: Mô hình hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản xuất của các
đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. Error: Reference source not
found
Sơ đồ 3.1: Mô hình hạch toán quá trình nhận vốn của Tổng công ty công
nghiệp hoá chất mỏ - VinacominError: Reference source not found
Sơ đồ 3.2: Mô hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Error:
Reference source not found
Sơ đồ 3.3: Mô hình hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động kinh
doanh Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.4: Mô hình nhận vốn và cấp phát vốn Error: Reference source not
found
v
Sơ đồ 3.5: Mô hình hạch toán chi phí quản lý tại văn phòng tổng công ty
Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.6: Mô hình hạch toán khoản thu, nộp, theo nghĩa vụ của các doanh
nghiệp thành viên và phân phối các quỹ tập trung tại Tổng công ty
Error: Reference source not found
vi
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước để các doanh
nghiệp có thể tồn tại và đứng vững đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải hoàn
thiện cơ chế quản lý và hệ thống công cụ quản lý kinh tế trong đó có kế toán.
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất ở các doanh nghiệp nhà
nước nói chung và tại Tổng công ty Công nghiệp hóa chất mỏ Vinacomin

nói riêng là một khâu quan trọng trong hệ thống kế toán doanh nghiệp cần
phải được hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế mở và phù
hợp với thông lệ, chuẩn mực kế toán phổ biến của các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Tổng Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ Vinacomin được thành lập từ
ngày 01/04/1995 theo QĐ số 204NL/TCCB theo Thông báo số 44 của Văn
phòng Chính phủ ngày 19/3/1995. Tổng Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ
Vinacomin và Tổng cục công nghiệp quốc phòng là hai doanh nghiệp được
Thủ tướng chính phủ giao nhiệm vụ sản xuất vật liệu nổ theo một chu trình
khép kín từ nghiên cứu sản xuất, phối chế, thử nghiệm, bảo quản, dự trữ quốc
gia, xuất nhập khẩu thuốc nổ, nguyên liệu, hóa chất. Trong đó, Tổng cục
Công nghiệp quốc phòng sản xuất vật liệu nổ quân dụng, Tổng Công ty Công
nghiệp hóa chất mỏ sản xuất vật liệu nổ công nghiệp.
Trong những năm gần đây, Tổng công ty CNHCM đã có nhiều thay đổi
trong công tác sản xuất, công tác kế toán nói chung và kế toán chi phí sản
xuất tính giá thành sản xuất vật liệu nổ công nghiệp nói riêng. Song về mặt lý
luận cũng như thực tế phần hành kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản
xuất tại Tổng công ty CNHCM và các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc
còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu
của cơ chế quản lý kinh tế thời mở cửa. Đồng thời để Tổng công ty công
1
nghiệp hóa chất mỏ và các đơn vị thành viên đứng vững, phát triển trong nền
kinh tế thị trường thì việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chi
phí sản xuất và giá thành sản xuất tại các đơn vị thành viên và Tổng công ty
công nghiệp hóa chất mỏ Vinacomin là việc cần thiết từ đó đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm hạ giá thành sản xuất và giúp các nhà quản trị doanh
nghiệp nói chung cũng như Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ nói riêng
được cung cấp các thông tin kịp thời, chính xác, phù hợp.
Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và giá thành sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất thuốc nổ

thuộc Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin" làm đề tài
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Đề tài: "Chi phí sản xuất và giá thành sản xuất được nhiều công trình
khoa học như Đề tài cấp nhà nước, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ lựa chọn,
ví dụ: "Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành điện truyền tải
ở doanh nghiệp nhà nước" của tác giả Nguyễn Thị Lời hay "Hoàn thiện công
tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xi măng trong các
doanh nghiệp nhà nước" của tác giả Lưu Đức Tuyên, hoặc "Hoàn thiện tổ
chức kế toán chi phí sản xuất và các phương pháp tính giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam" của tác giả Hà Xuân Thạch.
Phần lớn các ngành trọng điểm đều đã được các tác giả lựa chọn làm đề
tài nghiên cứu. Ngành vật liệu nổ công nghiệp, một ngành có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân cũng đã có công trình nghiên cứu đến như: "Đổi
mới quản lý kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp ở nước ta hiện nay" của tác
giả Trần Mạnh Hùng nhưng lại chưa có một công trình nào nghiên cứu về
việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của vật
liệu nổ công nghiệp. Vì vậy đề tài này đối với vật liệu nổ công nghiệp còn là
2
một lĩnh vực rất mới đáng được quan tâm, nghiên cứu để tìm ra biện pháp hạ
giá thành sản xuất cho phù hợp với nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án:
- Tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn về kế toán chi phí
sản xuất và giá thành sản xuất trong các doanh nghiệp nhà nước nói chung và
tại Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản xuất vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN) tại Tổng công ty công nghiệp hóa
chất mỏ - Vinacomin và các đơn vị thành viên, từ đó, chỉ ra những mặt còn
hạn chế.

- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán chi phí
sản xuất và giá thành sản xuất tại Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ -
Vinacomin và các đơn vị thành viên.
4. Đối tượng nghiên cứu của luận án:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và giá thành sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất thuốc nổ thuộc
Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin.
Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin trực thuộc tập đoàn
than khoáng sản Việt Nam, là đơn vị cấp trên của các doanh nghiệp hạch toán
phụ thuộc, thực hiện chức năng tổ chức và quản lý sản xuất, thực hiện việc
sản xuất thuốc nổ ở tại các doanh nghiệp thành viên vì vậy, để tính được giá
thành một tấn thuốc nổ ở từng đơn vị thành viên và giá thành bình quân một
tấn vật liệu nổ tại Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin, đề tài
đi sâu nghiên cứu các nội dung sau:
- Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá
thành sản xuất tại các đơn vị sản xuất vật liệu nổ công nghiệp.
3
- Xác định bản chất, nội dung, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản xuất tại Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ -
Vinacomin và các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản xuất tại Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin và các
đơn vị thành viên, từ đó chỉ ra những tồn tại và phương hướng cần hoàn thiện.
- Xây dựng mô hình phân cấp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản xuất tại Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin và các
đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận án:
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: Phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, so
sánh và phương pháp thống kê nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu đạt kết

quả tốt, có giá trị lý luận và thực tiễn với doanh nghiệp nhà nước nói chung và
Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin nói riêng.
6. Những đóng góp của luận án:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản xuất trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Khẳng định rõ vị trí, vai trò của Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ -
Vinacomin đối với nền kinh tế quốc dân và đặc biệt đối với ngành khai thác mỏ.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng công tác kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành vật liệu nổ công nghiệp tại Tổng công ty công nghiệp
hóa chất mỏ - Vinacomin và các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc. Đưa
ra các kiến nghị về công tác chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất tại
Tổng công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể có tính khả thi góp phần vào việc hoàn
thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất tại Tổng
4
công ty công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin và các đơn vị thành viên.
7. Bố cục của luận án:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ sở về chi phí sản xuất và giá thành sản xuất trong
các doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng chi phí sản xuất và giá thành sản xuất trong các
doanh nghiệp sản xuất thuốc nổ thuộc Tổng công ty công
nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin.
Chương 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản xuất
trong các doanh nghiệp sản xuất thuốc nổ thuộc Tổng công ty
công nghiệp hóa chất mỏ - Vinacomin.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN XUẤT TRONG CÁC

DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Bản chất kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong
nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
1.1.1. Bản chất kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Sản xuất vật chất là cơ sở để tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Để tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải có đủ các yếu tố cơ bản; Tư liệu
lao động; đối tượng lao động và sức lao động của con người. Quá trình thực
hiện hoạt động sản xuất cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố nói trên để tạo ra
những sản phẩm, dịch vụ theo mục đích đã định trước của doanh nghiệp.
Trong điều kiện còn sản xuất hàng hoá và tiền tệ, khi quy luật giá trị
còn phát huy tác dụng thì mọi hao phí chi ra trong quá trình sản xuất của
doanh nghiệp đều được đo bằng tiền. Việc dùng thước đo tiền tệ để biểu thị
giá trị sức lao động đã tiêu hao cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được gọi là chi phí sản xuất.
Như vậy, chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống (v) và
lao động vật hoá (c) cùng với các chi phí sản xuất khác (tiền điện, tiền nước,
tiền mua dịch vụ sửa chữa, vận tải…) mà doanh nghiệp đã thực tế chi ra trong
kỳ cho hoạt động sản xuất kinh doanh biểu hiện bằng tiền.
Quá trình sản xuất ra sản phẩm cũng là quá trình doanh nghiệp phải chi
phí cho sản xuất. Chi phí sản xuất phát sinh trong doanh nghiệp có nhiều loại
với công dụng và vị trí khác nhau đối với việc sản xuất ra sản phẩm, song quy
lại gồm 2 loại chi phí cơ bản đó là: chi phí về lao động sống và chi phí về lao
động vật hoá.
6
Chi phí về lao động sống bao gồm: tiền lương phải trả công nhân sản
xuất, nhân viên quản lý và các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp và kinh phí công đoàn tính theo tỷ lệ quy định trên quỹ
lương cơ bản, thực tế và các khoản phụ cấp thường xuyên.
Chi phí về lao động vật hoá bao gồm: giá trị các loại nguyên vật liệu,
vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng, công cụ… dùng cho hoạt động sản xuất

kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tồn tại và phát triển,
ngoài 2 hao phí trên doanh nghiệp còn phải bỏ ra rất nhiều các loại khoản chi
phí khác, các khoản chi phí này là một bộ phận giá trị mới do doanh nghiệp
sáng tạo và cũng có những khoản chi phí đôi khi khó xác định được chính xác
là hao phí lao động sống hay lao động vật hóa.
Việc nghiên cứu và nhận thức chi phí còn phụ thuộc vào góc độ nhìn
nhận trong từng loại kế toán khác nhau:
- Góc độ kế toán tài chính:
Chi phí được nhìn nhận như những khoản phí tổn phát sinh gắn liền
với hoạt động của doanh nghiệp để đạt được một sản phẩm, lao vụ, dịch vụ
nhất định. Cụ thể, chi phí được xác định bằng tiền của những hao phí lao
động sống, lao động vật hóa v.v… Trên cơ sở chứng từ, tài liệu, bằng
chứng chắc chắn.
- Góc độ kế toán quản trị:
+ Với mục đích của kế toán quản trị là cung cấp các thông tin một cách
kịp thời, hữu ích cho việc ra quyết định của các nhà quản lý doanh nghiệp. Vì
vậy, chi phí còn được nhận thức theo phương thức nhận diện thông tin ra
quyết định chứ không chỉ đơn thuần như nhận thức của kế toán tài chính.
Như vậy, thực chất của chi phí sản xuất là sự chuyển dịch vốn, chuyển
dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào giá trị sản phẩm mới làm ra. Phần chi
7
phí sản xuất được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm đã hoàn thành gọi là giá
thành sản phẩm.
Vậy giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao
động sống và lao động vật hoá cùng với các chi phí sản xuất khác mà doanh
nghiệp đã bỏ ra để sản xuất hoàn thành một khối lượng sản phẩm hoặc một
khối lượng công việc, lao vụ, dịch vụ nhất định.
Để xác định được giá thành sản phẩm trước hết kế toán phải tập hợp
được toàn bộ chi phí sản xuất chi ra trong kỳ có liên quan đến hoạt động

sản xuất công nghiệp. Trong đó, kế toán phải xác định được chi phí sản
xuất có liên quan trực tiếp, gián tiếp đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch
vụ đã hoàn thành trong kỳ và phần chi phí sản xuất liên quan đến khối
lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ còn dở dang cuối kỳ. Giá thành chỉ được
tính toán, xác định cho từng loại sản phẩm hoặc lao vụ, dịch vụ cụ thể đã
hoàn thành trong kỳ.
Qua phân tích, có thể thấy chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ: giá thành
sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất đã tập hợp được và số lượng
sản phẩm hoàn thành trong kỳ báo cáo. Nội dung giá thành sản phẩm chính
là chi phí sản xuất được tính cho số lượng và loại sản phẩm đó. Về mặt kế
toán thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất tạo cơ sở số liệu để tính giá thành
sản phẩm. Có thể nói kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là các bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau. Tuy
nhiên, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có sự khác nhau cần
phải được phân biệt, đó là: giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất đều bao
gồm hao phí về lao động sống và lao động vật hoá đã được tiêu hao trong
kỳ. Song chỉ được tính vào chỉ tiêu giá thành những chi phí gắn liền với
khối lượng sản phẩm hoặc công việc đã hoàn thành không tính chi phí chi
ra ở kỳ kinh doanh nào. Trong khi đó chi phí sản xuất gắn liền với một kỳ
8
kinh doanh nhất định, không phân biệt chi phí đó liên quan đến sản phẩm
hoàn thành hay còn dở dang.
Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là một phạm trù kinh
tế khách quan, nó tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của quá
trình sản xuất kinh doanh.
Trong bất kỳ một quốc gia nào, khi nền sản xuất hàng hoá còn phát huy
tác dụng thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn đóng vai trò quan
trọng và không thể thiếu được trong công tác quản lý kinh tế nói chung cũng
như công tác quản lý giá thành nói riêng. Những thông tin thực tế, trọng yếu

cung cấp cho các nhà quản lý, các chủ doanh nghiệp giúp đánh giá được chất
lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời
kỳ, từ đó mà có phương án, chiến lược sản xuất kinh doanh cũng như các biện
pháp quản lý phù hợp nhằm thúc đẩy, và khai thác triệt để mọi nguồn lực của
doanh nghiệp, góp phần tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm,
tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Trong nền sản xuất hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, do có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế nên các doanh nghiệp luôn phải đối
mặt với cạnh tranh. Sự phát triển bền vững của doanh nghiệp phụ thuộc vào
chính sách tài chính, cơ chế quản lý nói chung và quản lý chi phí nói riêng
của từng doanh nghiệp, muốn vậy các doanh nghiệp cần phải tăng năng suất
lao động, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất là cơ sở để tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp chính là hao phí cá biệt của
doanh nghiệp để sản xuất ra sản phẩm cung cấp cho xã hội. Hao phí cá biệt
này cao hay thấp thể hiện trình độ quản lý sản xuất, quản lý kinh tế nội bộ của
doanh nghiệp tốt hay xấu. Để thực hiện tối đa hoá lợi nhuận thì các doanh
nghiệp phải tiêu hao một lượng hao phí cá biệt nhỏ hơn mức hao phí lao động
9
xã hội cần thiết để tạo ra sản phẩm. Hao phí cá biệt càng nhỏ thì doanh nghiệp
thu lãi càng lớn và càng có điều kiện để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất
giản đơn cũng như tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, góp phần nâng cao
đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và tăng tích luỹ cho
Nhà nước.
Như vậy, giá thành sản phẩm là một bộ phận chủ yếu cấu thành lên giá
trị sản phẩm xã hội. Xét về hình thức biểu hiện, giá thành sản phẩm bao gồm
hai bộ phận cấu thành đó là hao phí về lao động sống (v) của doanh nghiệp đã
tiêu hao toàn bộ trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp
như: tiền lương phải trả cho công nhân sản xuất, cho nhân viên quản lý phân
xưởng và các khoản trích theo tiền lương cơ bản cùng với các khoản phụ cấp

thường xuyên của công nhân sản xuất và nhân viên quản lý phân xưởng và
hao phí về lao động vật hoá (c) của doanh nghiệp đã tiêu hao toàn bộ cho quá
trình sản xuất, như: nguyên, nhiên vật liệu và tiêu hao từng bộ phận cho quá
trình sản xuất như: khấu hao tài sản cố định; công cụ, dụng cụ; tiền thuê nhà,
thuê đất; bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kinh doanh… Còn giá trị của sản phẩm,
xét về hình thức biểu hiện nó bao gồm ba bộ phận cấu thành, đó là: c + v + m
Trong đó:
Bộ phận thứ nhất (c) được dùng để bù đắp lại toàn bộ tư liệu sản xuất
đã tiêu hao trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm.
Bộ phận thứ hai (v) được dùng để bù đắp lại giá trị sức lao động của
người sản xuất.
Bộ phận thứ ba (m): là giá trị mới do người lao động sáng tạo ra trong
quá trình sản xuất.
Như vậy, xét về hình thức bề ngoài, giá thành sản phẩm và giá trị sản phẩm
gần giống nhau, đều do hai bộ phận cơ bản cấu thành đó là (c+v). song xét về mặt
lượng thì giá thành sản phẩm nhỏ hơn giá trị sản phẩm (c+v) < (c + v + m). Xét về
10
mặt chất, giá thành là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất để tạo ra sản
phẩm (chi phí cá biệt), còn giá trị sản phẩm là lượng hao phí lao động xã hội
kết tinh trong sản phẩm và được đo bằng lượng hao phí lao động xã hội cần
thiết. Hay nói cách khác, giá trị sản phẩm là một đại lượng khách quan còn
giá thành sản phẩm là một đại lượng chủ quan, phụ thuộc vào trình độ tổ chức
sản xuất, quản lý sản xuất của doanh nghiệp và phụ thuộc vào giá cả của các
yếu tố "đầu vào" của quá trình sản xuất [45] [1] [9].
Như đã phân tích ở trên, giá thành sản phẩm là bộ phận chủ yếu cấu
thành lên giá trị sản phẩm, là cơ sở để xác định giá cả của sản phẩm. Sản
phẩm nào mà hao phí lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn
và do vậy, giá cả trên thị trường sẽ cao và ngược lại.
Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: quan hệ cung
cầu, tình trạng độc quyền, tác động của các nhân tố trên làm cho giá cả của

hàng hoá trên thị trường lên, xuồng xoay quanh giá trị của nó.
Như vậy, giá thành sản phẩm chính là xuất phát điểm để xác định giá
trị của sản phẩm và giá cả của sản phẩm trên thị trường. Đề bù đắp được
những hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kỳ cho việc sản xuất sản phẩm
và có lãi thì sản phẩm do doanh nghiệp làm ra phải bán được với giá cao hơn
giá thành làm ra nó, tức là giá thành phải là lượng chi phí tối thiểu của giá cả
sản phẩm trên thị trường.
Qua phân tích trên, có thể khẳng định rằng: giá thành sản phẩm là một
phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã thực sự chi ra cho quá
trình sản xuất sản phẩm. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản
ánh giá trị thực của tư liệu sản xuất và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới
việc bù đắp hao phí lao động này. Mọi cách tính toán chủ quan không phản
ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành sản phẩm đều có thể dẫn tới việc
11
phá vỡ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được chính xác hiệu
quả kinh doanh cũng như xác định chính xác nghĩa vụ nộp thuế của doanh
nghiệp đối với ngân sách quốc gia.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của các yếu tố luôn
là quá trình vận động cả về hình thái hiện vật và hình thái giá trị. Sự vận động
của các yếu tố sản xuất dựa hình thức giá trị là biểu hiện sự tiêu dùng cho sản
xuất các tư liệu sản xuất và sức lao động. Điều này phải được vận dụng chặt
chẽ và nhất quán trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm. Để tính chính xác giá thành sản phẩm kế toán phải dựa vào hai căn
cứ quan trọng đó là: Định mức tiêu hao các yếu tố của quá trình sản xuất và
đơn giá các yếu tố đó. Hai căn cứ đó lại luôn biến động do nhiều nguyên nhân
khác nhau, do vậy doanh nghiệp phải thường xuyên xem xét đánh giá lại các
tư liệu sản xuất và xác định chính xác, chặt chẽ mức tiêu hao vật chất, có như
vậy mới đảm bảo cho sự vận động của các yếu tố cơ bản của quá trình sản
xuất ăn khớp cả về hiện vật và giá trị, tạo điều kiện giám sát chặt chẽ tình

hình tôn trọng các định mức kinh tế - kỹ thuật.
Như vậy, hạch toán chi phí sản xuất là điều kiện tiền đề cho việc tính
giá thành sản phẩm, là một trong những chỉ tiêu chất lượng quan trọng, nó
phản ánh tổng hợp mọi kết quả hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Tất cả
các thành tích cũng như khuyết điểm của doanh nghiệp về trình độ tổ chức
sản xuất, trình độ quản lý sản xuất và chi phí đều được phản ánh thông qua
chỉ tiêu giá thành. Vì vậy, chỉ tiêu giá thành là chỉ tiêu chất lượng phản ánh
tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn tính
chính xác giá thành sản phẩm và xác định chính xác kết quả kinh doanh, thì
trước hết phải hạch toán chính xác và đầy đủ chi phí sản xuất phát sinh trong
kỳ có liên quan trực tiếp, gián tiếp đến việc tạo ra sản phẩm cho doanh
12
nghiệp. Việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
- Chi phí sản xuất tính vào giá thành sản phẩm phải là những chi phí do
doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh. Những chi phí đó phải
trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra giá trị của sản phẩm.
- Chi phí sản xuất trong giá thành phải đáp ứng yêu cầu trang trải về
mặt tài chính của doanh nghiệp, chi phí đó phải là những hao phí cá biệt do
doanh nghiệp đã thực tế chi ra trong kỳ kinh doanh.
- Chi phí trong giá thành phải phản ánh được chất lượng kinh doanh
của doanh nghiệp cũng như phạm vi, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
Nhà nước.
- Vì chi phí sản xuất là bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm. Nên giá
thành sản phẩm trong cơ chế thị trường cũng bao gồm các loại chi phí sau đây:
+ Chi phí liên quan đến hao phí lao động vật hoá: thực chất đây là các
khoản chi phí liên quan tới đối tượng lao động và tư liệu lao động mà doanh
nghiệp thực tế chỉ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm tính từ khi bắt đầu sản
xuất đến khi hoàn thành nhập kho thành phẩm hay đã gửi đi tiêu thụ.
+ Chi phí liên quan đến hao phí lao động sống: đó là tiền lương phải trả

và các khoản trích theo lương của lao động trực tiếp gắn liền với kết quả sản
phẩm sản xuất đã hoàn thành.
+ Các chi phí sản xuất chung: là những chi phí liên quan chung đến việc điều
hành, tổ chức, quản lý và phục vụ sản xuất kinh doanh của bộ phận hoặc phân
xưởng sản xuất. Các chi phí sản xuất chung này thường liên quan đến việc sản
xuất ra nhiều loại sản phẩm trong kỳ. Vì vậy, phải được phân bổ cho từng loại
sản phẩm sản xuất theo tiêu thức phù hợp như: phân bổ theo tiền lương công
nhân sản xuất, theo trọng lượng, khối lượng sản phẩm, theo định mức tiêu hao
chi phí nguyên vật liệu chính hoặc theo giờ công lao động định mức…
13
1.1.2. Tác động của nền kinh tế thị trường đến công tác quản lý tài chính
và hạch toán kế toán
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước đã làm thay đổi căn bản công tác quản lý tài chính và công tác kế toán
trong các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng cũng như nền tài chính quốc gia ở
Việt Nam nói chung. Ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước
đây đã làm cho nền kinh tế của Việt Nam trì trệ, kém phát triển hơn so với
nền kinh tế của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Trước đây, vốn cho
các doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân phối, cấp phát
của Nhà nước dẫn đến các doanh nghiệp thiếu sự chủ động, sáng tạo trong
việc tạo lập và sử dụng vốn. Công tác quản lý tài chính, công tác hạch toán kế
toán còn nhiều bất cập, thiếu sự chỉ đạo đồng bộ từ cấp trên tới cấp cơ sở, giá
cả vật tư tài sản cố định mua vào, bán ra đều theo khung bảng giá do Nhà
nước quy định; chế độ hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, không phản ánh
đúng, đủ những hao phí vật chất và hao phí lao động sống bỏ ra trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, khi Nhà nước thực hiện việc giao vốn thì
rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước không đứng vững được trên thị trường,
tình trạng nợ nần kéo dài, nhiều doanh nghiệp không còn khả năng thanh
toán dẫn đến phá sản. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, với nhiều
thành phần kinh tế cùng tham gia vào một sân chơi bình đẳng, buộc các

doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Từ bối cảnh đó, hoạt
động tài chính kế toán cũng phải thay đổi để thích ứng với nền kinh tế thị
trường, từng bước thực hiện cổ phần hoá, tư nhân hoá các doanh nghiệp
Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chủ động, sáng tạo
trong hoạt động sản xuất kinh doanh; tăng hiệu quả kinh doanh, tăng nguồn
thu ngân sách cũng như tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
14
1.2. Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp gồm nhiều loại, chúng có vai trò
và vị trí khác nhau đối với quá trình sản xuất. Để thuận lợi cho công tác quản
lý và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất.
Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của công tác quản lý,
chi phí sản xuất được phân loại theo các tiêu thức khác nhau và phải đáp ứng
được các yêu cầu sau:
- Yêu cầu về thông tin cho quản lý một cách kịp thời, chính xác, làm cơ
sở cho việc ra quyết định kinh doanh đúng đắn.
- Thuận lợi cho công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm nói riêng và cho công tác tổ chức hạch toán kế toán nói chung
trong các doanh nghiệp.
- Tiết kiệm tối đa chi phí lao động trong công tác tổ chức hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
- Thực hiện triệt để và thúc đẩy hạch toán kinh tế nội bộ.
- Thuận tiện cho việc áp dụng cơ giới hoá trong công tác kế toán.
- Rõ ràng, dễ hiểu, dễ làm và thuận tiện cho việc kiểm tra, kiểm soát và
phân tích chi phí sản xuất phát sinh trong doanh nghiệp xét về mặt lý luận
cũng như thực tế việc phân loại theo nội dung kinh tế của chi phí; phân loại
theo công dụng kinh tế của chi phí… Mỗi cách phân loại đều đáp ứng nhu cầu
thông tin cần thiết cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra, phân tích các chi

phí ở các góc độ khác nhau. Để thấy được cơ cấu của các loại chi phí, ta đi
sâu vào tìm hiểu các cách phân loại chi phí sau đây ở góc độ kế toán tài chính
và kế toán quản trị chi phí.
* Góc độ kế toán tài chính: góc độ này, chi phí sản xuất được phân
loại theo các tiêu thức sau:
15
a) Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế
Theo cách này toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia
thành các yếu tố chi phí có nội dung kinh tế giống nhau như:
- Yếu tố chi phí nguyên vật liệu: bao gồm giá trị vật liệu chính, vật liệu
phụ, nhiên liệu, phụ tùng, công cụ doanh nghiệp mua ngoài dùng cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, loại trừ giá trị nguyên vật liệu dùng không hết trả
lại kho hoặc chuyển kỳ sau
- Yếu tố chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ tiền lương phải trả cho
công nhân viên và các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, kinh phí công đoàn trích theo quỹ lương cơ bản và các khoản phụ cấp
thường xuyên của công nhân viên trong kỳ.
- Yếu tố khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ giá trị hao mòn của tài sản
cố định tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Yếu tố chi phí động lực mua ngoài: là toàn bộ giá trị động lực doanh
nghiệp mua ngoài dùng cho sản xuất kinh doanh (mua điện, mua nước, dịch
vụ điện báo…)
- Yếu tố chi phí bằng tiền khác: là toàn bộ tiền chi cho tiếp khách, hội
nghị, quảng cáo, hoa hồng… chưa được tính vào những yếu tố chi phí sản
xuất nói trên.
Phân loại theo nội dung kinh tế giúp cho doanh nghiệp thấy được tính
nguyên vẹn của từng yếu tố chi phí cũng như từng khoản chi phí trong một
yếu tố đó, không kể nó phát sinh ở đâu và quan hệ của nó với qúa trình sản
xuất như thế nào? Vì vậy, hạch toán chi phí sản xuất theo từng yếu tố có tác
dụng to lớn đối với công tác kế toán nói riêng cũng như công tác quản lý chi

phí sản xuất nói chung, làm cơ sở cho việc lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế
hoạch tài chính, kế hoạch vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu về
vốn cho doanh nghiệp. Đối với kế toán nó là cơ sở để tổ chức tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo yếu tố. Đồng thời, cũng là cơ sở để
tính thu nhập quốc dân của ngành và toàn bộ xã hội [1] [9] [10].
16
b) Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh tế
Theo cách phân loại này, những khoản chi phí có chung công dụng
kinh tế được xếp vào một khoản mục chi phí không xét đến khoản chi phí đó
có nội dung kinh tế như thế nào. Theo chế độ hiện hành chi phí sản xuất được
chia thành các khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ giá trị vật liệu chính, vật liệu
phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào việc sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp.
- Chi phí nhân công trực tiếp: là toàn bộ tiền lương phải trả và các
khoản trích theo lương của công nhân sản xuất theo tỷ lệ quy định.
- Chi phí sản xuất chung: là toàn bộ chi phí phục vụ và quản lý phân
xưởng, bộ phận sản xuất, chưa được tính vào hai khoản chi phí nói trên.
Cách phân loại này có ý nghĩa to lớn trong việc tổ chức kế toán tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục, là cơ sở để kiểm
tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành theo khoản mục, từ đó
biết được việc tiết kiệm hay lãng phí chi phí để có các biện pháp thích hợp
nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả hoạt
động cho doanh nghiệp.
* Góc độ kế toán quản trị chi phí
Để giúp cho chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp có đầy
đủ thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phục vụ cho việc ra
quyết định, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải
tiến hành một số cách phân loại chi phí khác, giúp cho việc cung cấp thông tin
trong việc lập kế hoạch, điều hành, kiểm tra, điều chỉnh chi phí phù hợp với
quy mô hoạt động, cung cấp thông tin cho việc ra quyết định lựa chọn các

phương án kinh doanh phù hợp nhằm tối đa hoá lợi nhuận cũng như cung cấp
thông tin để lập báo cáo kết quả kinh doanh, xác định lợi nhuận, lập báo cáo
tài chính, quyết toán thuế đối với cơ quan quản lý thuế. Với ý nghĩa đó, chi
phí sản xuất được phân loại theo các cách sau đây:
17
- Phân loại chi phí theo mối quan hệ chi phí với khối lượng hoạt động:
Theo cách này, toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành chi phí biến đổi, chi
phí cố định và chi phí hỗn hợp. Trong đó:
* Chi phí biến đổi (biến phí): là chi phí có quan hệ tỉ lệ thuận với kết
quả sản xuất hoặc quy mô hoạt động như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp, chi phí bao gói sản phẩm… chi phí này có đặc điểm
là: tổng biến phí thay đổi theo quy mô hoạt động (số lượng sản phẩm sản
xuất) song biến phí tính trên một đơn vị sản phẩm lại không thay đổi.
* Chi phí cố định (định phí): là những khoản chi phí thường không thay
đổi khi mức độ hoạt động thay đổi trong phạm vi giới hạn phù hợp với quy
mô hoạt động. Định phí có đặc điểm là không thay đổi khi số lượng sản phẩm
thay đổi. Song định phí tính trên một sản phẩm lại luôn thay đổi. Với đặc
điểm chi phí này để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi
nhuận cho đơn vị thì doanh nghiệp phải tập trung mọi biện pháp để tiết kiệm
định phí bằng cách tăng khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ.
* Chi phí hỗn hợp: là các khoản chi phí vừa mang tính chất của chi phí
biến đổi và vừa mang tính chất của chi phí cố định. Ở mức độ hoạt động căn
bản thì chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí nhưng khi vượt quá
mức đó thì nó lại thể hiện đặc điểm của biến phí, như: chi phí sản xuất chung,
chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động của chi phí: Theo cách
này, toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:
* Chi phí sản xuất: là toàn bộ các chi phí trực tiếp, gián tiếp có liên
quan đến việc sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp như: nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.

* Chi phí ngoài sản xuất: là những chi phí phát sinh ngoài lĩnh vực sản
xuất, đó là những chi phí doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện việc tiêu thụ sản
18
phẩm, hàng hóa và chi phí cho bộ máy quản lý chung của doanh nghiệp như:
chi phí bao gói sản phẩm, chi phí quảng cáo, hoa hồng, môi giới, chi phí trả
lương cho giám đốc, chi phí vật liệu cho quản lý, tiền thuê nhà, đất….
- Phân loại chi phí để ra các quyết định kinh doanh. Theo cách này toàn
bộ chi phí sản xuất chia thành các loại sau:
* Chi phí chìm: là những chi phí luôn xuất hiện trong tất cả các phương
án sản xuất kinh doanh. Đây là một dòng chi phí mà nhà quản trị phải chấp
nhận, không còn sự lựa chọn nào khác như: chi phí thuê nhà xưởng, chi phí
khấu hao tài sản cố định…
* Chi phí chênh lệch: được ghi nhận như những dòng chi phí hiện diện,
xuất hiện trong phương án sản xuất kinh doanh này, nhưng chỉ xuất hiện một
phần hoặc không xuất hiện ở các phương án sản xuất kinh doanh khác.
* Chi phí cơ hội: là một khoản lợi nhuận bị mất đi hay phải hy sinh để
lựa chọn, thực hiện hoạt động này thay cho hoạt động khác…
Như vậy, thông qua việc phân loại chi phí sản xuất mà doanh nghiệp có
thể biết được cơ cấu của các khoản chi phí, tỷ trọng của từng khoản chi phí
chiếm trong tổng số chi phí sản xuất phát sinh. Việc vận dụng phương pháp
phân loại chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm hoạt động và loại hình của
doanh nghiệp là hoàn toàn phụ thuộc vào yêu cầu của công tác quản lý chi phí
và yêu cầu của công tác tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp [1] [10].
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Muốn sử dụng chỉ tiêu giá thành vào công tác quản lý, hạch toán, xây
dựng kế hoạch giá thành cũng như yêu cầu của việc xây dựng giá cả sản
phẩm, thì giá thành phải được xem xét dựa trên nhiều góc độ, nhiều phạm vi
tính toán khác nhau.
* Góc độ kế toán tài chính
Để đáp ứng yêu cầu quản lý và hạch toán, giá thành sản phẩm được

phân loại dựa vào các tiêu thức:
19

×