Tải bản đầy đủ (.doc) (193 trang)

Luận án tiến sỹ - Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.47 KB, 193 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận án là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của Luận án
không trùng với các công trình khoa học khác đã công bố.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thanh Bình
i
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- DVPPBL : Dịch vụ phân phối bán lẻ
- DVPP : Dịch vụ phân phối
- FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
- NT : Đãi ngộ quốc gia
- ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
- BTA : Hiệp định thương mại song phương Việt
Nam – Hoa Kỳ
- HTPPBLHH : Hệ thống phân phối bán lẻ hàng hóa
- HTPP : Hệ thống phân phối
- HTPPBL : Hệ thống phân phối bán lẻ
- XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- TPP : Đối tác xuyên Thái Bình Dương
- CPC : Bảng phân loại sản phẩm trung tâm
- DNTMNN : Doanh nghiệp thương mại Nhà nước
- DNTMTN : Doanh nghiệp thương mại tư nhân
- DNTM : Doanh nghiệp thương mại
- BRIC : Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc
- FTA : Khu vực thương mại tự do
iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG BIỂU
iv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại và trong điều kiện hội nhập quốc
tế, lĩnh vực phân phối là sự kết nối sống còn giữa nhà sản xuất và người tiêu
dùng. Nó đóng vai trò là một trong những “trung gian” để sâu chuỗi các khâu
trong toàn bộ quá trình tái sản xuất mở rộng các ngành sản phẩm nông - công
nghiệp, từ cung ứng đầu vào đến tiêu thụ đầu ra trên thị trường, góp phần phát
triển các chuỗi giá trị của các ngành sản phẩm trong nước, kết nối với các
chuỗi giá trị toàn cầu.
Hoạt động phân phối mang bản chất của hoạt động dịch vụ. Theo phân
loại của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), dịch vụ phân phối (DVPP) là
một trong số 11 ngành dịch vụ chính, gồm 4 phân ngành : dịch vụ bán buôn
(DVBB), dịch vụ bán lẻ (DVBL), dịch vụ đại lý hoa hồng và nhượng quyền
kinh doanh. Trong đó, dịch vụ chính do nhà bán buôn và nhà bán lẻ thực hiện.
DVBB bao gồm việc bán hàng cho những người bán lẻ, những doanh nghiệp
sử dụng hàng hóa của những ngành công nghiệp, thương mại, các tổ chức đơn
vị chuyên môn hoặc cho người bán buôn khác. Những người bán lẻ phục vụ
mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Nói cách khác, bán buôn là việc
bán hàng hóa (thường là các dịch vụ kèm theo) cho đối tượng người mua để
sản xuất, để bán lại hoặc tiêu dùng vì mục đích sự nghiệp hoặc kinh doanh;
bán lẻ là hoạt động có nghiệp vụ chủ yếu là bán hàng hóa cùng các dịch vụ
kèm theo cho người tiêu dùng cuối cùng, đó là tiêu dùng cá nhân và gia đình,
tiêu dùng không mang tính kinh doanh. Ngày nay dịch vụ bán lẻ đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và hướng mạnh mẽ tới người tiêu dùng.
Sự phát triển của DVPPBL theo hướng hiện đại không chỉ gắn với việc
cung cấp các sản phẩm ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa
dạng của người tiêu dùng, mà còn cung cấp cho người tiêu dùng một loạt các

dịch vụ bổ sung là những dịch vụ giúp cho sự lựa chọn chính xác hơn và tăng
thêm sự thuận tiện hơn khi mua hàng. Đồng thời, nó cũng cung cấp cho nhà
sản xuất nhiều thông tin cần thiết từ phía cầu để điều chỉnh những quyết định
1
của họ theo nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó, sự thất bại của ngành DVPP
nói chung, DVPPBL nói riêng trong việc thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng
phân phối của mình có thể dẫn tới những sai lệch lớn trong hệ thống phân bổ
nguồn lực của xã hội và thiệt hại cho nền kinh tế trong cả ngắn hạn cũng như
trong dài hạn. Cho nên, để tránh cho nền kinh tế vấp phải thất bại đó của thị
trường, nhà nước phải can thiệp điều tiết và quản lý sự phát triển của dịch vụ
phân phối bán lẻ (DVPPBL). Đồng thời phạm vi của lĩnh vực PPBL trong
thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng thông qua đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và việc phát triển những công nghệ mới đặc biệt là công nghệ
thông tin. Trong xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu, phần lớn các nước,
trước hết là những thành viên WTO, đều phải mở cửa thị trường DVPP, thực
hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT), dẫn đến sự phát triển nhanh của mạng
lưới phân phối toàn cầu với chủ thể chính chi phối và lãnh đạo là các tập đoàn
phân phối đa quốc gia. Mặt khác, trong chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành
sản phẩm, khâu phân phối bán lẻ là khâu có giá trị gia tăng cao, tỷ suất lợi
nhuận cao nên có sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt của các nhà phân phối
bán lẻ trong và ngoài nước. Vì thế, sự quản lý, điều tiết của nhà nước đối với
sự phát triển DVPPBL càng trở nên cần thiết để đảm bảo lợi ích quốc gia
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong thời đại toàn cầu hóa, sự hình thành và phát triển dịch vụ phân phối
bán lẻ không chỉ luôn gắn với các dịch vụ chính khác (bán buôn, đại lý uỷ
quyền, nhượng quyền ), mà còn luôn gắn với cả các dịch vụ phụ trợ có liên
quan đến hoạt động bán lẻ hàng hoá, không chỉ bao hàm hệ thống phân phối bán
lẻ truyền thống mà còn bao hàm cả hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại.
Đối với Việt Nam, công cuộc Đổi mới đất nước được bắt đầu sớm nhất
và sâu sắc nhất trong lĩnh vực thương mại bán lẻ hàng hoá (bắt đầu tự Nghị

quyết. TW6, khóa VI năm 1987). Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong Nghị
quyết số 12/NQ-TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị (Khoá VII), thực hiện
Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị
định số 02/2003/NĐ-CP, Quyết định số 27/2007/QĐ-TTg và các văn bản chỉ
đạo khác của Đảng và Chính phủ về phát triển thương mại trong nước, Bộ
2
Thương mại trước đây và hiện nay là Bộ Công Thương đã tổ chức thực hiện
tốt cơ chế quản lý và các chính sách phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hàng
hoá, nhất là trong phát triển kết cấu hạ tầng cho hoạt động thương mại bán lẻ
hàng hoá phát triển Dưới tác động của cơ chế, chính sách Đổi mới, hoạt
động dịch vụ phân phối bán lẻ và thị trường bán lẻ Việt Nam đã phát triển
nhanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Thị trường bán lẻ hàng hoá Việt Nam có tốc độ tăng trưởng vào loại cao
nhất thế giới từ sau năm 2001, bình quân tăng 25%/năm và có xu hướng ngày
càng tăng cao (năm 2007 tăng 27,3%, năm 2008 tăng trên 30%, năm 2009
trong điều kiện suy giảm kinh tế nhưng vẫn tăng 18% và năm 2010 tăng
24,5%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng 13% ). Việt Nam đang trở
thành thị trường bán lẻ đầy tiềm năng, có sức hấp dẫn cao với các nhà đầu tư
nước ngoài. Đây vừa là thời cơ vừa là nguy cơ đối với các doanh nghiệp phân
phối Việt Nam trong điều kiện mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, các tập
đoàn phân phối lớn của nước ngoài đang không ngừng tăng cường thế lực để
mở rộng thị phần bán lẻ ở Việt Nam, nhất là trên các đô thị lớn.
Thị trường dịch vụ phân phối Việt Nam (bán buôn, bán lẻ, đại lý uỷ
quyền và nhượng quyền thương mại) đã từng bước mở cửa theo các cam kết
quốc tế đa phương, song phương, bắt đầu từ sau khi Việt Nam gia nhập
ASEAN (Tháng 7/1995). Từ khi gia nhập WTO (Tháng 11/2006), nhất là từ
sau 1/1/2009, thị trường dịch vụ phân phối Việt Nam về cơ bản đã mở cửa
như cam kết của Việt Nam với Hoa Kỳ trong Hiệp định thương mại song
phương (BTA). Trong đó, từ 1/1/2009 cho phép thành lập doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, tương tự như BTA, Việt Nam không mở cửa thị

trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá,
gạo, đường và kim loại quí cho nước ngoài; nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt
thép, phân bón, xi măng Việt Nam chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm gia
nhập WTO, hạn chế khả năng mở điểm bán lẻ của các doanh nghiệp FDI; nhà
phân phối nước ngoài chỉ được thành lập liên doanh góp vốn nước ngoài
không quá 49% ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO Tuy nhiên, mức
cam kết đó thấp hơn hiện trạng của Việt Nam ở thời điểm gia nhập WTO. Vì
3
trên thực tế, Việt Nam đã cho phép một số tập đoàn phân phối lớn nước ngoài
thành lập siêu thị 100% vốn nước ngoài mở hàng loạt các siêu thị tại các
thành phố và một số tỉnh ở Việt Nam. Thế nhưng, đến nay, hàng hoá sản xuất
tại Việt Nam và hệ thống phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp trong
nước vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và
dịch vụ tiêu dùng. Trong các siêu thị, hàng hoá sản xuất trong nước vẫn chiếm
hơn 70% và hệ thống phân phối bán lẻ của các doanh nghiệp trong nước vẫn
chiếm trên 90% tổng mức lưu chuyển hàng hoá.
Sau trên 15 năm từng bước mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, hệ
thống phân phối bán lẻ hàng hoá ở Việt Nam đã từng bước phát triển theo
hướng hiện đại, kết nối giữa hệ thống trong nước với các kênh xuất, nhập
khẩu hàng hoá, giữa các trung tâm phân phối lớn với các cửa hàng tiện lợi,
bám sát khu dân cư, giữa các hình thức phân phối truyền thống với các hình
thức mới hiện đại, đáp ứng nhu cầu hàng hoá ngày càng đa dạng của các tầng
lớp dân cư. Tính đến 31/12/2008, cả nước đã có 8.413 chợ các loại, 439 siêu
thị, 181 trung tâm thương mại, 139 cửa hàng tiện lợi và trên 0,9 triệu cửa
hàng kinh doanh bán lẻ truyền thống. Cơ cấu bán lẻ đã chuyển dần qua hệ
thống thương mại hiện đại : Tỷ trọng bán lẻ qua hệ thống phân phối bán lẻ
hiện đại đã tăng từ 4% năm 2001 lên khoảng 16% năm 2008 và khoảng 18%
năm 2010, qua hệ thống chợ giảm từ 45% xuống 38% và 36% trong thời gian
tương ứng, qua cửa hàng bán lẻ giảm từ 50% năm 2001 xuống 42% năm 2010
, còn lại là do các nhà sản xuất trực tiếp bán ra thị trường chiếm 4 - 6%. Tuy

qui mô chưa lớn, trình độ quản lý, công nghệ, thiết bị kỹ thuật và phương thức
kinh doanh chưa bắt kịp chuẩn mực quốc tế, nhưng đây là cơ sở nền tảng
quan trọng để Việt Nam phát triển thương mại trong nước, giữ ổn định thị
trường trong quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Theo xu thế hội nhập,
các doanh nghiệp thương mại Việt Nam đã từng bước mở rộng áp dụng các
phương thức và hình thức kinh doanh hiện đại, như : Thương mại điện tử, bán
hàng qua mạng và sắp tới là “chợ ảo”, “siêu thị ảo” Đến nay, đã có trên 20
nhà phân phối bán lẻ lớn có thương hiệu Việt mạnh, có mạng lưới kinh doanh
rộng, bước đầu đảm đương được vai trò dẫn dắt sự phát triển kênh phân phối
4
một số ngành hàng quan trọng, nhạy cảm, ổn định thị trường theo từng ngành
hàng. Đồng thời, với sự xuất hiện ngày càng nhiều các kênh phân phối bán lẻ
của các nhà đầu tư nước ngoài đã mang đến cách làm mới trong liên kết giữa
nhà sản xuất và hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao và đa dạng của các tầng lớp dân cư (Metro, BigC, KFC )
Trong 15 năm qua, do nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao (bình quân
khoảng 7%/năm, tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người cũng ngày một
cao (bình quân khoảng 15%/năm), tạo điều kiện tăng quỹ mua và sức mua của
toàn xã hội (tỷ lệ tiêu dùng trong tổng thu nhập của người Việt Nam thuộc
loại cao nhất Đông Nam Á khoảng 70% thu nhập hàng tháng), nên quy mô thị
trường bán lẻ ngày càng lớn. Năm 2010 tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ
và doanh thu dịch vụ xã hội (LCHHBL&DTDVXH) đạt trên 1.561,6 ngàn tỷ
đồng, gấp khoảng 6 lần năm 2001, nâng mức bình quân đầu người từ 2,54
triệu đồng năm 2001 lên 17,7 triệu đồng năm 2010. Trong giai đoạn 2006-
2010 quy mô thị trường bán lẻ đã bằng khoảng 65% GDP trong cùng giai
đoạn, phản ánh DVPPBL có vai trò rất lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng thị trường bán lẻ
và hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá trên thị trường trong nước đang bộc lộ
những yếu kém không nhỏ. Thị trường phát triển không bền vững, các hệ

thống phân phối còn mỏng manh dễ bị tổn thương trước các tác động giá cả
thị trường thế giới và quan hệ cung – cầu trong nước. Kết cấu hạ tầng thương
mại tuy đã có bước cải thiện đáng kể nhưng xét về tổng thể vẫn còn lạc hậu,
thiếu đồng bộ nên chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh của thương
mại trong nước. Cơ sở hậu cần phân phối logistics (cảng, kho, vận chuyển )
vừa ít, vừa yếu và thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo hỗ trợ và phục vụ tốt cho
khâu bán buôn, bán lẻ. Các phương thức kinh doanh tiến bộ, hiện đại như liên
kết “chuỗi”, trung tâm mua sắm, chuỗi siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện lợi, bán
hàng qua mạng, chợ “ảo” chỉ mới manh nha hình thành, chưa nhiều và
chứa mạnh. Cơ cấu kênh phân phối hàng hoá nói chung và các mặt hàng quan
trọng, đặc thù nói riêng còn mang nặng tính tự phát, thiếu tính chuyên nghiệp.
5
Lực lượng thương nhân trên thị trường bán lẻ Việt Nam tuy tăng nhanh về số
lượng và biến đổi mạnh về cơ cấu trong quá trình hội nhập, nhưng thiếu
những doanh nghiệp lớn, có thương hiệu mạnh, có tính chuyên nghiệp cao;
quá trình tích tụ và tập trung nguồn lực của doanh nghiệp bán lẻ nhìn chung
diễn ra chậm. Xu hướng chung là các doanh nghiệp thương mại có vốn cổ
phần của Nhà nước là tập trung bán buôn một số mặt hàng trọng yếu tại
những thị trường trọng điểm và thu hẹp dần qui mô bán lẻ, ngược lại các chủ
thể thuộc thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, khu vực FDI ngày một phát
triển chiếm tỷ trọng cao trong khâu bán lẻ. Trong giai đoạn 1996 - 2008, tốc
độ tăng trưởng bán lẻ của khu vực FDI đã tăng nhanh nhất từ 17,9%/năm
trong giai đoạn 1996 - 2000 lên 46%/năm trong giai đoạn 2002 - 2005 và
khoảng 60%/năm trong giai đoạn 2006 - 2008. Thị phần bán lẻ của khu vực
FDI cũng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng đáng kể trên thị trường bán lẻ Việt
Nam (năm 1996 chiếm 1,2%, năm 2000 chiếm 1,6%, năm 2005 chiếm 3,7%
và năm 2009 chiếm 5%). Đến nay, có khoảng 10 hệ thống phân phối đa quốc
gia đang hoạt động trên địa bàn toàn quốc (trong đó có những tập đoàn lớn
như : BourBon, Parkson, Metro Cash&Carry, Lotteria, Medicare ), chỉ
chiếm 10% tổng số siêu thị và trung tâm thương mại nhưng lại chiếm tới 50%

lượng hàng hoá lưu thông bán lẻ qua hệ thống (siêu thị và trung tâm thương
mại). Một trong những điểm yếu quan trọng của hệ thống phân phối trong
nước là chưa có những mối liên hệ chặt chẽ về cả hàng ngang và hàng dọc.
Lực lượng thương nhân bán lẻ trong nước đông nhưng chưa mạnh, thiếu
tính chuyên nghiệp, đang tự thu hẹp thị phần ở các đô thị lớn có sức mua cao.
Ngoài khoảng 20 nhà phân phối lớn đã phát huy được vài trò nòng cốt của
mình trong phát triển hệ thống phân phối, có mạng rộng và mức lưu chuyển
hàng hoá mỗi năm trên 50 tỷ đồng (như Tổng công ty thương mại Sài Gòn,
Tổng công ty thương mại Hà Nội, Tập đoàn Phú Thái, Công ty cà phê Trung
Nguyên, Công ty Bình Tiên ), còn lại tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp
thương mại nhỏ và siêu nhỏ, vốn ít, hoạt động manh mún, thiếu tính chuyên
nghiệp (năm 2004 bình quân 18 lao động và 6 tỷ đồng/doanh nghiệp thương
mại). Trong số các doanh nghiệp sản xuất tham gia hoạt động thương mại và
6
phân phối bán lẻ hàng hoá, tuy đã có một số tập đoàn và Tổng công ty Nhà
nước bước đầu chú ý xây dựng hệ thống phân phối bán lẻ riêng của mình,
nhưng mới chỉ có một số có mạng lưới đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, còn
lại đa số chỉ tập trung ở các thành phố, thị xã, phát triển chưa rộng khắp, thiếu
qui hoạch tổng thể và đầu tư còn dàn trải.
Nhìn chung, các nhà phân phối bán lẻ Việt Nam vẫn chưa tạo được các
“khớp nối” linh hoạt giữa các khâu sản xuất – phân phối – tiêu dùng, giữa các
kênh lưu thông hàng hoá trong nước với các kênh xuất khẩu, nhập khẩu, chưa
đóng vai trò là “trung gian” để sâu chuỗi các khâu trong toàn bộ chu trình tái
sản xuất mở rộng các ngành sản phẩm công – nông nghiệp, từ cung ứng đầu
vào đến sản xuất và tiêu thụ đầu ra trên thị trường trong và ngoài nước nhằm
phát triển các chuỗi giá trị của các ngành sản phẩm trong nước, kết nối với
các chuỗi giá trị toàn cầu.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng nêu trên, trong đó có nguyên nhân
quan trọng là những tồn tại, yếu kém về quản lý vĩ mô lĩnh vực phân phối bán
lẻ của Nhà nước, một số yếu kém chậm được khắc phục. Trong khi các chiến

lược có tầm nhìn xa về phát triển dịch vụ phân phối trong điều kiện hội nhập
quốc tế của Việt Nam chậm được xây dựng, thì chất lượng và hiệu lực của các
qui hoạch phát triển hệ thống phân phối bán lẻ (chợ, siêu thị, trung tâm
thương mại ) cũng như các qui hoạch phát triển thương mại nói chung còn
thấp. Vừa qua Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược tổng thể phát
triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến 2020, nhưng đó chỉ là chiến lược
khung để làm khung khổ định hướng phát triển cho toàn bộ khu vực dịch vụ,
làm cơ sở cho các ngành dịch vụ riêng biệt xây dựng hoặc điều chỉnh chiến
lược phát triển từng ngành. Đến nay Bộ Công Thương cũng chưa triển khai
xây dựng chiến lược phát triển DVPP đến năm 2020. Các văn bản pháp luật
hiện có mới chỉ điều chỉnh những khía cạnh riêng lẻ, thiếu đồng bộ, chưa có
tính hệ thống, ý nghĩa và giá trị pháp lý thấp. Đến nay nước ta cũng chưa xây
dựng được Luật phân phối để điều tiết sự phát triển của DVPP trên thị trường
trong nước, điều tiết sự phát triển của Thương nhân trên thị trường DVPPBL.
Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích để củng cố và phát triển kết cấu hạ tầng
7
cho phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ còn rất ít, thiếu tính liên tục, nhất quán
và đồng bộ. Hầu như chưa có chính sách ưu đãi (thuế, đất đai, tín dụng ) cho
đầu tư dịch vụ phân phối bán lẻ. Phân công và qui định chức năng, nhiệm vụ
quản lý Nhà nước về thị trường bán lẻ còn có những bất hợp lý, thiếu rành
mạch, chồng chéo giữa các cơ quan, đơn vị, trong khi lại chưa có người “nhạc
trưởng” …v v
Bối cảnh, đặc điểm và xu hướng nêu trên đặt ra những yêu cầu mới trong
công tác quản lý Nhà nước đối với quá trình hình thành, phát triển DVPPBL
trên thị trường trong nước, trước hết là trong xây dựng và hoàn thiện cơ chế,
chính sách. Trong đó, đối tượng và phạm vi tác động của cơ chế quản lý,
chính sách phát triển DVPPBL không chỉ gồm dịch vụ chính là hoạt động bán
lẻ, được gắn kết với các dịch vụ phân phối chính khác (bán buôn, đại lý uỷ
quyền, nhượng quyền thương mại) mà còn bao gồm cả các dịch vụ phụ trợ có
liên quan đến hoạt động bán lẻ hàng hoá.

Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung 2011), trong đó đã xác
định rõ :”Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách và lực lượng vật chất…”. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
2011-2020 vừa được Đại hội XI của Đảng thông qua cũng đã đề ra định
hướng “Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu
vực sản xuất và tăng mức độ cao hơn GDP…; phải tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ
mô”….”Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế,
chính sách tài chính tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng đảm bảo
sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế”. Thực hiện Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày
09/01/2011 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch
phát triển KT-XH và dự toàn ngân sách nhà nước năm 2011. Trong đó, Chính
phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ,
Ngành, địa phương : “Đẩy mạnh phát triển Thương mại cơ sở, nông thôn, hệ
8
thống các Chợ, HTX mua bán, cửa hàng và hộ bán lẻ. Xây dựng cơ chế,
chính sách và áp dụng các biện pháp thích hợp tạo lập mối liên kết giữa
người sản xuất với nhà phân phối và người tiêu dùng để hình thành những
kênh lưu thông hàng hóa ổn định, gắn với quản lý chất lượng và vệ sinh an
toàn thực phẩm”…”Kịp thời áp dụng các biện pháp điều tiết cung – cầu và
bình ổn thị trường, nhất là những mặt hàng thuộc dạng bình ổn giá, hàng hóa
thiết yếu cho sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng, sốt giá”…. Và
“Phải ban hành cơ chế, chính sách thích hợp để từng bước điều chỉnh giá
theo cơ chế thị trường”…”Hoàn thiện hệ thống phân phối, lưu thông các mặt
hàng lương thực, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón.”
Như thế, để phát triển DVPPBL ở Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu
quả, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có năng lực cạnh tranh cao với các

Tập đoàn phân phối bán lẻ nước ngoài trên thị trường bán lẻ Việt Nam trong
điều kiện tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo
khớp nối linh hoạt giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng thì yêu cầu bức
thiết đang đặt ra là phải tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ
phân phối bán lẻ. Trong đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát
triển DVPPBL ở thị trường trong nước.
Với cách đặt vấn đề và lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu :
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng
hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” làm đề tài Luận án Tiến sĩ kinh tế.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước
2.1. Tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước
Đến nay ở trong nước đã có một số công trình nghiên cứu ở các góc độ
khác nhau về bán buôn, bán lẻ, về dịch vụ bán lẻ, về hệ thống phân phối hàng
hóa và về từng loại hình dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa (Chợ, siêu thị,
trung tâm thương mại…). Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học
nào đi sâu nghiên cứu trực diện, có tính hệ thống về cơ chế, chính sách phát
triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa, về đổi mới và hoàn thiện cơ chế,
chính sách phát triển DVPPBL trong điều kiện hội nhập quốc tế. Một số công
trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án này gồm :
9
- Một số công trình nghiên cứu về hệ thống phân phối, lưu thông hàng
hóa, về dịch vụ bán buôn, bán lẻ, về các loại hình tổ chức hoạt động phân
phối bán lẻ :
• Đề tài Khoa học cấp Bộ “Các loại hình kinh doanh văn minh hiện
đại, định hướng quản lý nhà nước đối với siêu thị ở Việt Nam”do Vụ chính
sách thị trường trong nước (Bộ Thương mại) chủ trì thực hiện năm 2001.
Trong đó, chỉ tập trung nghiên cứu sâu về loại hình kinh doanh bán lẻ văn
mình, hiện đại và đề ra định hướng quản lý nhà nước loại hình này, chưa đề
cập đến quàn lý nhà nước toàn bộ lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt Nam

trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ
trì năm 2002 (PGS.TS. Lê Trịnh Minh Châu làm chủ nhiệm). Trong đó, đã
nghiên cứu kỹ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng phát
triển hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta nhưng chưa đi sâu nghiên cứu cơ
chế quản lý và đề xuất chính sách cụ thể và đồng bộ cho sự phát triển đó.
• Sách chuyên khảo “Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” do TS. Lê Trịnh Minh Châu
cùng tập thể tác giả biên soạn trên cơ sở bổ sung, nâng cấp kết quả nghiên cứu
đề tài cấp Bộ nêu trên, NXB Lý luận chính trị ,Hà Nội phát hành năm 2004
• Đề tài cấp Bộ “Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu thị
của nước ta hiện nay” do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì năm 2005, TS.
Nguyễn Thị Nhiễu làm chủ nhiệm đề tài. Trong đó, chỉ nghiên cứu sâu về hệ
thống siêu thị và đề ra giải pháp phát triển cho loại hình này, chưa nghiên cứu
toàn diện về dịch vụ bán lẻ và quản lý nhà nước đối với lĩnh vực dịch vụ này.
• Sách chuyên khảo “Siêu thị - phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại
ở Việt Nam” do TS. Nguyễn Thị Nhiễu cùng tập thể tác giả biên soạn, NXB
Lao động – xã hội Hà nội phát hành năm 2006. Trong đó đã bổ sung, nâng
cấp kết quả nghiên cứu đề taì Khoa học cấp Bộ nêu trên.
• Đề tài cấp Bộ “Đánh giá thực trạng và định hướng tổ chức các kênh
phân phối một số mặt hàng chủ yếu ở nước ta” do Viện nghiên cứu Thương
mại chủ trì thực hiện năm 2006, PGS.TS. Đinh Văn Thành làm chủ nhiệm.
10
Trong đó đi sâu nghiên cứu về kênh phân phối một số mặt hàng chủ yếu (rau
quả, thịt, hàng may mặc, sắt thép, phân bón, xi măng…), chưa nghiên cứu
phân phối và dịch vụ phân phối đối với tất cả các nhóm hàng để đề xuất cơ
chế, chính sách quản lý các kênh phân phối hàng hóa.
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp phát triển cửa hàng tiện lợi vận doanh theo
chuỗi ở Việt Nam đến năm 2010” do Trường cán bộ Thương mại Trung ương
chủ trì thực hiện năm 2005. Trong đó chỉ đi sâu nghiên cứu về cửa hàng tiện
lợi và đề xuất giải pháp phát triển, chưa nghiên cứu về lĩnh vực dịch vụ phân

phối bán lẻ và đề xuất cơ chế, chính sách quản lý sự phát triển đó
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng thương mại (hệ thống chợ)” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ
trì thực hiện năm 2005, CN. Phạm Hồng Tú là chủ nhiệm. Trong đó chỉ đi sâu
nghiên cứu về đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng hệ thống chợ, chưa nghiên
cứu cơ chế, chính sách quản lý sự phát triển chợ nói riêng, lĩnh vực phân phối
bán lẻ nói chung.
• Dự án cấp Bộ “Điều tra thực trạng hệ thống mua bán, lưu thông
phân phố các ngành hàng xi măng, phân bón, sắt thép ở nước ta trong thời kỳ
2000-2005 và đề xuất các kiến nghị giải pháp phát triển đến năm 2010” do
Viện nghiên cứu Thương mại chủ trì thực hiện năm 2006. PGS.TS. Nguyễn
Văn Nam làm chủ nhiệm dự án. Trong đó, phạm vi vấn đề được điều tra khá
rộng, thu nhận được cả thông tin phản hồi từ doanh nghiệp và địa phương về
chính sách và cơ chế quản lý lưu thông phân phối nhưng chỉ tập trung vào 3
mặt hàng, chưa đủ tính đại diện cho tất cả lĩnh vực lưu thông phân phối và
mua bán hàng hóa.
• Sách chuyên khảo “Giải pháp phát triển hệ thống phân phối liên kết
dọc các nhóm hàng lương thực thực phẩm” do PGS.TS. Lê Trịnh Minh Châu
cùng tập thể tác giả biên soạn, NXB Thế giới phát hành năm 2006. Trong đó
đã đề xuất một số giải pháp vĩ mô, nâng cao vai trò của chính phủ để phát
triển hệ thống phân phối liên kết dọc bao gồm cả khâu bán lẻ nhưng chỉ giới
hạn vào nhóm hàng lương thực, thực phẩm.
• Đề tài cấp Bộ “ Một số giải pháp phát triển hệ thống siêu thị trên địa
bàn Hà nội” do trường Đại học Thương mại chủ trì thực hiện năm 2006,
11
PGS.TS Trần Hùng làm chủ nhiệm. Trong đó, chỉ đề cập đến các giải pháp
trung mô để phát triển siêu thị ở Hà Nội, chưa nghiên cứu chính sách, cơ chế
quản lý siêu thị trên địa bàn cả nước.
• Đề tài cấp Bộ “ Nghiên cứu dịch vụ bán buôn, bán lẻ của một số
nước và khả năng vận dụng vào Việt Nam” do Viện Nghiên cứu thương mại

chủ trì thực hiện năm 2007, TS. Nguyễn Thị Nhiễu làm chủ nhiệm. Trong đó,
chủ yếu giới thiệu các mô hình kinh doanh bán lẻ của một số tập đoàn phân
phối nước ngoài và các định chế pháp lý để quản lý chưa đi sâu nghiên cứu
kinh nghiệm về hoạch định cơ chế, chính sách của Chính phủ các nước để
quản lý quá trình phát triển dịch vụ bán buôn, bán lẻ nhằm rút ra bài học hữu
ích cho Chính phủ Việt Nam.
• Dự án cấp Bộ “ Điều tra đánh giá thực trạng doanh nghiệp bán lẻ nhỏ
và vừa trong nước” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì băm 2007 do
PGS.TS. Nguyễn Văn Nam là chủ nhiệm dự án. Trong đó chủ yếu thu thập
thông tin về thương nhân và chính sách phát triển thương nhân, chưa đề cập đến
các vấn đề về cơ chế, chính sách đối với toàn bộ lĩnh vực bán lẻ ở trong nước.
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp phát triển hộ kinh doanh thương mại thích
ứng với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” do Viện
Nghiên cứu thương mại Chủ trì thực hiện năm 2008, ThS. Nguyễn Thị Thanh
Hà là chủ nhiệm trong đó mới chỉ đề cập đến giải pháp phát triển hộ kinh
doanh bán lẻ từ góc độ chính sách thương nhân, chưa đề ra chính sách phát
triển thương nhân trong lĩnh vực bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu kinh nghiệm các nước về tập đoàn bán lẻ và
bài học cho Việt Nam" do Viện Nghiên cứu thương mại chủ trì năm 2008, TS.
Nguyễn Văn Long làm chủ nhiệm. Trong đó, chủ yếu giới thiệu một số mô hình
tập đoàn phân phối bán lẻ lớn của nước ngoài, chưa nghiên cứu kinh nghiệm của
Chính phủ các nước về chính sách và cơ chế quản lý sự phát triển của thương
nhân trong lĩnh vực phân phối bán lẻ để rút ra bài học cho Việt Nam
• Luận văn Thạc sỹ kinh tế “ Phát triển hệ thống phân phối bán lẻ của
Tổng công ty thương mại Hà Nội” của Nguyễn Văn Tuấn thực hiện tại
Trường Đại học kinh tế quốc dân năm 2008. Trong đó chỉ đề cập đến quản lý
12
hệ thống bán lẻ ở cấp độ vi mô, chưa đề cập quản lý phân phối bán lẻ ở cấp
độ vĩ mô.
• Luận án Tiến sỹ kinh tế “Giải pháp phát triển các loại hình tổ chức

bán lẻ văn minh, hiện đại ở Việt Nam” của Phạm Hữu Thìn thực hiện tại Viện
Nghiên cứu thương mại năm 2008. Trong đó, chỉ đề cập đến quản lý nhà nước
đối với Siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi. Chưa đi sâu đề xuất
hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Hoàn thiện môi trường kinh doanh nhằm phát triển
dịch vụ bán buôn, bán lẻ của Việt Nam” do Viện Nghiên cứu thương mại chủ
trì thực hiện năm 2009, TS. Từ Thanh Thủy làm chủ nhiệm. Trong đó, đã
nghiên cứu tổng quan về dịch vụ bán buôn, buôn lẻ ở Việt Nam, đánh giá
thực trạng và đề xuất hoàn thiện môi trường kinh doanh cho lĩnh vực dịch vụ
này theo một số tiêu chí chủ yếu từ góc độ thuận lợi hóa thương mại cho
thương nhân, chưa đi sâu nghiên cứu dịch vụ bán lẻ từ các góc độ cơ cầu dịch
vụ phân phối bán lẻ, chính sách mặt hàng, chính sách và cơ chế quản lý giá
cả, quản lý thị trường theo địa bàn lãnh thổ và các thiết chế quản lý đối với
lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu giải pháp phát triển thị trường bán lẻ
hàng tiêu dùng ở nông thôn Việt Nam thời kỳ 2010-2020” do Viện Nghiên
cứu thương mại chủ trì thực hiện năm 2010, CN. Phạm Hồng Tú làm chủ
nhiệm. Trong đó, chủ yếu đi sâu nghiên cứu về thị trường bán lẻ hàng tiêu
dùng ở nông thôn Việt Nam từ góc độ cấu trúc thị trường và thương mại,
chưa đi sâu nghiên cứu từ góc độ quản lý nhà nước đối với sự phát triển dịch
vụ phân phối bán lẻ ở thị trường nông thôn.
• Đề tài cấp Bộ “Kinh doanh bán lẻ trên mạng” do Viện nghiên cứu
thương mại chủ trì thực hiện năm 2009, Nguyễn Thị Thanh Hà làm chủ
nhiệm. Trong đó đã đề cập đến môi trường pháp lý cho kinh doanh bán lẻ trên
mạng, nhưng chưa nghiên cứ để xuất cơ chế, chính sách cụ thể để quản lý sự
phát triển kinh doanh bán lẻ trên mạng nói riêng, quản lý sự phát triển hệ
thống phân phối bán lẻ nói chung.
• Đề tài cấp Bộ “Đánh giá chiến lược đối với quy hoạch tổng thể phát
triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2009-2015, định hướng đến 2025” do
13

Viện nghiên cứu thương mại chủ trì thực hiện năm 2009, PGS.TS. Nguyễn
Văn Lịch làm chủ nhiệm. Trong đó đã từ góc độ môi trường chiến lược để xác
định luận cứ cho các phương án quy hoạch phát triển thương mại, dự báo khả
năng tác động của việc thực hiện quy hoạch phát triển thương mại và đề xuất
giải pháp hoàn thiện môi trường chiến lược cho việc thực hiện các phương án
quy hoạch phát triển thương mại, chưa đi sâu nghiên cứu đề xuất cơ chế,
chính sách cho phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa.
• Đề tài cấp Bộ “Giải pháp tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh
của Việt Nam” do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì thực hiện năm 2010,
TS. Nguyễn Thị Nhiễu làm chủ nhiệm. Trong đó, đã nghiên cứu tương đối
toàn diện về thể chế môi trường kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế ở
Việt Nam từ góc độ tự do hóa kinh tế, thuận lợi hóa kinh doanh, thuận lợi hóa
thương mại nhưng chưa đi sâu nghiên cứu thể chế môi trường kinh doanh
dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa để đề ra các giải pháp cụ thể về hoàn thiện
cơ chế, chính sách quản lý sự phát triển lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ.
• Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng chỉ số mức độ hài lòng của
khách hàng đối với doanh nghiệp thương mại Việt Nam” do Viện Nghiên
cứu thương mại chủ trì thực hiện năm 2010, ThS. Lê Huy Khôi làm chủ
nhiệm. Trong đó, chủ yếu nghiên cứu đánh giá cảm nhận của khách hàng
đối với doanh nghiệp thương mại, trong đó có người tiêu dùng đối với
doanh nghiệp bán lẻ, chưa nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước – nhà
bán lẻ - người tiêu dùng.
• Nhiệm vụ nhà nước về bảo vệ môi trường “Điều tra, khảo sát tình
hình quản lý môi trường tại Chợ của Việt Nam; xây dựng dự thảo quy chế
bảo vệ môi trường của các loại hình và cấp độ chợ” do Viện nghiên cứu
thương mại chủ trì thực hiện năm 2010. KS. Doãn Công Khánh làm chủ
nhiệm. Trong đó, đã thu thập thông tin và đánh giá tình hình môi trường chợ
từ góc độ phát triển thương mại bền vững, chưa nghiên cứu cơ chế, chính
sách phát triển chợ và các loại hình kinh doanh bán lẻ khác.
- Một số dự án, đề án nghiên cứu từ góc độ quản lý nhà nước đối với lĩnh

vực phân phối hàng hóa trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam
14
• Đề án nghiên cứu “Phát triển thương mại trong nước đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020” do Vụ chính sách thị trường trong nước (Bộ
thương mại) chủ trì thực hiện năm 2007 (Sau đó được thủ tướng chính phủ
phê duyệt tại Nghị quyết số 27/2007/QĐ-TTg). Trong đó, đã nghiên cứu đề ra
định hướng tổng thể phát triển thương mại trong nước, quản lý thương mại
trong nước, bao gồm cả quản lý sự phát triển của thương mại bán lẻ nhưng
chưa đi sâu nghiên cứu đề ra cơ chế, chính sách cụ thể về quản lý dịch vụ
phân phối bán lẻ cùng các thiết chế quản lý cụ thể để điều tiết hoạt động của
thương nhân, điều tiết tương quan giữa phát triển các loại hình bán lẻ truyền
thống với các loại hình bán lẻ hiện đại.
• Dự án nghiên cứu “Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại Việt
Nam đến năm 2020” do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì thực hiện năm
2010, PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch làm chủ nhiệm (đang chuẩn bị trình thủ
tướng Chính phủ phê duyệt), chưa công bố.
• Dự án “Nghiên cứu xây dựng khung khổ pháp lý cho hệ thống phân
phối” do Bộ thương mại và GTZ phối hợp chủ trì thực hiện năm 2005. Trong
đó đã xây dựng một số chuyên đề nghiên cứu.
 Môi trường pháp lý cho phát triển dịch vụ phân phối ở Việt Nam
(tháng 11/2005)
 Thực trạng và phương hướng hoàn chỉnh các văn bản pháp luật và
kinh doanh hàng hóa – dịch vụ trong nước (tháng 12/2005)
 Đánh giá thực trạng tổ chức phân phối hàng hóa ở Việt Nam hiện nay
(tháng 12/2005)
Các chuyên đề nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến khía cạnh pháp lý và
môi trường pháp lý cho hoạt động phân phối trong đó có dịch vụ phân phối
bán lẻ ở Việt Nam, chưa đi sâu nghiên cứu về cơ chế, chính sách quản lý sự
phát triển DVPPBL ở Việt nam
• Đề án Nghiên cứu “Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ

của Việt Nam đến năm 2020” do Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì thực hiện.
Trong đó, có đề cập đến phát triển dịch vụ phân phối ở góc độ chiến lược
khung chưa có cơ chế chính sách cụ thể.
15
- Một số bài báo khoa học công bố trên các kỷ yếu Hội thảo khoa học
quốc gia :
 Tập tài liệu Hội thảo quốc gia “Việt Nam- WTO : mở cửa thị trường
trong lĩnh vực dịch vụ phân phối – bán lẻ” do Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt
Nam và Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế phối hợp tổ chức thực
hiện tại Hà Nội năm 2008
 Tập tài liệu hội thảo quốc gia “Việt Nam 20 năm đổi mới” do Bộ
Thương mại và Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đồng tổ chức tại Hà
Nội năm 2007
2.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài
Đến nay trên thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến dịch vụ bán lẻ nhưng có rất ít công trình nghiên cứu liên quan đến cơ chế,
chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ. Một số công trình tiêu biểu là
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển dịch vụ phân phối
bán lẻ
• American Heritage , Dictionary of the English language, Fourth
Edition Copyright 2000 by Houghton Mifflin Company. Updated in 2003.
Published by Houghton Mifflin Company. Theo từ điển Tiếng Anh này của
Hoa kỳ thì bán lẻ được định nghĩa “Bán lẻ là bán hàng cho người tiêu dùng,
thường là với khối lượng nhỏ và không bán lại”
• Francis Kwong (2002) A retail – Led distribution Model (Mô hình
bán lẻ hàng đầu), China Resourcer Enterprise Ltd.
• AT Kearney, “Những cánh cửa hy vọng cho bán lẻ toàn cầu – chỉ số
phát triển bán lẻ toàn cầu 2009” AT Kearney 2009
• Tạp chí phố Wall (Mỹ) và quỹ Heritage : Index of Economic
Freedom – IEF (chỉ số tự do kinh tế)

• Harvard University and WEF :”Chỉ số thuận lợi thương mại”
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực dịch vụ phân phối bán lẻ
 L.T Abankin “Phép biện chứng của kinh tế xã hội chủ nghĩa” Nhà
xuất bản Tư tưởng (Tiếng Nga), Matxcơva 1981. Theo tác giả : Cơ chế kinh
16
tế xuất hiện như là phân hệ của quan hệ sản xuất được hợp thức hóa nhất
định, hơn nữa còn là lớp bên ngoài (trên bề mặt) của quan hệ sản xuất được
phân bổ trong lĩnh vực hoạt động và các mối liên hệ kinh tế cụ thể . Nhưng nó
là phương thức có nhiều bình diện và đa dạng, cơ chế kinh tế không chỉ bó
hẹp trong phạm vi quan hệ sản xuất. Nó không những liên kết quan hệ hạ tầng
cơ sở mà còn liên kết cả những nhân tố nhất định của lực lượng sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Cơ chế quản lý kinh tế là phương thức tổ chức nền
kinh tế cùng với những mối quan hệ vốn có của nó, những hình thức và
phương pháp tác động đến sản xuất và tái sản xuất xã hội, đến cơ cấu tổ chức
của quản lý và những điều kiện thu hút con người vào lao động; toàn bộ
những quy tắc do nhà nước và xã hội quy định một cách tự giác (điều kiện,
tiêu chuẩn, chỉ tiêu, định mức, mối liên hệ giữa những người sản xuất) và
những cơ cấu tổ chức mà trong phạm vi những cơ cấu đó, tái sản xuất mở
rộng xã hội được thực hiện và nảy sinh những yêu cầu của các quy luật kinh
tế trong quá trình hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Cơ chế quản lý kinh tế
điều chỉnh hoạt động của tất cả các chủ thể kinh tế, quan hệ giữa họ với nhau
về mặt sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng ; nó có nhiệm vụ bảo đảm
tạo ra những điều kiện nhằm thúc đẩy hoạt động có hiểu quả của tất cả các
chủ thể kinh tế, bảo đảm trình độ cao của sự kết hợp lợi ích xã hội, lợi ích tập
thể và lợi ích cá nhân. Cơ chế quản lý kinh tế là một hệ thống đặc biệt, hoàn
chỉnh bao gồm khâu cơ cấu và những nhân tố riêng biệt tương đối độc lập
nhưng đồng thời cũng tác động lẫn nhau một cách chặt chẽ. Chẳng hạn như
kế hoạch hóa, hạch toán kinh tế, kích thích hình thành giá cả. Cơ chế quản lý
kinh tế có một cơ cấu quản lý phức tạp với những mặt cắt cơ bản; 1) Những

bộ phận cơ cấu cơ bản của cơ chế kinh tế (kế hoạch hóa, tổ chức tiền lương,
kích thích, hạch toán kinh tế, hình thành giá cả…); 2) Cơ cấu chức năng của
cơ chế quản lý kinh tế nói lên phương thức tác động của nó đến việc thực hiện
chức năng kinh tế quan trọng nhất : phối hợp sản xuất với tiêu dùng, đảm bảo
tính cân đối trong nền kinh tế quốc dân, quản lý toàn bộ khoa học – kỹ thuật,
tiết kiệm các nguồn lao động, vật tư và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao hiệu
quả của nền kinh tế - xã hội, kết hợp các lợi ích của xã hội với lợi ích của tập
17
thể và lợi ích cá nhân.; 3) Cơ cấu theo cấp độ của cơ chế quản lý kinh tế : các
phương thức thực hiện chức năng chiến lược và chức năng trước mắt của
quản lý kinh tế, tác động lẫn nhau giữa cơ quan lãnh đạo với người thực hiện,
việc quản lý các cấp của nền kinh tế quốc dân, ở cấp ngành, vùng của khâu
kinh tế cơ sở và tổ chức các mối liên hệ giữa chúng, cùng các mối liên hệ kinh
tế theo chiều ngang giữa các ngành, các liên hiệp, giữa người sản xuất và
người tiêu dùng.; 4) Cơ cấu tổ chức của nền kinh tế quốc dân, trong phạm vi
cơ chế kinh tế được thực hiện, biểu hiện các quan điểm đã hình thành đối với
việc xây dựng các cơ quan quản lý kinh tế, hình thành việc quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ, hình thành các tổ hợp kinh tế và các khâu kinh tế cơ
sở.; 5) Những yếu tố xác định đặc điểm hoạt động chủ yếu nhất và những
phương thức cơ bản của sự phát triển cơ chế kinh tế, sự tác động của nó đến
việc thực hiện tất cả các quá trình sản xuất, tái sản xuất mở rộng (bao hàm cả
khâu phân phối, lưu thông hàng hóa), đến hiệu quả của sự phát triển kinh tế
theo chiều sâu, đến việc tăng phúc lợi của nhân dân, gắn liền với việc thực
hiện trong quá trình thực tiễn các nguyên tắc nền tảng của kinh tế xã hội chủ
nghĩa : nguyên tắc tập trung dân chủ, trả công theo lao động, phát triển nền
kinh tế một cách có kế hoạch, hạch toán kinh tế, gắn liền với việc bảo đảm sự
kết hợp lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. 6) Những hình thức
cụ thể của quan hệ sản xuất như : kế hoạch, tiêu chuẩn, định mức, đánh giá
các nguồn lực về mặt kinh tế, hạch toàn kinh tế, giá cả, lợi nhuận, tiền lương,
tài chính, tín dụng… những hình thức cụ thể của quan hệ sản xuất này đồng

thời là những phạm trù kinh tế khách quan, những công cụ quản lý kinh tế,
các đòn bẩy quản lý, những hình thức vận động của quy luật kinh tế của Chủ
nghĩa xã hội.
 Fels, Allan “Quản lý bán lẻ - bài học từ các quốc gia đang phát
triển”, Asia Pacific Business Review, quyển 15, số 1 năm 2009
 Mutebi, Alex M “Những thay đổi về quản lý đối với bán lẻ xuyên
quốc gia quy mô lớn ở các thành phố Đông Nam Á”, Nghiên cứu đô thị, số 44
kỳ 2 năm 2007
 Trương Tuệ Mẫn “Đại từ điển kinh tế thị trường” của Trung Quốc,
18
trong các nghiên cứu về lưu thông phân phối hàng hóa đã xác định 4 khâu cơ
bản của quá trình lưu thông hàng hóa từ sản xuất tới tiêu dùng (thu mua, vận
tải, tồn trữ và tiêu thụ”. Ở khâu tiêu thụ hàng hóa được chuyển từ lĩnh vực lưu
thông vào lĩnh vực tiêu dùng, thỏa mãn nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Hoạt động kinh doanh ở khâu lưu thông tiêu thụ hàng hóa là hoạt động
thương nghiệp. Thương nghiệp là một ngành kinh tế độc lập chuyên về tổ
chức lưu thông hàng hóa. Trong quá trình phát triển thương nghiệp, bán buôn
được phân hóa trong thương nhân làm cho nội bộ thương nghiệp phân hóa
thành hai ngành lớn là bán buôn và bán lẻ, đó là kết quả tất yếu trong quá
trình phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa. Sự phân hóa bán lẻ là kết quả
của sự phát triển thương nghiệp. Tiêu thụ hàng bán lẻ bao gồm : hàng bán cho
người tiêu thụ dùng cho cá nhân, hàng bán cho tập thể tiêu dùng (cơ quan,
trường học…), hàng bán cho cá nhân các hộ sản xuất nông – công nghiệp.
Trương Tuệ Mẫn không sử dụng khái niệm “hệ thống phân phối bán lẻ” mà
dùng khái niệm “mạng lưới thương nghiệp bán lẻ” là sự phân bố các hình
thức tổ chức thương nghiệp bán lẻ để bán hàng trực tiếp cho cư dân, cơ quan
đoàn thể và xí nghiệp công nghiệp ở thành thị và nông thôn, là mạng lưới
thương nghiệp trực tiếp phục vụ người tiêu dùng. Dựa theo hình thức phục vụ
phân ra mạng lưới bán lẻ cố định; phân theo quy mô có siêu thị, đại siêu thị,
trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, chợ, cửa hàng chuyên doanh, siêu

thị chuyên doanh, cửa hàng tổng hợp, siêu thị tổng hợp… Thể chế lưu thông
hàng hóa gồm hai loại lớn là thể chế kinh doanh và thể chế quản lý. Thể chế
kinh doanh gồm hệ thống kênh lưu thông hàng hóa, thành phần kinh tế và
hình thức kinh tế, hình thức kinh doanh và phương pháp kinh doanh. Ví dụ :
Trong đó, phân thành các hình thức và phương pháp kinh doanh bán lẻ truyền
thống gồm chợ, cửa hàng bán lẻ….; các hình thức và phương pháp kinh
doanh hiện đại gồm siêu thị, trung tâm thương mại, chuỗi cửa hàng tiện lợi…
Thể chế quản lý thương nghiệp là tổng hợp các chế độ và biện pháp tổ chức,
quản lý thương nghiệp của nhà nước và là bộ phận hợp thành của thể chế
quản lý kinh tế nhà nước gồm 3 nội dung chủ yếu : 1) Thiết lập chức trách của
cơ quan hành chính và cơ quan nghiệp vụ các cấp từ trung ương đến cơ sở; 2)
19
Phân chia quyền hạn quản lý giữa cơ quan hành chính các cấp với các đơn vị;
3) Hình thức, phương pháp và chế độ quản lý (cơ chế quản lý) là những biện
pháp, quy định chế độ về các mặt có liên quan đến kinh doanh và quản lý giữa
cấp trên và cấp dưới. Theo Tác giả Trương Tuệ Mẫn, chính sách quản lý
thương nghiệp (mà đối tượng quy phạm là tổ chức thương nghiệp hoặc thương
nhân) bao gồm tất cả các pháp lệnh, điều lệ và chế độ quản lý thương nghiệp
do nhà nước, các cấp của chính phủ và do các ngành quản lý có chức năng
khác nhau ban hành (bao gồm chính sách quản lý vật giá, chính sách quản lý tài
vụ, chính sách quản lý cho vay và các điều lệ có liên quan đến lợi ích của hoạt
động thương nghiệp, các chế độ và công ước có liên quan.)
Như vậy, đến nay ở cả trong nước và ở nước ngoài chưa có công trình
khoa học nào đã công bố về đề tài Cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ phân
phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Luận án
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ
phân phối bán lẻ hàng hóa và cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ phân phối
bán lẻ trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Đánh giá đúng thực trạng cơ chế quản lý và chính sách phát triển dịch

vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong quá trình chuyển sang kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế
- Đề xuất quan điểm, phương hướng hoàn thiện cơ chế quản lý và chính
sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa phù hợp với các cam kết
hội nhập quốc tế tới năm 2020
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài Luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là lĩnh vực dịch vụ phân
phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam và cơ chế, chính sách đối với sự phát triển
dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam
4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận án
- Về nội dung : Nghiên cứu đối tượng ở tầm vĩ mô toàn nền kinh tế bao
gồm cả các loại hình kinh doanh dịch vụ phân phối bán lẻ truyền thống và
hiện đại nhưng không nghiên cứu đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách từng
20
loại hình. Chỉ nghiên cứu cơ chế, chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán
lẻ ở thị trường trong nước, không nghiên cứu dịch vụ phân phối bán lẻ hàng
hóa của Việt Nam ở thị trường nước ngoài (tức là mạng lưới bán lẻ hàng xuất
khẩu của Việt Nam ở các thị trường xuất khẩu). Đối tượng và phạm vi điều
chỉnh của cơ chế, chính sách được nghiên cứu, đề xuất là tất cả các chủ thể
kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ
phân phối bán lẻ trên thị trường Việt Nam; đối tượng kinh doanh bán lẻ là tất
cả hàng hóa lưu thông trên thị trường Việt Nam, bao gồm cả hàng sản xuất
trong nước và hàng nhập khẩu vào Việt Nam được tiêu thụ tại thị trường
trong nước. Tuy nhiên, trọng tâm nghiên cứu của đề tài luận án là cơ chế,
chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa của Việt Nam ở thị
trường trong nước, tăng cường liên kết giữa nhà sản xuất với nhà bán lẻ và
người tiêu dùng Việt Nam theo tinh thần cuộc vận động lớn “Người Việt Nam
ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đồng thời luận án cũng chú trọng đề xuất cơ
chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà phân phối bán lẻ
Việt Nam phát triển kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm giữ

thị phần ở thị trường trong nước, hạn chế sức ép cạnh tranh của các nhà phân
phối bán lẻ nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, hạn chế những tác
động bất lợi của các cam kết quốc tế đối với các nhà bán lẻ Việt nam; bảo vệ
các nhà sản xuất và các nhà phân phối bán lẻ Việt Nam, bảo vệ lợi ích quốc
gia, bảo vệ người tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội.
- Về không gian đối tượng nghiên cứu : Trên toàn lãnh thổ Việt Nam và
một số nước được lựa chọn để khảo cứu kinh nghiệm hoạch định, điều chỉnh
cơ chế chính sách đối với dịch vụ phân phối bán lẻ, rút ra bài học cho Việt
Nam như (Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc…)
- Về thời gian phân tích, đánh giá thực trạng : Từ khi tiến hành sự
nghiệp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (1986) nhưng trọng tâm là từ khi Việt
Nam thực hiện hội nhập quốc tế (sau năm 1995). Thời hiệu của cơ chế, chính
sách được đề xuất hoàn thiện cho thời kỳ đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu : Hệ thống hóa và khái
21

×