Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

NHỮNG XU HƯỚNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.93 KB, 31 trang )

Kinh tế quốc tế
MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Khái niệm
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, việc buôn bán giao lưu xuyên biên giới
ngày càng phát triển và phổ biến ở khắp nơi.Thị trường thế giới ngày nay đang dần trở
thành một thực thể thống nhất, trong đó các bộ phận thị trường gắn kết và phụ thuộc chặt
chẽ với nhau.
Mỗi quốc gia khi gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế chung ấy đều có
những chính sách thương mại quốc tế (hay còn gọi là chính sách Thương mại quốc tế )
phù hợp với mục tiêu và điều kiện phát triển của mình.
Chính sách thương mại quốc tế là 1 hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc
và các công cụ, biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoat động
thương mại quốc tế của quốc gia trong thời kì nhất định phù hợp với định hướng, chiến
lược mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
2. Chức năng của chính sách thương mại quốc tế
Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đưa lại những lợi ích to lớn nhưng với nhiều
lý do khác nhau, mỗi quốc gia có chủ quyền đều có chính sách thương mại quốc tế riêng
thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt
động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế của quốc gia. Do sự phát triển
không đều giữa các quốc gia nên khả năng và điều kiện tham gia vào thương mại quốc tế
của mỗi nước là không giống nhau, trong khi đó yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế
và xã hội có những đặc điểm riêng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía chính sách thương
mại quốc tế. Môi trường kinh tế thế giới còn chịu sự chi phối và tác động của nhiều mối
quan hệ chính trị và các mục tiêu phi kinh tế khác, cho nên chính sách thương mại quốc
tế của mỗi quốc gia cũng phải đáp ứng cho nhiều mục tiêu khác nhau. Mục tiêu của chính
Kinh tế quốc tế
sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia có thể thay đổi qua mỗi thời kỳ, nhưng đều có
chức năng chung là điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế theo chiều hướng có lợi
cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chức năng này thể hiện trên hai mặt sau
đây:


Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường
ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế,
khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.
Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có
khả năng đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng cho yêu
cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, chính sách thương mại quốc tế của một quốc gia
bao gồm nhiều bộ phận khác nhau và có liên quan hữu cơ với nhau. Đó là:
-Chính sách mặt hàng: trong đó bao gồm danh mục các mặt hàng được chú trọng
trong việc xuất nhập khẩu, sao cho phù hợp với trình độ phát triển và đặc điểm của nền
kinh tế đất nước cũng như các mặt hàng cần hạn chế hoặc phải cấm xuất - nhập khẩu,
trong một thời gian nhất định, do những đòi hỏi khách quan của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và yêu cầu của việc đảm bảo an ninh, an toàn xã hội.
Ví dụ như Việt Nam cấm nhập khẩu thiết bị và phần mềm mã hóa thuộc diện bí mật
nhà nước không liên quan tới các sản phẩm thương mại thông thường phục vụ nhu cầu
đại chúng. Hay như trong tháng 9 vừa qua Bộ công thương đã đề xuất Bộ tài chính xem
xét đánh thuế cao mặt đối với một số mặt hàng như mỹ phẩm, điện thoại di động, ô tô
Trong đó ô tô được đề nghị tăng lên mức kịch trần theo cam kết gia nhập WTO với 91%,
đồng thời đưa mặt hàng điện thoại di động vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
-Chính sách thị trường: bao gồm định hướng và các biện pháp mở rộng thị trường,
xâm nhập thị trường mới, xây dựng thị trường trọng điểm, các biện pháp có đi có lại giữa
các quốc gia mang tính chất song phương hoặc đa phương, việc tham gia vào các hiệp
Kinh tế quốc tế
định thương mại và thuế quan trong phạm vi khu vực hay toàn cầu nhằm tạo điều kiện
cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển phục vụ cho các mục tiêu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội.
Theo đó thì sau khi gia nhập WTO Việt Nam đã có điều chỉnh chính sách thương
mại của mình cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thế giới như Việt Nam cam kết giảm
mức thuế nhập khẩu bình quân từ 17.4% xuống còn 13.4% trong 5 đến 7 năm tới. Trong
dó mức thuế nhập khẩu nông sản giảm từ 23.4% xuống còn 20.9%, mức thuế nhập khẩu

hàng công nghiệp giảm từ 16.8% xuống còn 12.6%. Bên cạnh đó Việt Nam cũng cam kết
tham gia một số hiệp định tự do hóa theo ngành như công nghệ thông tin, dệt may, thiết
bị y tế với thời gian giảm thuế từ 3 đến 5 năm. Tuy nhiên Việt Nam vẫn bảo lưu hạn
ngạch thuế quan với đường, trứng, gia cầm, thuốc lá và muối. Đối với 4 mặt hàng này
mức thuế hiện hành là trúng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40%, thuốc lá 30%, muối
30%.
-Chính sách hỗ trợ: bao gồm các chính sách và biện pháp kinh tế nhằm tác động
một cách gián tiếp đến hoạt động thương mại quốc tế như chính sách đầu tư, chính sách
tín dụng, chính sách giá cả và tỷ giá hối đoái, cũng như chính sách sử dụng các đòn bẩy
kinh tế Các chính sách này có thể gây tác động thúc đẩy hay điều chỉnh sự phát triển
của hoạt động thương mại quốc tế.
Ví dụ ngày 23/1/2009 chính phủ đã ra quyết định số 131/QĐ – TTg về việc hỗ trợ
lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh nhằm mục
tiêu giảm giá thành sản phẩm hàng hóa, duy trì sản xuất kinh doanh và tạo việc làm trong
điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.
3. Vai trò của chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận trong chính sách kinh tế đối ngoại
của một quốc gia. Chính sách kinh tế đối ngoại là tổng thể các nguyên tắc, công cụ và
biện pháp thích hợp có mối liên hệ hữu cơ và mang tính đồng bộ nhằm đạt được các mục
Kinh tế quốc tế
tiêu đã định, trong việc phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại của một quốc gia trong từng
thới kỳ nhất định
Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm chính sách thương mại quốc tế (chính sách
ngoại thương), chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách phát triển các dịch vụ thu ngoại
tệ (du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế, xuất và nhập khẩu sức
lao động ), chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách cán cân thanh toán quốc tế Chính
sách kinh tế đối ngoại cùng với chính sách ngoại giao tạo thành chính sách đối ngoại của
một quốc gia.Chúng lại là một bộ phận cấu thành của chính sách kinh tế - xã hội nhằm
phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế và
xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.

Như vậy, chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã
hội của nhà nước, nó có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội
của đất nước. Nó tác động mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của đất nước, đến quy mô và phương thức tham gia của nền kinh tế mỗi nước vào phân
công lao động quốc tế và thương mại quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế có vai trò
to lớn trong việc khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước, phát triển
các ngành sản xuất và dịch vụ đến quy mô tối ưu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế
và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế.
Chính sách thương mại quốc tế có thể tạo nên các tác động tích cực khi nó có cơ sở
khoa học và thực tiễn, tức là nó xuất phát từ các bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế
giới, chú ý đến đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế trong nước, tuân theo các
quy luật khách quan trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế và thường xuyên
được bổ sung, hoàn chỉnh phù hợp với những biến đổi mau lẹ của thực tiễn.
II. NHỮNG XU HƯỚNG CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
1. Xu hướng tự do hóa thương mại
Kinh tế quốc tế
Tự do hóa thương mại là sự nới lỏng can thiệp của nhà nước hay chính phủ vào lĩnh
vực trao đổi, buôn bán quốc tế.
Tự do hóa thương mại vừa là nhu cầu hai chiều của hầu hết các nền kinh tế thị
trường, bao gồm: nhu cầu bán hàng hóa, đầu tư ra nước ngoài và nhu cầu mua hàng hóa,
nhận vốn đầu tư của nước ngoài
Nội dung của tự do hóa thương mại
Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những hàng rào
thuế quan và hàng rào phi thuế quan trong quan hệ thương mại với nước ngoài, nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các hoạt động thương mại quốc tế cả về bề rộng
và bề sâu
Cơ sở:
Xuất phát từ quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, các quốc gia tăng cường hợp tác
do đó nhà nước phải giảm dần sự can thiệp đồng thời tăng cường áp dụng các biện pháp

theo chuẩn mực quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế quốc tế phát triển.
Các nước trên thế giới đang chuyển sang áp dụng mô hình kinh tế thị trường mở
của tạo điều kiện phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh do đó hoạt động thương mại
quốc tế ngày càng phát triển mạnh
Mục đích của tự do hóa thương mại
Phát triển hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa
sang các nước khác đồng thời tăng cường nhập khẩu những loại hàng hóa không sản xuất
được hoặc sản xuất với chi phí cao.
Tạo điều kiện cho việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế giữa các quốc gia
Tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp bằng cách tạo ra môi trường cạnh
tranh tốt. Tạo ra sự bình đẳng hơn giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp
Kinh tế quốc tế
nước ngoài từ đó tạo ra động lực cho các doanh nghiệp trọng nước nâng cao khả năng
cạnh tranh để tồn tại trọng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Điều kiện để tự do hoá thương mại?
Để phát huy lợi thế so sánh khi thực hiện tư do hoá thương mại, cần phải đảm bảo các
điều kiện tối thiểu sau:
- Đảm bảo sự ổn định vĩ mô, nhất là ổn định chính trị, kinh tế, tạo không khí hợp tác hoà
bình hữu nghị và thuận lợi chocác hoạt động hợp tác kinh doanh
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp một cách đồng bộ nhất quán, phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các hoạt động kinh
tế đối ngoại
- Cải cách và nâng cao hiệu quả quản lý hành chính của các cơ quan chính phủ, nhất là
các cơ quan có liên quan đến hoạt động ngoại thương (điều kiện này hết sức quan trọng
đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc và Việt Nam)
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội trước hết là những trung tâm giao
lưu kinh tế và cửa ngõ thông thương với thị trường thế giới như hệ thống đường giao
thông, thông tin liên lạc, điện nước, và các dịch vụ thiết yếu đạt trình độ quốc tế, tạo
môi trường kinh doanh năng động và hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước và các
nhà đầu tư quốc tế

- Đào tạo và xây dựng một nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu phát triển, nhất là giới
kinh doanh, doanh nghiệp trên lĩnh vực thương mại quốc tế, có đủ chuyên môn và bản
lĩnh để làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài
Cần thiết phải tự do hoá thương mại theo trình tự?
Tự do hoá thương mại là việc cần phải làm đối với tất cả các nước trong điều kiện hội
nhập kinh tế. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại cần phải được thực hiện theo những bước
đi phù hợp, nhất là đối với các nước đang phát triển. Nếu không chú trọng đến trình tự tự
Kinh tế quốc tế
do hoá, các nước này có thể phải gánh chịu những bài học đắt giá. Việc xác định lộ trình
tự do hoá thương mại cần dựa vào đặc điểm, điều kiện, và nội lực của mỗi nước.
2. Xu hướng bảo hộ mậu dịch
Bảo hộ mậu dịch là thuật ngữ trong kinh tế học quốc tế chỉ việc áp dụng nâng cao
một số tiêu chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi
trường, xuất xứ, v.v hay việc áp đặt thuế suất nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng
nhập khẩu nào đó để bảo vệ ngành sản xuất các mặt hàng tương tự (hay dịch vụ) trong
một quốc gia nào đó.
Cơ sở:
Xuất phát từ sự khác nhau về khả năng và điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia
do đó các nước cần áp dụng các biện pháp bảo hộ đối với sản xuất trong nước trước áp
lực cạnh tranh đến từ các hàng hoá nước ngoài nhằm đảm bảo chủ quyền về kinh tế,
tránh sự lệ thuộc vào nước ngoài trong quá trình phát triển kinh tế
Xuất phát từ nguyên nhân về mặt lịch sử trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế giữa
các nước.Trong buổi đầu hình thành thương mại quốc tế các quốc gia quan tâm đến việc
thu nhiều kim quí do đó tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Từ đó hình thành
xu hướng bảo hộ mậu dịch trong thương mại quốc tế.
Ngoài ra xu hướng bảo hộ mậu dịch còn xuất phát từ nhu cầu xã hội như giải quyết
công ăn việc làm, tạo cơ hội cho các ngành công nghiệp non trẻ…
Mục tiêu:
Bảo hộ hàng hóa trong nước và nền sản xuất trong nước trước áp lực cạnh trạnh từ
các quốc gia khác.Đảm bảo hạn chế sự xâm nhập tràn lan của hàng hóa nước ngoài.

Thông qua chính sách bảo hộ mậu dịch, các quốc gia gián tiếp đảm bảo một số vấn đề về
mặt xã hội.
Nội dung
Kinh tế quốc tế
Chính phủ xây dựng và hoàn thiện hệ thống các biện pháp công cụ chính sách phù
hợp với luật pháp và các tập quán kinh tế trên thế giới đồng thời dựa trên cơ sở hoàn cảnh
trong nước để bảo vệ cho nền sản xuất trong nước.
Hiện nay xu hướng tự do hóa thương mại đang lấn áp dần xu hướng bảo hộ mậu
dịch tuy nhiên không lấn át được hoàn toàn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc xu
hướng bảo hộ mậu dịch vẫn còn tồn tại ở hầu hết các quốc gia.
Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ. Theo lí lẽ này thì các xí nghiệp non trẻ sẽ có
chi phí sản xuất cao hơn các đối thủ lớn mạnh từ nước ngoài và không thể cạnh tranh
được do đó tự do thương mại đồng nghĩa với việc bóp chết các xí nghiệp nhỏ này.Các
chính phủ cần phải bảo hộ cho các xí nghiệp non trẻ thông qua hình thức thuế quan và
các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, giảm áp lực cạnh tranh cho các
ngành sản xuất trong nước.
Lí lẽ về việc tạo nên nguồn tài chính công cộng. Dựa trên việc chính phủ cần nguồn
tài chính để cung cấp hàng hóa công cộng và các chi phí khác do đó chính phủ đánh thuế.
Trên hình thức thuế thu nhập. thuế kinh doanh, thuế nhập khẩu… có ý nghĩa như nhau,
tuy nhiên chính phủ các nước đánh thuế nhập khẩu cao hơn nhiều so với các loại thuế
khác. Về bản chất đó là một phương thức của bảo hộ mậu dịch.
Lí lẽ về thực hiện phân phối lại thu nhập. Lí lẽ này cho rằng người tiêu dung hàng
nhập khẩu đa số là người giàu do dó thuế nhập khẩu sẽ làm chuyển dịch một phần thu
nhập từ người giàu sang người nghèo từ đó góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Khắc phục tình trạng thất nghiệp.Lí lẽ này cho rằng khi đành thuế nhập khẩu thì các
loại thuế này sẽ đành vào các sản phẩm có thể thay thế hàng nhập khẩu.Khi đó các xí
nghiệp sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu sẽ mở rộng sản xuất thuê them nhân
công và phải trả một mức lương cao hơn. Có thể cho rằng thuế nhập khẩu là một loại trợ
cấp việc làm nhưng chỉ diễn ra trong phạm vi các ngành sản xuất thay thế hàng nhập
khẩu. Không những đây là hình thức trợ cấp việc làm mà còn là hình thức trợ cấp sản

Kinh tế quốc tế
xuất.Do đó rất có thể xảy ra những xung đột về thương mại cũng như vi phạm những
nguyên tắc về tự do buôn bán.
3. Mối quan hệ giữa xu hướng tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Rõ ràng là hai xu hướng nêu trên có tác động mạnh mẽ đến chính sách thương mại
quốc tế của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ.
Về mặt nguyên tắc thì hai xu hướng ấy đối nghịch nhau và chúng gây nên những tác
động ngược chiều nhau đến hoạt động thương mại quốc tế.Nhưng chúng không bài trừ
nhau mà trái lại thống nhất với nhau, một sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
Trong thực tế, hai xu hướng cơ bản này song song cùng tồn tại và chúng được sử
dụng một cách kết hợp với nhau. Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, tuỳ
theo các điều kiện và đặc điểm cụ thể mà người ta sử dụng và khéo léo kết hợp hai xu
hướng nói trên với những mức độ khác nhau ở từng lĩnh vực của hoạt động thương mại
quốc tế. Giống như trong nền kinh tế hỗn hợp vai trò của chính phủ không phải là cạnh
tranh hoặc thay thế cho khu vực tư nhân.Trái lại, chính phủ thúc đẩy, hỗ trợ và điều tiết
hoạt động của khu vực này.Vai trò của chính phủ trong mỗi nền kinh tế lại khác nhau.
Nhưng lí do chủ yếu cho sự vận dụng kết hợp này là:
- Về mặt lịch sử, chưa khi nào có sự tự do hoá thương mại hoàn toàn đầy đủ, và trái
lại cũng không khi nào lại có sự bảo hộ mậu dịch quá dày đặc đến mức làm tê liệt các
hoạt đông thương mại quốc tế ( trừ trường hợp có sự bao vây cấm vận hoặc xảy ra chiến
tranh). Hai xu hướng này không bao gìơ được thực hiện một cách triệt để hoàn toàn, mà
thường đựoc kết hợp với nhau trong quá trình xây dựng các chính sách TMQT của các
quốc gia trong đó xu hướng bảo hộ mậu dịch đựơc điều chỉnh theo hướng giảm dần đồng
thời xu hướng tự do hoá thương mại ngày càng đựơc các quốc gia tăng cường trong đó
các công cụ biện pháp bảo hộ mậu dịch từng bứơc được chuyển dần từ những biện pháp
truyền thống như thuế quan, hạn ngạch sang các biện pháp hiện đại hơn như các rào cản
Kinh tế quốc tế
về kỹ thuật, chính sách chống bán phá giá, chính sách đảm bảo cạnh tranh và chống độc
quyền, biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Về mặt lôgic, tự do hoá thương mại là một quá trình đi từ thấp đến cao, từ cục bộ

đến toàn thể.
Thậm chí có trường hợp nó có ý nghĩa trước hết như một xu hướng.tự do hoá thương mại
và bảo hộ mậu dịch là hai mặt nương tựa nhau, chúng làm tiền đề cho nhau và kết hợp
với nhau.
- Với những điều kiện thực tiễn của hoạt động thương mại ngày nay, không thể cực
đoan khẳng định sự cần thiết của một trong hai xu hướng nói trên, mặc dù về mặt lí
thuyết có thể chứng minh những mặt tiêu cực của các công cụ bảo hộ mậu dịch ở những
mức độ khác nhau.
Một sự vận dụng phù hợp với các công cụ bảo hộ mậu dịch và bảo hộ có chọn lọc
và có điều kiện gắn liền với các điều kiện vể thời gian và không gian nhất định.
Với chủ trương hội nhập KT khu vực và thế giới, VN đang tiến tới tự do hóa TM,
chúng ta đã gia nhập nhiều tổ chức kinh tế lớn như “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN”,
“Tổ chức thương mại quốc tế - WTO”… gia nhập vào các tổ chức này VN đã cam kết
thực hiện cắt giảm thuế quan. Ví dụ thực hiện theo lộ trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực
chung (CEPT) của các nước ASEAN tiến tới cắt bỏ thuế quan hòan tòan trong khu vực
ASEAN, áp dụng mức thuế quan MFN cho hàng hóa các nước được hưởng chế độ tối
huệ quốc, giảm thuế nhiều mặt hàng xuống khi tham gia vào WTO.
Ngoài ra chúng ta còn dỡ bỏ hạn ngạch đối với một số các mặt hàng như: “không áp
dụng hạn ngạch thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu thỏa mãn các điều kiện được
hưởng thuế suất CEPT” theo quy định tại Thông tư số 45/2005/TT-BTC ngày 6/6/2005
của Bộ Tài chính, dỡ bỏ hạn ngạch dệt may vào thị trường Hoa Kỳ, …
Kinh tế quốc tế
Chuyển việc cấm xuất khẩu một số mặt hàng hiện nay sang áp dụng điều chỉnh
bằng thuế xuất khẩu, tiếp tục giảm và thu hẹp dần mặt hàng chịu thuế xuất khẩu. Mở
rộng diện các nhóm hàng hoá dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất thuế GTGT 0%
nhằm góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng độ mở của nền kinh tế, tạo điều kiện để
nước ta có thể mở rộng và phát triển thị trường ở nước ngoài.
Đối với thuế nhập khẩu nên có sự nghiên cứu để giảm thuế suất tối đa, chuyển tối
đa các quy định phi thuế quan sang thuế quan
Tuy nhiên để bảo hộ cho nền kinh tế non trẻ trước sức ép quá mạnh của các nền

kinh tế khác nhà nước cũng đưa ra nhiều biện pháp bảo hộ cho nền kinh tế:
Sử dụng những biện pháp phi thuế , thuế, hệ thống giấy phép nội địa, các biện pháp
kỹ thuật để hạn chế hàng hóa nhập khẩu
Nâng đỡ các nhà xuất khẩu nội địa bằng cách giảm hay miễn thuế xuất khẩu, thuế
doanh thu, thuế lợi tức, trợ cấp xuất khẩu,… để có thể thâm nhập thị trường nước ngòai
dễ dàng.
Hiện nay, Liên hợp quốc một lần nữa lên tiếng cảnh báo nguy cơ bảo hộ mậu dịch
không hề giảm đi sau khi nền kinh tế toàn cầu bắt đầu phục hồi.
Nguy cơ bảo hộ mậu dịch tăng lên khi các biện pháp kích cầu được loại bỏ trong
năm 2010 và nạn thất nghiệp ngày càng trầm trọng hơn ở nhiều nước, đặc biệt ở các nước
công nghiệp phát triển.xu hướng bảo vệ nền kinh tế trong nước, bảo vệ việc làm và phúc
lợi cho người dân thường dẫn đến bảo hộ mậu dịch. Thêm vào đó, khủng hoảng kinh tế
cũng hạn chế chính sách mở cửa của các nền kinh tế lớn trong khi các gói kích cầu lại
khuyến khích tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trong nước hơn là nhập khẩu.
Trong báo cáo “Cảnh báo thương mại toàn cầu,” Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết
trong quý IV/2009, lần đầu tiên kể từ khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ giữa năm 2008,
nhu cầu hàng công nghiệp giảm 23,8% do hàng rào ngăn cản nhập khẩu được Tổ chức
Kinh tế quốc tế
Thương mại Thế giới (WTO) coi là hợp pháp như thuế chống bán phá giá. Số lượng đơn
kiện về các rào cản thương mại được WTO điều tra trong quý này đã tăng 35,7% so với
cùng kỳ năm trước đó.
Từ tháng 10/2009, nhiều nước thuộc Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi
(G-20) đã áp dụng tới 80 biện pháp bảo hộ mậu dịch, mặc dù trước đó họ cam kết chống
xu thế này. Những biện pháp bảo hộ mậu dịch trả đũa lẫn nhau có thể gây thiệt hại lớn
cho hoạt động buôn bán, đầu tư và sự thịnh vượng của thế giới.
Công cụ bảo hộ không chỉ mang tính tự vệ, hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong
nước trong quá trình cạnh tranh với hàng hoá từ bên ngôài mà còn phải tạo điều kiện chi
các ngành sản xuất trong nước vươn lên cạnh tranh thắng lợi không chỉ ở thị trường nội
địa mà cả ở thị trường nước ngoài, có nghĩa là phải vận dụng các công cụ bảo hộ một
cách tích cực và năng động. Việc thực hiện bảo hộ phải gắn liền với các bước tiến của

quá trình tự do hoá thương mại đạt được trong các quan hệ quốc tế.
4. Những nguyên tắc cơ bản điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế của một quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia
khác, bởi vậy nó chịu ảnh hưởng của nguyên tắc nhằm chống sự phân biệt đối xử, bảo
đảm sự có đi có lại như sau:
4.1Chế độ nước ưu đãi nhất ( Most Favoured Nation Treatment )
Chế độ ưu đãi nhất ( chế độ tối hệ quốc) là chế độ mà các nước dành cho nhau trong
quan hệ kinh tế quốc tế và buôn bán về các nặt thuế quan, mặt hàng trao đổi, tàu bè
chuyên chở, quyền lợi của pháp nhân và tự nhiên nhân của nước này trên lãnh thổ của
nước kia…
Đãi ngộ Tối huệ quốc là một trong những quy chế pháp lý quan trọng trong thương
mại mại quốc tế hiện đại. Quy chế này được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng
của hệ thống thương mại đa phương của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Kinh tế quốc tế
Thuật ngữ "đãi ngộ Tối huệ quốc" được ra đời vào cuối thế kỷ 19 trong thực tiễn
thương mại của Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ đã đưa ra chế độ Tối huệ quốc trong
các hiệp định song phương như cơ sở để xúc tiến thương mại với một số đối tác châu Âu
có quan hệ thương mại mật thiết với mình (ví dụ: Pháp, Hà Lan). Đãi ngộ Tối huệ quốc
vào thời điểm ra đời chỉ mang ý nghĩa của chế độ thương mại thuận lợi nhất mà quốc gia
sở tại có thể dành cho hàng hoá nhập khẩu đối tác thương mại của . Nói cách khác đó là
"chế độ đối xử bình đẳng giữa những thực thể được ưu đãi".Tối huệ quốc hướng đến các
nhà kinh doanh, hàng hoá ở ngoài nước, thể hiện sự công bằng dành cho những đối tượng
ở ngoài biên giới
Theo tập quán quốc tế, khi một nước cho một nước cam kết cho một nước khác
hưởng chế độ này thì phải dành cho nước đó tất cả những ưu đãi mà mình đã hoặc dành
cho một nước thứ ba.
Chế độ tối hệ quốc có thể là vô điều kiện hoặc có điều kiện. Trong trường hợp vô
điều kiện thì các nước cam kết dành cho nhau hưởng mặc nhiên bất cứ một quyền lợi nào
mà một trong các bên đã hoặc sẽ dành cho bất kì nước thứ ba nào.Trong trường hợp có
điều kiện thì một nước đã cho một nước thứ ba hưởng chế độ ưu đãi với điều kiện như

thế nào thì một nước khác muốn được hưởng tất cả những ưu đãi như đã dành cho nước
thứ ba đó cũng phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như thế.Chế độ tối hệ quốc thường
được quy định cụ thể trong một khoản riêng của một hiệp ước hoặc hiệp định thương
mại, do đó thường được gọi là điều khoản tối hệ quốc.
Tuy nhiên chế độ tối hệ quốc không được áp dụng trong buôn bán đường biên, buôn
bán truyền thống và trường hợp có những ưu đãi thuế quan đặc biệt.Ngoài ra, Tối Huệ
Quốc còn là 1 trong 7 nguyên tắc cơ bản (Việt Nam công nhận 7 nguyên tắc tuy nhiên
một số nước công nhận 9, v.v ) của luật quốc tế hiện đại. Do vậy, nguyên tắc này không
chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương mại mà còn trong 1 số lĩnh vực khác
4.2Nguyên tắc ngang bằng dân tộc ( nation parity) hay chế độ đãi ngộ quốc gia
( Nation Treatment)
Kinh tế quốc tế
Đây là chế độ mà một nước dành cho tự nhiên nhân và pháp nhân nước ngoài trên
lãnh thổ nước mình một sự đối sử ngang bằng như đối xử với tự nhiên nhân và pháp nhân
nước mình trong những vấn đề như: kinh doanh công thương nghiệp, thuế khóa, hàng
hải, cư trú, sự bảo hộ của pháp luật… Các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài sinh sống
và làm việc trong nước này sẽ được hưởng các quyền lợi như cá nhân và các doanh
nghiệp trong nước.
Chế độ đãi ngộ quốc gia thường là chế độ có đi có lại được quy định cụ thể trong
các hiệp ước thương mại giữa hai nước.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào,
sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại các cửa khẩu, bắt
đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử công bằng ( không kém ưu đãi
hơn ) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự sản xuất
trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc trên như sau: Nếu nguyên tắc “ tối hệ
quốc ” nhằm mục tiêu tạo sự công bằng không phân biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu
hàng hóa, cung cấp dịch vụ …. Của các nước A,B,C… khi xuất khẩu vào nước X nào đó
thì nguyên tắc “ Đãi ngộ quốc gia ” nhằm mục tiêu tạo sự công bằng không phân biệt đối

xử giữa các hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp nước A với các hàng hóa, dịch vụ
nước X trên thị trường nước X, ssau khi hàng hóa, dịch vụ của nước A đã thâm nhập
( qua hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác tạicửa khẩu) vào thị trường nước X.
III. NHỮNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐIỂN HÌNH
1. Các chính sách hướng nội ban đầu
Kinh tế quốc tế
Phát triển và thu hẹp khoảng cách với các nước đang phát triển luôn là mục tiêu hàng
đầu của các nước đang phát triển. Chính vì vậy mà chính phủ các nước đang phát
triển đôi khi lựa chọn chính sách thương mại để thúc đẩy tính tự lực của quốc gia.
Với nhiệm vụ chủ yếu:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong nước xâm nhập và mở rộng thị trường ra
nước ngoài (hướng ngoại)
+ Bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong nước
đứng vững và vươn lên trong hoạt động KDQT (hướng nội)
Đó là các chính sách với định hướng: nền kinh tế dựa vào sự phát triển lực lượng
trong nước là chính, có rất ít quan hệ giao lưu kinh tế với nước ngoài, chủ yếu nhằm thoả
mãn nhu cầu thị trường trong nước. Có thể phân thành 2 loại:
+ KTKHN cấp thấp, chủ yếu tìm cách tự cấp tự túc nông sản phẩm. Thể hiện ở việc
tăng cường sản xuất lương thực và các nông sản
+ KTKHN cấp cao chủ yếu dưạ vào tiền vốn, lao động, tài nguyên tự nhiên
trong nước, sản xuất ở trong nước những sản phẩm công nghiệp vốn trước đây phải nhập
khẩu nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường trong nước.
Qua đó mà bảo đảm sự an toàn lương thực. Để khuyến khích và bảo hộ sản xuất
trong nước, chính phủ phải thực hiện một số chính sách như:
+ Thuế nhập khẩu
+ Quota nhập khẩu lương thực
Nhưng khi này thuế lương thực không phải chủ yếu nhằm nâng cao nguồn thu mà là
loại thuế bảo hộ. Nếu các nước đang phát triển này có khả năng độc quyền trên thị trường
thế giới thì họ sẽ khai thác cách đánh thuế một cách hiệu quả vào những người tiêu dùng
ở các nước nhập khẩu.

Với tỷ lệ bảo hộ hiệu quả được tính bằng công thức :
Vi
ViVi
Fi

=
'
Q
3
Kinh tế quốc tế
Vi’ là giá trị gia tăng trong ngành i khi áp dụng thuế nhập khẩu
Vi’ = (doanh thu của thành phẩm – tổng giá trị sản phẩm trung gian), tính theo giá
trong nước trong điều kiện áp dụng thuế nhập khẩu.
Vi là giá trị gia tăng trong ngành i trong điều kiện buôn bán tự do (không có thuế
quan)
Vi = (doanh thu thành phẩm - tổng giá trị sản phẩm trung gian), tính theo mức giá
trong nước trong điều kiện tự do thương mại
Ngoài ra chính phủ còn đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu để tăng nguồn thu cho
ngân sách, nhưng nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hóa bị đánh thuế cao hơn mức giá
trong nước. Do quy mô xuất khẩu của một nước , thường là nhỏ so với thị trường thế giới
cho nên thuế xuất khẩu sẽ làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hóa có
thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế, qua đó làm giảm sức thu hút tương đối
của nền nông nghiệp định hướng xuất khẩu so với nền nông nghiệp hướng nội.
Tóm lại những chính sách này có thể có tác dụng cục bộ nhưng về lâu dài nó trái
ngược với tư tưởng nền kinh tế thế giới mở cửa có ích cho tất cả các nước.
Khi duy trì chính sách thương mại hướng nội sẽ đưa đến tình trạng tỷ giá hối đoái tăng
lên do kết qủa của sự bảo hộ và sẽ khuyến khích nhập khẩu sản phẩm chế tạo.
2. Các chính sách hướng ngoại ban đầu
Nền kinh tế định hướng phát triển theo nhu cầu thị trường quốc tế, lấy mở rộng
xuất khẩu làm trung tâm, xây dựng và điều chỉnh cơ cấu kinh tế hướng về thị trường quốc

tế, tích cực lợi dụng các yếu tố sản xuất như: tiền vốn, sức lao động, tiến bộ kĩ thuật trong
Kinh tế quốc tế
nước, căn cứ vào nguyên tắc lợi thế so sánh, sự phân công lao động quốc tế và sự cạnh
tranh quốc tế để tìm ra con đường phát triển đất nước với tốc độ cao.
Có thể phân thành KTKHN cấp thấp (chủ yếu xuất khẩu nông sản phẩm thô) và
KTKHN cấp cao (chủ yếu xuất khẩu sản phẩm chế biến). Đối với các nước đang phát
triển trong giai đoạn đầu các quốc gia này thường hướng vào xuất khẩu các mặt hàng
truyền thống và người ta thực hiện chính sách đánh thuế nhập khẩu tương đối thấp để
tăng nguồn thu cho chính phủ, vì ở giai đoạn này không thể lựa chon loại thuế khác. Điều
này làm cho giá cả tiêu dùng tăng và một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu trở nên
phi hiệu quả
Tuy nhiên, nhờ nguồn thuế tăng lên người ta có thể chi nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng
để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu.
Chính sách hướng ngoại ban đầu thiên về ủng hộ thay thế nhập khẩu và tạo ra một
biểu thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần tới sự bảo hộ mạnh mẽ
Ví dụ : Việt Nam
Trước những năm 1986 nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng thấp. Hàng năm không
những phải nhập các mặt hàng quan trọng cho sản xuất mà còn phải nhập hàng tiêu dùng,
kể cả những loại hàng hóa lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như gạo và vải
mặc. Từ 1976 đến 1985 Nhà nước đã nhập 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn
lương thực quy gạo. Việt Nam đã bắt đầu quá trình cải cách bằng tự do hoá giá cả và
thương mại, cả trong thị trường nội địa lẫn trong các giao dịch quốc tế. Nhờ đó, những
quyết định sản xuất, tiêu dùng và đầu tư của các tác nhân kinh tế ngày càng dựa trên các
tín hiệu của thị trường.
3. Chính sách hướng nội tiếp theo
Kinh tế quốc tế
Chính sách thương mại nông nghiệp hướng nội sẽ đưa đến sự mở rộng cho các
nghành công nghiệp nhỏ với sự trợ cấp như chính sách ban đầu đã dần dần khuyến khích
nền công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Bên cạnh chính sách bảo hộ chung, với một nền công nghiệp non trẻ có thể thực

hiện sự hỗ trợ có sự lựa chọn cho nền công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu,.Yêu cầu đặt
ra ở đây là phải tránh được lệch lạc kéo theo cho người tiêu dùng,tránh sự lựa chọn sai
nghành non trẻ để hỗ trợ,can thiệp để khắc phục được những khiềm khuyết của thị
trường.
Tuy nhiên có thể trợ cấp cho các ngành công ngiệp non trẻ để tránh tác động lệch
lạc đối với người tiêu dùng nhưng lại bị hạn chế về nguồn thu
4. Chính sách hướng ngoại tiếp theo.
Các nước đang phát triển thường chuyển sang chính sách đối với ccacs nghành chế
tạo máy sao khi đã hoàn thành tới giai đoạn ban đầu của việc thay thế nhập khẩu.Khi nào
còn hỗ trợ cho thay thế nhập khẩu thì vẫn còn cản trở tới xuất khẩu do sự tăng lên của tỉ
giá hối đoái.
Các chính sách thương mại sẽ đạt được trung hòa khi quan tâm đến việc cung cấp
đầu vào cho nhà xuất khẩu,tức là dỡ bỏ các trở ngại đối với xuất khẩu.Khi đó sẽ xuất hiện
sự lựa chọn giữa sự thay thế nhập khẩu có hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu với sự quản
lý của nhà nước.
Bốn chế độ chính sách trên là một sự khái quát , tâpj trung vào những đặc điểm
quan trọng và trong thực tế chính sách thương mại quốc tế của mỗi nước có thể baoo gồm
các yểu tố của cả 4 chế độ chính sách này.
Ví dụ:Việt Nam
Vớichủ trương hội nhập KT khu vực và thế giới,VN đang dần tiến tới tự do hóa
TM,ta gia nhập nhiều tổ chức kinh tế lớn như “Khu vực mậu dịch tự do AFTA”,WTO…
Kinh tế quốc tế
gia nhập các tổ chức này VN cam kết sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan.Ví dụ thực hiện
theo lộ trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung(CEPT) của các nước ASEAN,giảm
thuế nhiều mặt hàng xuống khi tham gia vào WTO.
Ngoài ra chúng ta còn dỡ bỏ hạn nghạch đối với các mặt hàng’’không áp dụng thuế
quan đối với hàng hóa nhập khẩu thỏa mãn các điều kiện được hưởng thuế suất CEPT”
theo quy định tại thông tư số 45/2005/TT-BTC ngày ngày 6/6/2005 của Bộ Tài Chính,dỡ
bỏ hạn nghạch dệt may vào thị trường Hoa Kỳ,….
Chuyển việc cấm xuất khẩu một số mặt hàng hiện nay sang áp dụng điều chỉnh

bằng thuế xuất khẩu,tiếp tục giảm và thu hẹp dần mặt hàng chịu thuế xuất khẩu.Mở rộng
diện các nhóm hàng hóa dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất thuế GTGT 0% nhằm
góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu ,tăng độ mở của nền kinh tế,tạo diều kiện để nước ta
có thể mở rộng và phát triển thị trường ở nước ngoài.
Đối với thuế nhập khẩu nên có sự nghiên cứu để giảm thuế suất tối đa,chuyển tối đa
các quy định phi thuế quan sang thuế quan.
Tuy nhiên để bảo hộ cho nền kinh tế non trẻ trước sức ép quá mạnh của các nền
kinh tế khác nhà nước cũng đưa ra nhiều biện pháp bảo hộ cho nền kinh tế
Sử dụng những biện pháp phi thuế ,thuế,hệ thống giấy phép nội địa,các biện pháp
kỹ thuật để hạn chế hàng hóa nhập khẩu.
Nâng đỡ các nhà xuất khẩu nội địa bằng cách giảm hay miễn thuế xuất khẩu .thuế
doanh thu,thuế lợi tức,trợ cấp xuất khẩu,…để có thể thâm nhập thị trường nước ngoài dễ
dàng.
5. Chính sách thương mại quốc tế của những nước đang phát triển
Kinh tế quốc tế
Mỗi quốc gia có chủ quyền đều có chính sách TMQT riêng thể hiện ý chí và mục
tiêu của nhà nước đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động TMQT có liên
quan đến nền kinh tế của quốc gia.
Do đặc diểm của thị trường thế giới và do trình độ của các nước đang phát triển,
khả năng và điều kiện tham gia vào TMQT của mỗi nước là không giống nhau, trong khi
đó yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế và xã hội có những đặc điểm riêng, đòi hỏi phải có
sự hỗ trợ từ phía chính sách TMQT.
Môi trường kinh tế thế giới còn chịu sự chi phối và tác động của nhiều mối quan hệ
chính trị và các mục tiêu phi kinh tế khác, cho nên chính sách TMQT của mỗi quốc gia
khác nhau cũng phải đáp ứng cho nhiều mục tiêu khác nhau của quốc gia mình. Mục tiêu
của các chính sách TMQT của mỗi quốc gia có thể thay đổi qua mỗi thời kì, nhưng đều
có chức năng chung là điều chỉnh các hoạt động TMQT theo chiều hướng có lợi cho sự
phát triển của đất nước mình.
Giai đoạn trước, vào thập kỉ 60, 70, 80, khi thực hiện chính sách công nghiệp hóa
hướng về xuất khẩu, một số quốc gia đã đạt được thành công đáng kể và ngày nay họ đã

trở thành các nước công nghiệp mới NICs.Trong khi một số quốc gia khác tỏ ra thận
trọng hơn đã thực hiện chính sách thay thế nhập khẩu.
-Một số ý kiến cho rằng chính sách thay thế nhập khẩu là giai đoạn đầu cần thiết
cho một chính sách hướng mạnh về xuất khẩu bởi vì trước khi có thể xuất khẩu mạnh mẽ
ra thị trường thế giới cần phải đáp ứng được các yêu cầu của thị trường nội địa và cần
phải bảo vệ thị trường nội địa.
-Tuy nhiên cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy nội dung mà mục tiêu cũng
như phương tiện cần sử dụng của chính sách hướng mạnh về xuất khẩu có nhiều vấn đề
khác so với chính sách thay thế nhập khẩu. Điều rõ ràng là cơ cấu của hàng hóa hướng
mạnh về xuất khẩu sẽ khác xa so cơ cấu của hàng hóa thay thế nhập khẩu. Điều này đã
quyết định việc bố trí cơ cấu kinh tế, việc áp dụng khoa học và công nghệ, việc phân bổ
Kinh tế quốc tế
các nguồn lực cũng như việc sử dụng các công cụ của chính sách thương mại.Dẫn đến kết
quả khác nhau của chính sách hướng mạnh xuất khẩu với chính sách thay thế nhập khẩu.
-Thực tế cho thấy nếu thực hiện tốt chính sách hướng mạnh về xuất khẩu sẽ tạo
điều kiện để thực hiện tốt chính sách thay thế nhập khẩu, trong khi điều ngược lại ít xảy
ra.
Gần đây do thị trường thế giới ngày càng trở nên khó cạnh tranh cho nên đã xuất
hiện các ý đồ của một chính sách thương mại quốc tế mang tính chất hỗn hợp. Tuy nhiên
khả năng thành công của một chính sách hỗn hợp cần được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Tuy rằng cho đến nay vẫn còn rất nhiều các ý kiến trái chiều nhau về xu hướng
tự do hóa thương mại, song chúng ta không thể nào phủ nhận những lợi thế mang lại từ
việc hội nhập và tự do hóa thương mại. Nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính thời gian
qua, thực tế cho thấy chính sách mậu dịch tự do đã khẳng định được vai trò của mình
trong việc hồi phục nền kinh tế.
Lợi thế tự do hóa thương mại mang lại
Trong những năm gần đây, thương mại quốc tế phát triển nhanh hơn so với nền
kinh tế thế giới và xu thế này sẽ vẫn còn tiếp tục.Riêng đối với các nước đang phát triển,
thương mại là phương tiện chủ yếu để thực hiện lợi ích của toàn cầu hóa. Nhập khẩu làm
tăng thêm tính cạnh tranh và tính đa dạng của thị trường nội địa, đem lợi ích cho người

tiêu dùng, còn xuất khẩu mở rộng các thị trường nước ngoài, mang lại lợi ích kinh doanh.
Nhưng điều quan trọng hơn là thương mại đã giúp các công ty trong nước tiếp xúc với
những thực tiễn tốt nhất của các công ty nước ngoài và nắm bắt được những yêu cầu của
những khách hàng khó tính, khuyến khích tạo ra hiệu qủa cao hơn. Thương mại đã giúp
các công ty có cơ hội cải tiến các nguồn vốn đầu vào, như máy móc công cụ, cũng như
tăng năng suất lao động. Nó kích thích sự phân phối lại sức lao động và vốn cho những
khu vực có năng suất lao động tương đối cao hơn. Đặc biệt nó giúp chuyển dịch một số
hoạt động dịch vụ và chế tạo từ các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển, tạo
những cơ hội mới cho tăng trưởng.
Kinh tế quốc tế
Những luồng thương mại quốc tế thâm nhập vào hoạt động của các nền kinh tế
đang phát triển, tác động vào toàn bộ cấu trúc kinh tế nói chung và việc phân phối thu
nhập, tăng việc làm, và đặc biệt là việc tăng năng suất lao động.
Những điểm giống nhau giữa các nước đang phát triển
1. Mức sống thấp: Bởi vì các nước đang phát triển là những nước còn nghèo, nên
thật dễ hiểu khi mức sống của họ còn khá thấp so với mức sống ở các nước phát triển.
2. Sản lượng thấp: Năng suất lao động ở các nước đang phát triển thấp. Lý do là
thiếu vốn tự nhiên (yếu tố cơ bản của sản lượng biên) và chất lượng lao động thấp. Năng
suất lao động có thể được tăng lên theo hai cách. Thứ nhất là bằng việc huy động các
nguồn tiết kiệm trong nước và tài chính ngoài nước để tạo ra sự đầu tư mới cho hàng hoá
vốn tự nhiên và thứ hai là bằng việc xây dựng nguồn vốn con người thông qua đầu tư vào
giáo dục và đào tạo.
3. Tỷ lệ tăng dân số cao và Gánh Nặng Phụ Thuộc: Tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử vong ở
các nước đang phát triển cao hơn tỷ lệ cùng loại ở các nước phát triển. Điều này cũng góp
phần tạo ra Gánh Nặng Phụ Thuộc cao ở các nước đang phát triển.
4. Mức thất nghiệp và bán thất nghiệp cao và ngày càng tăng ở các nước đang phát
triển.
5. Sự phụ thuộc chủ yếu vào Sản lượng Nông nghiệp và Xuất khẩu sản phẩm cơ
bản: Hầu hết các nước đang phát triển có một khu vực nông nghiệp rất lớn và phần lớn
sản lượng xuất khẩu của họ thường là các sản phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp không chỉ

là một nghề mà còn là một phong cách sống ở các nước đang phát triển.Sự phụ thuộc vào
nông nghiệp là một kết quả từ bản chất của một nền kinh tế nông thôn ở các nước đang
phát triển.Mô hình nông nghiệp ở các nước đang phát triển cũng rất khác so với ở các
nước phát triển. Sản xuất nông nghiệp ở các nước đang phát triển chủ yếu ở quy mô nhỏ
và sử dụng nhiều lao động.
Kinh tế quốc tế
6. Sự phổ biến của các thị trường không hoàn hảo và thông tin không đầy đủ:
Thành công của một nền kinh tế thị trường phát triển phụ thuộc chủ yếu vào sự tồn tại
của các điều kiện tiên quyết về luật pháp, văn hoá và thể chế nhất định. Chẳng hạn như
bộ máy tư pháp mạnh, quyền sử hữu được xác định rõ ràng, hệ thống tiền tệ ổn định, cơ
sở hạ tầng phát triển, hệ thống giao thông và thông tin liên lạc thuận tiện, nhiều thông tin.
Trong khi ở các nước công nghiệp phát triển phần lớn những điều kiện này phần lớn đã
được đảm bảo, thì ở các nước đang phát triển nhiều cơ sở tổ chức và luật pháp còn thiếu
thốn hay yếu kém.Kết quả là không phân phối được các nguồn lực.
7. Sự thống trị, Phụ thuộc và Yếu thế trong các Quan hệ quốc tế: Trong các mối
quan hệ quốc tế, các nước đang phát triển thường phải đối phó với các quốc gia giàu và
hùng mạnh. Họ phải phụ thuộc vào các nước phát triển về cả thương mại, công nghệ,
viện trợ nước ngoài và chuyên gia. Ưu thế này của các nước công nghiệp giàu có và sự
phụ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đó thường dẫn tới việc chấp nhận
các công nghệ không còn phù hợp (lỗi thời), các cơ chế giáo dục và giá trị văn hoá ở các
nước phát triển. Tác động của lối sống giàu có từ các nước phát triển có thể dẫn tới lối
sống thượng lưu, sự tích luỹ của cải riêng, chảy máu chất xám và nhượng vốn… tất cả
những điều này làm cản trở quá trình phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển.
Những bất lợi của thương mại tự do đối với các nước đang phát triển:
- Các nước đang phát triển chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, những
nước mà tỷ giá xuất khẩu đã và đang có xu hướng giảm trong thập kỷ vừa qua. Do đó,
đối với mỗi mặt hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu ngày càng ít đi.
-Thiếu lối vào thị trường các nước phát triển: các nước phát triển dựng lên những
rào cản đối với hàng hoá từ các nước đang phát triển vào thị trường của mình (thông qua
thuế quan, hạn ngạch và hải quan) - thậm chí ngay cả các nước đang phát triển chuẩn bị

để bán với bất cứ mức giá nào mà hàng xuất khẩu của mình có thể.
-Lý thuyết cạnh tranh không đủ uyển chuyển: Thương mại làm giảm "khả năng
học hỏi bằng cách làm việc" của các nước đang phát triển. Một nước có thể có lợi thế so
Kinh tế quốc tế
sánh tiềm năng trong sản xuất một mặt hàng nào đó bằng cách học hỏi thông qua làm
việc, cho dù bất lợi thế ở thời gian hiện tại. Đây là cơ sở
Hầu hết các nước đang phát triển ban đầu là những nước xuất khẩu hàng
hoá sơ cấp và nhập khẩu các mặt hàng sản xuất và điều này tạo ra một loạt các vấn
đề:
- Tỷ giá trao đổi đã không thuận lợi cho các quốc gia xuất khẩu những hàng hoá sơ
cấp trên thị trường thế giới.
- Mức độ tập trung cao cho xuất khẩu hàng hoá, với một hoặc hai danh mục hàng
hoá sơ cấp chiếm tới hơn 50% tổng thu từ xuất khẩu.
- Mức độ tập trung cao trong xuất khẩu về mặt địa lý trong một số trường hợp,
hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu qua các nước từng là chủ thuộc địa.
- Xuất khẩu các hàng hoá sơ cấp được quyết định bằng các sự kiện thiên nhiên
(như thời tiết), ngoài tầm kiểm soát của những nước này.
- Vì vậy, có sự dao động lớn giá cả trên thị trường thế giới.
- Cũng có sự dao động lớn về thu nhập từ xuất khẩu, gây khó khăn cho các kế
hoạch trong nước.căn bản cho sự tranh cãi về hạn chế trong thương mại của ngành công
nghiệp còn non trẻ.
ASEAN và các cam kết
Sự phát triển được coi là “thần kỳ” trong thập niên 1970, 1980 của một số nền
kinh tế thành viên chủ chốt của ASEAN là kết quả của sự nỗ lực của từng quốc gia cộng
với việc triển khai mô hình tăng trưởng phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế lúc
đó, mà hầu như không có sự đóng góp gì đáng kể của ASEAN với tư cách là khối liên kết
hợp tác phát triển khu vực. Khi các nước thành viên rơi vào khủng hoảng, người ta cũng
ít nhận thấy vai trò của ASEAN trong việc đối phó tình hình, giúp các nước này thoát
khỏi khủng hoảng.
Kinh tế quốc tế

Sau khủng hoảng, các nước ASEAN đều nhận thấy để tồn tại và phát triển như một
tổ chức liên kết thì phải có những thay đổi căn bản để không “lỡ nhịp”, khi cuộc chơi
toàn cầu và khu vực trở nên rất sôi động và theo một khía cạnh khác thì đang đe dọa
chính sự tồn tại của ASEAN. Liên kết kinh tế và tự do hoá thể hiện bằng các cam kết
AFTA, AIA, AFAS, ASEAN+1; ASEAN+3, các hiệp định khu vực thương mại tự do
ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Han Quốc, ASEAN- Ấn Độ, ASEAN- Úc- NiuDiLan,
các hiệp định đa phương, song phuơng lấy khu vực ASEAN làm trụ chính là sự thể
hiện những sáng kiến và nỗ lực của ASEAN.
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu của ASEAN
Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước
trong khối ASEAN. Mục tiêu kinh tế của AFTA :
-Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan
trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho
các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh
hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ
những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong
thương mại nội khối.
-Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị
trường thống nhất, rộng lớn hơn.
-Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi,
đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.
Và gần đây, Hội nghị lần thứ 3 của Hội đồng Cộng đồng kinh tế ASEAN (tháng
4.2010) đã đưa ra 1 trong 12 lĩnh vực trọng tâm là: Theo hiệp định thương mại hàng hóa
ASEAN ( ATIGA) bao gồm lĩnh vực: thuế quan, phi thuế quan, tạo thuận lợi cho Thương
mại, thực hiện cơ chế hải quan một cửa ASEAN,…

×