Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TỔNG QUAN về THỊ TRƯỜNG dược VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.58 KB, 12 trang )

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG DƯỢC VIỆT NAM
1.Lịch sử hình thành phát triển
1.1 ngành dược thế giới
Ngành dược phẩm thời hiện đại đã phát triển được gần 100 năm từ những năm 20 của thế
kỷ trước. Nếu tính theo quy mô phát triển công nghiệp, lĩnh vực này đã có lịch sử gần 50 năm.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đa số các tập đoàn dược phẩm hàng đầu thế giới hiện nay
được thành lập. Thụy Sĩ, Đức và Ý là những nước đầu tiên phát triển mạnh ngành công nghiệp
dược phẩm, theo sau đó là các quốc gia khác như Anh, Mỹ, Bỉ và Hà Lan.
Vào những năm 1960, rất nhiều loại thuốc được phát triển từ thập niên 50 được đưa vào
sản xuất đại trà và tung ra thị trường. Trong đó, nổi tiếng nhất là các thuốc như “The Pill” (thuốc
tránh thai), Cortisone (thuốc trị huyết áp) và nhiều loại thuốc tim mạch, chống trầm cảm khác.
Từ thập niên 70, thuốc điều trị ung thư bắt đầu được sử dụng phổ biến. Nền công nghiệp
dược phẩm thế giới bắt đầu phát triển mạnh. Các quy định pháp lý về việc cho phép các thuốc
phát minh “bom tấn” được quyền bán với giá cao nhằm bù đắp các chi phí đầu tư nghiên cứu
trước đó bắt đầu có hiệu lực tại nhiều quốc gia
Vào giữa thập niên 80, hợp nhất sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ với các doanh nghiệp
lớn hơn trở thành xu thế và rất nhiều thương vụ M&A đã được thực hiện. Sau giai đọan này, nền
công nghiệp sản xuất dược phẩm được thu gom về dưới sự kiểm soát của một số tập đoàn dược
phẩm không lồ thống trị thị trường tiêu thụ trên toàn thế giới.
Bắt đầu từ những năm 90, môi trường kinh doanh của ngành dược phẩm có sự thay đổi
đáng kể với tiêu điểm là hoạt động mua bán sáp nhập trên quy mô toàn cầu và chiến lược đầu tư
mạnh mẽ cho hoạt động nghiên cứu phát triển các hoạt chất mới và thử nghiệm lâm sàng.
Năm 1997, hoạt động quảng cáo trực tiếp đến người tiêu dùng thông qua kênh radio và
TV gia tăng nhanh chóng. Cũng trong giai đoạn này, mạng lưới Internet giúp người tiêu dùng có
thể mua thuốc trực tiếp từ các hãng dược, các hãng dược có thể mua nguyên liệu trực tiếp từ nhà
sản xuất… và làm thay đổi về căn bản môi trường kinh doanh.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng các sản phẩm bổ sung dinh dưỡng và các thuốc thay thế
(dùng để điều trị cùng 1 loại bệnh) đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nhà sản xuất đến sau và
làm gia tăng mức độ cạnh tranh trong ngành. Đồng thời, trong thời gian gần đây, nhiều tranh cãi
đã xuất hiện xoay quanh các tác dụng phụ của thuốc và các chiến lược marketing không minh
bạch của các hãng dược phẩm.


1.2 Ngành dược Việt Nam
Thời Bắc thuộc, do đặc điểm địa lý và quan hệ chính trị, nền y dược Việt Nam có sự
giao thoa và chịu nhiều ảnh hưởng từ nền y dược Trung Quốc. Qua trao đổi học hỏi những vị
thuốc, kinh nghiệm chữa bệnh kết hợp với các loại thảo dược bản địa đặc thù đã tạo nền móng
đầu tiên cho mảng Đông dược nói riêng và ngành dược Việt Nam nói chung.
Năm 938, thời kì Bắc thuộc kết thúc, ngành y dược Việt Nam tiếp tục phát triển. Từ thời
Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Tây Sơn và triều Nguyễn, nền y dược dân độc đã được chú trọng đáng kể.
Từ năm 1858, trong thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã đưa Tây y vào nước ta, năm
1902 mở trường đào tạo Dược sĩ Hà Nội, tổ chức một số bệnh viện, bệnh xá ở các tỉnh, thành
phố, phủ, huyện. Dưới sức ép của Pháp, nhiều dược sĩ không được phép mở cửa hiệu, viện
nghiên cứu khai thác dược liệu trong nước cũng bị chèn ép, mảng Đông dược bị kìm hãm phát
triển.
Giai đoạn 1946 – 1954 kháng chiến chống Pháp ngành dược vừa thiếu dược sĩ, công
nhân, trang thiết bị, vật tư, vừa thiếu kinh nghiệm và tổ chức quản lí. Ngành chủ yếu phát triển
theo hướng tự lực cánh sinh, tận dụng mọi nguyên liệu sẵn có từ cây thuốc trong nước. Thời kì
này, Việt Nam đã sản xuất được thuốc chiến thương, Filatov, ống tiêm, kìm kẹp máu, dao mổ,
kim khâu Cũng ở trong giai đoạn này, tại Thanh Hóa, chính quyền đã mở các lớp trung cấp
dược, ở chiến khu Việt Bắc có viện đại học dược và mở nhiều lớp dược tá ở các liên khu.
Giai đoạn 1954 – 1975, miền Bắc tiến hành cải tạo ngành dược tự doanh, xây dựng phát
triển ngành dược quốc doanh. Năm 1965, nhu cầu sử dụng thuốc tăng nhanh, nên hầu hết các xã
đều có phong trào trồng và sử dụng cây thuốc nam, hình thành một mạng lưới sản xuất dược
hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương để có thể sản xuất thuốc men theo từng vùng theo
hướng tự cung tự cấp.
Giai đoạn sau 1975, ngành dược phát triển qua 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1 (1975 – 1990): Ngành dược Việt Nam giai đoạn này chủ yếu bao gồm các
doanh nghiệp nhà nước, sức sản xuất không đáng kể. Mức tiêu thụ bình quân thuốc trên đầu
người thời kỳ này đạt vào khoảng 0,5 - 1USD/năm. Do thuốc trong thời kỳ này khan hiếm nên
tiêu chuẩn chất lượng thuốc trong sử dụng chưa được chú trọng.
Giai đoạn 2 (1990 – 2005): Các nhà thuốc và các công ty sản xuất thuốc phát triển rất
nhanh, sản phẩm dược đa dạng, phong phú hơn. Đặc biệt sau khi có Nghị quyết Trung ương IV

và Quyết định 58 của Thủ tướng chính phủ về công nghiệp dược đã có những bước phát triển
đáng kể, đảm bảo phần lớn nhu cầu về thuốc chữa bệnh, khắc phục được tình trạng thiếu thuốc
của nhiều năm trước đây. Giai đoạn này cũng chứng kiến quá trình cổ phần hóa nhiều doanh
nghiệp dược quốc doanh theo chủ trương cổ phần hóa của nhà nước.
Giai đoạn 3 (từ năm 2005 đến nay): Các công ty dược đẩy mạnh quá trình nâng cấp tiêu
chuẩn sản xuất lên GMP-ASEAN →GMP-WHO→PIC/S→EU-GMP… nhằm thích ứng với yêu
cầu về chất lượng ngày càng gia tăng và phù hợp với quá trình toàn cầu hóa của ngành dược Việt
Nam trong quá trình hội nhập với thế giới.
1.2 Tình hình ngành dược trong nước
Theo IMS Health, Việt Nam thuộc 17 nước có ngành công nghiệp dược đang phát triển. Phân
loại này dựa trên tiêu chí chủ yếu là tổng giá trị thuốc tiêu thụ hàng năm, ngoài ra còn có các tiêu
chí khác như mức độ năng động, tiềm năng phát triển thị trường và khả năng thay đổi để thích
nghi với các biến đổi chính sách về quản lý ngành dược tại các quốc gia này.
Thị trường giàu tiềm năng: Thị trường dược phẩm Việt Nam có mức tăng trưởng cao nhất Đông
Nam Á, khoảng 16% hàng năm. Năm 2013 tổng giá trị tiêu thụ thuốc là 3,3 tỷ USD, dự báo sẽ
tăng lên khoảng 10 tỷ USD vào năm 2020 (BĐ1).
Cơ cấu thị trường thuốc chủ yếu là thuốc generic chiếm 51,2% trong năm 2012 và biệt dược là
22,3%. Kênh phân phối chính là hệ thống các bệnh viện dưới hình thức thuốc được kê đơn (ETC)
chiếm trên 70%, còn lại được bán lẻ ở hệ thống các quầy thuốc (OTC) (BĐ2). Tiêu thụ các loại
thuốc tại Việt Nam hiện nay cũng đang trong xu hướng chung của các nước đang phát triển, đó là
điều trị các bệnh liên quan đến chuyển hóa và dinh dưỡng chiếm tỷ trọng nhiều nhất (20%)
(BĐ3).
Mức chi tiêu cho sử dụng thuốc của người dân Việt Nam còn thấp, năm 2012 là 36
USD/người/năm (so với Thái Lan: 64 USD, Malaysia: 54 USD, Singapore:138 USD), cùng với
mối quan tâm đến sức khỏe ngày càng nhiều của 90 triệu dân sẽ là những yếu tố thúc đẩy phát
triển ngành dược Việt Nam.
BĐ1: Tăng trưởng tổng giá trị tiêu thụ thuốc và chi tiêu bình quân đầu người cho dược phẩm
Nguồn: Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT (FPTS).
BĐ2: Cơ cấu thị trường thuốc ở Việt Nam
Nguồn: Công ty Cổ phần Chứng khoán Thiên Việt, BMI Pharmaceuticals & Healthcare Report.

BĐ3: Cơ cấu doanh thu thuốc theo bệnh ở Việt Nam, 2013
Nguồn: Hang T. Nguyen, Ngành dược phẩm Việt Nam, 2014; Cục Quản lý Dược.


Thuốc và nguyên liệu sản xuất thuốc chủ yếu là nhập khẩu
Công nghiệp dược Việt Nam chỉ mới đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu sử dụng thuốc tân dược
của người dân và 50% còn lại phải nhập khẩu, chưa kể nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và các
hoạt chất để sản xuất thuốc. Tổng giá trị nhập khẩu thuốc năm 2013 trên 1,8 tỷ USD, trong khi
năm 2008 con số này chỉ mới 864 triệu USD, tăng hàng năm trong giai đoạn 2008-2013 là 18%
(BĐ4).
Năm 2013, thuốc nhập vào Việt Nam chủ yếu từ các thị trường Pháp, Ấn Độ và Hàn Quốc….
(BĐ5), còn nguyên liệu để sản xuất thuốc đa số nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ, lần lượt là
52% và 16% tổng giá trị nhập khẩu (Bảng 1). Về nguyên liệu đông dược, 90% nhập từ Trung
Quốc, còn lại là thảo dược trồng ở Việt Nam, phổ biến như atisô, đinh lăng, cam thảo, cao ích
mẫu, diệp hạ châu,…
BĐ4: Tình hình nhập khẩu thuốc của Việt Nam
Nguồn: 2014: Italian Trade Agency, Brief sector note on pharmaceutical industry in Vietnam;
ICE processing of General Statistics Office data.
BĐ5: Thị trường nhập khẩu thuốc của Việt Nam, năm 2013
Nguồn: 2014: Italian Trade Agency, Brief sector note on pharmaceutical industry in Vietnam;
ICE processing of General Statistics Office data.
Bảng 1: Nhập khẩu nguyên phụ liệu sản xuất thuốc của Việt Nam
Nguồn: VINANET, NG.Hương,Tổng quan ngành dược phẩm Việt Nam năm 2013.

Doanh nghiệp sản xuất dược phẩm ở Việt Nam
Các doanh nghiệp (DN) dược phẩm Việt Nam mới phát triển sau năm 1990, có tuổi đời khá trẻ
so với thế giới. Hiện có 178 DN sản xuất thuốc, trong đó có 98 DN sản xuất tân dược, 80 DN sản
xuất đông dược và 30 cơ sở sản xuất thuốc y học cổ truyền. Hệ thống phân phối thuốc rộng khắp
cả nước với trên 2.200 đơn vị và 43.000 cơ sở bán lẻ. Dù vậy, Việt Nam vẫn chưa có một nền
công nghiệp dược hiện đại, chưa đáp ứng đủ nhu cầu thị trường và chưa có công nghiệp sản xuất

nguyên liệu dược. Các DN dược Việt Nam đa số sản xuất thành phẩm từ nguyên liệu nhập, hiện
mới có một nhà máy sản xuất nguyên liệu kháng sinh tổng hợp của Mekophar, sản lượng thiết kế
khoảng 200 tấn amoxicillin và 100 tấn ampicillin mỗi năm, chỉ đủ cho nhu cầu của bản thân DN.
Trong đó DN dược trong nước có mặt trên sàn chứng khoán, năm 2013, 3 DN dẫn đầu doanh thu
thuần là DHG, TRA và DMC. Giai đoạn 2009 - 2013, DN có tăng trưởng doanh thu cao là TRA,
PPP và DHG với mức lần lượt là 22,5%, 19,3% và 19,2%. Tăng trưởng lợi nhuận đáng kể trong
giai đoạn này là TRA đạt 35,3% và PMC là 23,9%. Tuy nhiên SPM lại có mức tăng trưởng lợi
nhuận âm -27,2% khá lớn (Bảng 2).
Bảng 2: Doanh thu một số doanh nghiệp dược
Nguồn: Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT (FPTS).
Chi phí bán hàng của các DN dược bình quân chiếm khoảng 17% doanh thu thuần năm. IMP,
DHG và OPC là những DN quy mô tương đối lớn, có mạng lưới bán hàng phủ rộng toàn lãnh thổ
Việt Nam và có chi phí bán hàng lớn (hơn 20%) (BĐ6).
Do hầu hết đều sản xuất các dòng thuốc phổ biến có giá rẻ nên DN nội địa cạnh tranh quyết liệt
trong phân khúc thị trường hạn hẹp, trong khi biệt dược có giá trị cao đều do DN nước ngoài
chiếm lĩnh.
Các DN dược trong nước đang có xu hướng nâng cấp nhà máy sản xuất đạt các tiêu chuẩn quốc
tế như PIC/S-GMP, EU-GMP để sản xuất thuốc generic chất lượng cao nhằm tăng khả năng thâm
nhập kênh phân phối ETC và xuất khẩu; đồng thời gia công và sản xuất thuốc nhượng quyền là
con đường ngắn và hiệu quả để theo kịp trình độ của ngành dược thế giới và tăng năng lực cạnh
tranh.
BĐ6: % chi phí quản lý doanh nghiệp/doanh thu thuần
Nguồn: FPTS.
Ghi chú:
DHG - Công ty cổ phần Dược Hậu
Giang.
IMP - Công ty cổ phần Dược phẩm
IMEXPHARM.
DMC - Công ty cổ phần Xuất nhập
khẩu Y tế Domesco.

TRA - Công ty cổ phần Traphaco.
DCL - Công ty cổ phần Dược phẩm
Cửu Long.
OPC - Công ty cổ phần Dược phẩm
OPC.
PMC - Công ty cổ phần Dược phẩm
Dược liệu Pharmedic.

SPM - Công ty cổ phần SPM.
DBT - Công ty cổ phần Dược phẩm
Bến Tre.
DHT - Công ty cổ phần Dược phẩm Hà
Tây.
LDP - Công ty Cổ phần Dược Lâm
Đồng.
VMD - Công ty cổ phần Y Dược phẩm
Vimedimex.
PPP - Công ty cổ phần Dược phẩm
Phong Phú.
BĐ7: % chi phí bán hàng/doanh thu thuần
Nguồn: FPTS.

• Đặc điểm
Ngành Công nghiệp dược phẩm tại Việt Nam chủ yếu phục vụ thị trường nội địa. Dược phẩm
được đưa đến tay người tiêu dùng thông qua rất nhiều kênh, từ các bệnh viện cho đến các phòng
khám, trạm y tế hay các quầy bán lẻ thuốc trong khu vực.
Trong đó doanh thu thuốc từ các bệnh viện chiếm khoảng 70%. Nguồn doanh thu này đến từ việc
sử dụng thuốc điều trị trực tiếp tại bệnh viện và qua các đơn thuốc mà các bác sĩ, dược sĩ kê khai.
Việc người dân có thói quen đi khám bác sĩ tăng lên tạo điều kiện cho sự tăng trưởng doanh thu
ngành.

Tính riêng trên các loại sản phẩm thuốc nội địa, con số này chưa đến 50% và hiện nay tỉ lệ sử
dụng thuốc nội tại các bệnh viện trên cả nước là không giống nhau. Các bệnh viện tuyến trung
ương chỉ sử dụng 12% thuốc nội địa, các bệnh viện tỉnh sử dụng 34% còn các trạm y tế huyện sử
dụng đến hơn 60% thuốc nội.
Còn tại các quầy thuốc bán lẻ tại Việt Nam, số lượng thuốc bán ra khá cao chiếm 50-60%. Tuy
nhiên phần lớn các loại thuốc bán ở các quầy bán lẻ đều là thuốc thông thường hay thuốc bổ nên
giá cả thấp hơn so với các loại thuốc đặc trị được bán tại các bệnh viện. Vì vậy thu nhập ngành
tại các quầy thuốc chỉ chiếm 26,5% thị phần.
Ngành xuất khẩu dược phẩm tại Việt Nam vẫn còn chưa đủ mạnh, cán cân thương mại của ngành
dược vẫn luôn âm trong nhiều năm vừa qua. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước vẫn đang tạo mọi điều
kiện để các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
• Thành tựu và tiềm năng của ngành dược
Theo thống kê của Viện Dược liệu (Bộ Y tế), trong những năm gần đây, tổng giá trị tiền thuốc
tiêu thụ trong nước tăng dần theo năm.
Ngành dược liệu Việt Nam vẫn có thêm rất nhiều cơ hội, tiềm năng:
• dân số Việt Nam hơn 90 triệu người vào năm 2014 và có thể đạt 99 triệu vào năm 2018.
• Nền kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ cao.
• Chi phí cho y tế còn thấp, tỷ lệ này sẽ tăng nhanh trong các năm tới, đặc biệt là chi phí
cho thuốc men cũng sẽ tăng nhanh và được dự đoán là sẽ tăng gấp đôi trong mỗi 5 năm.
• Bên cạnh đó, ngành sản xuất dược phẩm đang thu hút được sự đầu tư của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Đây là một thuận lợi cho việc huy động vốn để đầu tư, mở rộng sản
xuất, nghiên cứu phát triển.
Nhiều thách thức
Bên cạnh những cơ hội và tiềm năng, ngành công nghiệp dược phẩm trong nước cũng đang đứng
trước những thách thức không nhỏ.
 Thứ nhất, ngành sản xuất dược phẩm Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều vào nguồn
nguyên liệu nhập ngoại cho sản xuất. Theo khảo sát, hiện nay, trên 90% nguyên liệu hóa
dược phải nhập khẩu, trong khi tỷ giá thường xuyên thay đổi, điều này ảnh hưởng không
nhỏ đến các chi phí sản xuất thuốc. Chỉ có khoảng 5-6% nguyên liệu làm thuốc (bao gồm
cả dược chất và tá dược) ta tự sản xuất được, và chủ yếu là các mặt hàng đơn giản và

phần lớn là tá dược như các hợp chất vô cơ; một số hóa dược có nguồn gốc dược liệu.
 Thứ hai, trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất thuốc còn thấp và chưa được đầu tư đúng
hướng. Các công ty trong nước chưa chú trọng việc nghiên cứu và phát triển các sản
phẩm về chiều sâu mà hiện tại chỉ mới tập trung ở nhóm những sản phẩm tương tự nhau,
dẫn đến sản xuất trùng lặp, nhái mẫu mã gần như phổ biến, chất lượng chưa cao, làm mất
uy tín doanh nghiệp và ảnh hưởng đến thị phần của thuốc nội. Điều này còn dẫn đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh thấp và mất khả năng cạnh tranh.
 Ngoài ra, ngành công nghiệp dược phẩm trong nước còn gặp phải những khó khăn như
kinh phí cho các đề tài nghiên cứu dược còn thấp và hạn hẹp; trang thiết bị của từng
nhóm nghiên cứu thiếu và không đồng bộ, không đạt chuẩn cho những nghiên cứu sâu
chuyên ngành, đặc biệt là những trang thiết bị đặc thù; chưa có sự phối hợp, hợp tác
nghiên cứu để giải quyết những bài toán khó trong nghiên cứu khoa học; đội ngũ chuyên
gia hóa dược còn thiếu, đặc biệt là chuyên gia nghiên cứu về công nghệ. Việt Nam còn
thiếu công nghiệp hóa chất cơ bản phục vụ cho tổng hợp hóa dược. Công tác nghiên cứu
và phát triển thị trường chưa được coi trọng, cùng với đó là sự cạnh tranh rất lớn của các
công ty dược phẩm nước ngoài vào Việt Nam.
II Vị thế ngành dược trong nền kinh tế
Với sự nhận thức về chăm sóc sức khỏe và nhu cầu về y tế ngày càng tang của người dân Việt
Nam, doanh thu ngành thuốc không ngừng tăng. Tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình giai
đoạn 2009-2013 đạt 18.8%/năm.
Sự tăng trưởng này ngược chiều so với các ngành kinh tế khác trong giai đoạn khủng hoảng kinh
tế 2008-2013 vừa qua, do mặt hàng dược phẩm là mặt hàng thiết yếu và không thể thay thế.
BMI đã dự báo lượng tiêu thụ thuốc sẽ tăng lên 117,802.35 tỷ VND vào năm 2017, tương ứng
với tốc độ tăng trưởng trung bình là 15.5%. Hơn nữa, tỉ lệ đóng góp của ngành cho GDP của cả
nước cũng tăng qua các năm và được dự đoán tiếp tục giữ xu hướng này trong vòng 5 năm tới.
BĐ7: Cơ cấu các ngành công nghiệp Việt Nam
BĐ 8: đóng góp vào GDP của ngành dược
Thực trạng ngành dược Việt Nam Vị thế ngành dược trong nền kinh tế Việt Nam Theo đánh giá
của tổ chức y tế thế giới (WHO), công nghiệp dược Việt Nam ở mức đang phát triển. Việt Nam
đã có công nghiệp dược nội địa, nhưng đa số phải nhập khẩu nguyên vật liệu, do đó nhìn nhận

một cách khách quan có thể nói rằng công nghiệp dược Việt Nam vẫn ở mức phát triển trung
bình - thấp. Giống như các nước lân cận, ngành công nghiệp dược của Việt Nam phải chịu chuẩn
nghèo. Bảo hiểm y tế không đủ và không đều cho người dân nên bệnh nhân phải trả nhiều hơn
cho số thuốc mà họ cần. Điều này đã cản trở việc tăng trưởng mạnh của thị trường. Chính vì vậy
cho đến năm 2009, chi tiêu cho y tế của Việt Nam chỉ chiếm 1.6% GDP.
BĐ 9: Tốc độ tăng GDP và tăng doanh thu ngành dược
GDP Ngành dược Ngành dược Việt Nam mới phát triển ở mức trung bình – thấp. Chi tiêu cho y
tế mới chiếm 1,6% GDP (2009) Báo cáo Ngành Dược - 2010
Trong những năm qua, số dược phẩm ngày càng tăng, chứng tỏ ngành đã gia tăng đầu tư mạnh.
Đa số doanh nghiệp dược đã tích lũy được nguồn vốn khá lớn từ việc gia tăng sản lượng tiêu thụ
và một phần đến từ phát hành cổ phiếu huy động vốn, nhờ vậy mà các doanh nghiệp trong nước
có đủ khả năng để tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực sản xuất

×