Hà Nội, Tháng 12 - 2009
2
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
UNFPA, Quỹ Dân số Liên hợp quốc, là một tổ chức phát triển quốc tế đang hoạt động nhằm thúc
đẩy quyền cho mỗi phụ nữ, nam giới và trẻ em đều có được một cuộc sống dồi dào sức khoẻ và
có cơ hội bình đẳng. UNFPA đang hỗ trợ các nước trong việc sử dụng số liệu dân số để xây dựng
chính sách và chương trình nhằm xóa đói giảm nghèo và đảm bảo rằng mọi phụ nữ đều có thai
theo ý muốn, trẻ em được sinh ra an toàn, thanh thiếu niên đều không mắc phải HIV/AIDS, trẻ
em gái cũng như phụ nữ đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng.
Các quan điểm được trình bày trong báo cáo này là của nghiên cứu viên và không nhất thiết
phản ánh quan điểm và chính sách của UNFPA, của các Tổ chức Liên Hợp Quốc và của các tổ
chức thành viên khác.
3
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin cảm ơn những người đã cung cấp thông tin và chia sẻ kinh nghiệm chuyên
môn trong quá trình chuẩn bị báo cáo này. Chúng tôi đặc biệt xin cảm ơn Ts. Nguyễn Bá Thủy -
Thứ trưởng Bộ Y tế, Ông Nguyễn Văn Tân - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số và Kế hoạch
hóa gia đình, Ông Trần Văn Chiến - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia
đình, Ông Đinh Công Thoan và các đồng nghiệp khác công tác tại Tổng cục DS-KHHGĐ, Ông
Đào Văn Dũng - Ban Tuyên Giáo TW; Ông Nguyễn Văn Tiên - Ủy ban Các vấn đề xã hội, Quốc
hội; Ông Nguyễn Văn Phái – nguyên cán bộ Tổng Cục Thống Kê, Bà Nguyễn Thanh Hương -
Trường Đại học Y tế công cộng Hà Nội, Ông Trần Tiến Đức – nguyên Trưởng Đại diện của Future
Group International tại Việt Nam, TS. Đặng Nguyên Anh và các đồng nghiệp tại Viện Khoa học
xã hội, Jane Hughes và Vũ Quý Nhân - Tổ chức Hội đồng Dân số. Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới
Ông Ian Howie, nguyên Trưởng Đại diện UNFPA tại Việt Nam và ông Bruce Campbell - Trưởng
Đại diện UNFPA tại Việt Nam, Bà Urmila Singh, Phó Đại diện UNFPA tại Việt Nam, bà Trần Thị
Vân, Trợ lý Trưởng Đại diện và ông Bùi Đại Thụ cùng các đồng nghiệp khác tại UNFPA. Chúng tôi
cũng xin cảm ơn Peter McDonald và Terry Hull tại Đại học quốc gia Ôxtrâylia.
Mặc dù báo cáo này được thực hiện theo yêu cầu của UNFPA, song những quan điểm trình bày
trong báo cáo, nếu không có ghi chú đặc biệt, là quan điểm của nhóm tác giả và không nhất
thiết có sự nhất trí của UNFPA hay bất kỳ tổ chức nào có liên quan.
Adrian C. Hayes
Nguyễn Đình Cử
Vũ Mạnh Lợi
4
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Lời nói đầu
Dân số và Sức khỏe sinh sản luôn là những vấn đề chính sách được ưu tiên của Việt Nam trong
những thập kỷ qua. Chiến lược Dân số Việt Nam và Chiến lược quốc gia về Sức khỏe sinh sản đã
được xây dựng trong giai đoạn 2001-2010 và là bộ phận không thể tách rời của Chiến lược Phát
triển Kinh tế-Xã hội của đất nước trong cùng thời kỳ. Ủy ban quốc gia về Dân số, Gia đình và Trẻ
em được Chính phủ giao nhiệm vụ là cơ quan chủ trì thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam. Bộ
Y tế được giao chủ trì thực hiện Chiến lược quốc gia về Sức khỏe sinh sản.
Tháng 4 năm 2009, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tại Kết luận số 44-KL/TW cụ thể là: “Ban cán sự đảng
Chính phủ chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Chiến lược Dân số, Chiến lược Sức khỏe sinh sản giai
đoạn 2001-2010, xây dựng Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 làm cơ
sở cho việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội…”. Chấp hành ý kiến chỉ đạo này,
tháng 5 năm 2009, Bộ Y tế đã giao Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (trước đây là Ủy
ban quốc gia về Dân số, Gia đình và Trẻ em) làm đầu mối phối hợp với các vụ, cục và đơn vị
khác của Bộ và các cơ quan, tổ chức ngoài Bộ tiến hành đánh giá việc thực hiện hai chiến lược
nêu trên và xây dựng Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản cho giai đoạn 2011-2020.
Việc đánh giá hai chiến lược hiện đang được hai nhóm chuyên gia độc lập tiến hành nhằm xem
xét mức độ thành công của quá trình thực hiện, cũng như mức độ đạt được các mục tiêu mà chiến
lược đề ra, đồng thời rút ra các bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng Chiến lược mới.
Song song với việc đánh giá, Bộ Y tế cũng đang xây dựng Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh
sản giai đoạn 2011-2020 để trình Chính phủ phê duyệt vào tháng 3 năm 2010. Quỹ Dân số
Liên Hợp quốc (UNFPA) và các tổ chức Liên Hợp quốc khác rất hân hạnh được cộng tác chặt
chẽ và có những hỗ trợ kỹ thuật cho Bộ Y tế trong quá trình xây dựng Chiến lược này.
Báo cáo mang tên “Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011–
2020” được thực hiện với mục đích xem xét và phân tích toàn diện những vấn đề quan trọng về
dân số và phát triển cần đặt ra cho Việt Nam trong những năm tới. Trên cơ sở đó, báo cáo đề
xuất một số khuyến nghị đối với Bộ Y tế trong quá trình xây dựng chiến lược mới.
“Sáng kiến Một Liên hợp quốc” tại Việt Nam được khởi động từ đầu năm 2006 và là kết quả
của những thảo luận trong nước nhằm tăng cường tính gắn kết, tính hiệu quả và hiệu suất của
Liên hợp quốc tại Việt Nam. Các cơ quan Liên hợp quốc và một số nhà tài trợ hiện đang hợp
tác thực hiện một nghiên cứu với tên gọi “Phân tích chung quốc gia”. Một trong những mục tiêu
chính của phân tích này là để tìm hiểu sâu hơn các thách thức ảnh hưởng tới sự phát triển,
trên cơ sở những hiểu biết chung về tình hình phát triển của Việt Nam theo cách tiếp cận dựa
trên quyền. Kết quả của phân tích này sẽ là cơ sở xây dựng khuôn khổ hợp tác giữa Liên hợp
quốc và Chính phủ Việt Nam trong những năm tới. Hơn thế nữa, phân tích sẽ giúp cung cấp
các dữ liệu cập nhật và xác thực phục vụ quá trình xây dựng Chiến lược và Kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội 2011-2015.
UNFPA xin chân thành cảm ơn Ts. Adrian C. Hayes (Đại học quốc gia Ôxtrâylia) và hai thành viên
khác của nhóm tác giả là Ts. Nguyễn Đình Cử (Đại học Kinh tế quốc dân) và Ts. Vũ Mạnh Lợi
(Viện Xã hội học Việt Nam) đã hoàn thành báo cáo này. UNFPA cảm ơn sự hợp tác của các đồng
nghiệp công tác tại Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy
ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Tổng cục Thống kê, Đại học Y tế công cộng, Viện Xã hội
học và các đồng nghiệp khác thuộc các tổ chức quốc tế và trong nước.
5
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
UNFPA xin hân hạnh giới thiệu báo cáo này với các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý,
cán bộ nghiên cứu, các nhà chuyên môn trong nước và quốc tế quan tâm đến Dân số và Sức
khỏe sinh sản tại Việt Nam. Chúng tôi hy vọng báo cáo này sẽ cung cấp những bằng chứng hữu
ích và là cơ sở cho quá trình xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội nhằm đảm bảo khả
năng tiếp cận các gói dịch vụ cơ bản về dân số và sức khỏe sinh sản của người dân.
Bruce Campbell
Trưởng Đại diện
Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam
6
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Các chữ viết tắt
CBR Tỷ suất sinh thô
CDR Tỷ suất chết thô
CMWRA Phụ nữ kết hôn đang ở độ tuổi sinh đẻ
CPR Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai
DHS Điều tra nhân khẩu học và y tế
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GOPFP Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (thuộc Bộ Y tế)
GSO Tổng cục Thống kê (thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư)
HDI Chỉ số phát triển con người
HVP Dự báo dân số của Liên hợp quốc với ước tính ở mức sinh cao
ICDS Điều tra nhân khẩu giữa hai cuộc tổng điều tra dân số
ICPD Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (xem UN 1994)
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
IMR Tỷ suất chết sơ sinh
LVP Dự báo dân số của Liên hợp quốc với ước tính ở mức sinh thấp
MDG Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
MICS Điều tra đa biến
MOH Bộ Y tế
MMR Tỷ suất chết mẹ
MOLISA Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
MVR Dự báo dân số của Liên hợp quốc với ước tính ở mức sinh trung bình
NCPFC Ủy ban quốc gia về Dân số, Gia đình và Trẻ em
NCPFP Ủy ban quốc gia về Dân số và Kế hoạch hóa gia đình
NIN Viện Dinh dưỡng quốc gia
PAIS Điều tra chỉ số Dân số và AIDS
PCFPS Điều tra biến động dân số và KHHGĐ
7
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
P/F Parity-fertility ratio (sử dụng trong một số thuật toán ước tính gián tiếp về
mức sinh)
PHC Tổng điều tra dân số và nhà ở
PPP Ngang giá sức mua
SRB Tỷ số giới tính khi sinh
TAR Tổng tỷ lệ nạo phá thai
TFR Tổng tỷ suất sinh
UN Liên hợp quốc
UNDP Quỹ Phát triển Liên hợp quốc
UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc
UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
U5MR Tỷ suất chết ở trẻ em dưới 5 tuổi
VHLSS Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam
VMS Nghiên cứu Di dân Việt Nam (2004)
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
WRA Phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi)
ZPG Tăng trưởng dân số bằng không
8
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Mục lục
Lời cảm ơn 3
Lời nói đầu 4
Các chữ viết tắt 6
Danh mục bảng 10
Danh mục biểu đồ 11
1. Giới thiệu 12
1.1 Mục tiêu 12
1.2 Chính sách dân số 12
1.3 Nguồn dữ liệu và phương pháp luận 13
1.4 Cấu trúc báo cáo 14
Phần I Những xu hướng biến động dân số hiện nay và tác động tới sự phát triển 15
2. Quy mô và tăng trưởng dân số 16
2.1 Các chỉ số cơ bản và chuyển đổi nhân khẩu học 16
2.2 Tăng trưởng dân số, Cơ cấu tuổi và Đà tăng dân số 17
2.3 Quy mô và mật độ dân số 19
2.4 Biến động dân số: 2001-2010 đến 2011-2020 20
3. Giảm tử vong và biến động về dịch tễ học 22
3.1 Tử vong giảm trong toàn quốc 22
3.2 Những khác biệt giữa các khu vực 24
3.3 Những thay đổi về bệnh tật và nguyên nhân tử vong 25
3.4 Dinh dưỡng 26
3.5 Tử vong ở bà mẹ 26
3.6 HIV/AIDS 26
3.7 Nhìn về phía trước 28
4. Giảm mức sinh và chuyển đổi nhân khẩu học 29
4.1 Giảm mức sinh trong toàn quốc và khác biệt giữa các vùng 29
4.2 Các nguyên nhân kinh tế-xã hội của giảm mức sinh 31
4.3 Các yếu tố ảnh hưởng 32
4.4 Sử dụng các biện pháp tránh thai 34
4.5 Nạo phá thai 36
4.6 Tỷ số giới tính khi sinh 38
4.7 Những xu hướng hiện nay của tỷ suất tăng dân số tự nhiên 38
5. Di cư và đô thị hóa 41
5.1 Những dòng di cư chủ yếu ở Việt Nam 41
5.2 Đô thị hóa nhanh chóng 42
9
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
5.3 Những hệ quả của đô thị hóa nhanh chóng 43
5.4 Tăng trưởng dân số và di cư trong tương lai 44
6. Biến động về cơ cấu dân số 46
6.1 Biến động về cơ cấu tuổi và giới tính 46
6.2 Giáo dục và việc làm 47
6.3 Nghèo đói 48
6.4 Dân tộc thiểu số 48
6.5 Phát triển con người và chất lượng dân số 50
7. Phát triển kinh tế - xã hội và “Cơ cấu dân số vàng” 51
7.1 Cơ cấu dân số vàng 51
7.2 Hiện thực hóa cơ cấu dân số vàng 52
7.3 Ý nghĩa đối với sự phát triển bền vững và môi trường 52
PHẦN II Đánh giá sơ bộ Chiến lược Dân số 2001-2010 55
8. Tóm tắt nội dung Chiến lược và Pháp lệnh 56
8.1 Chiến lược Dân số 2001-2010: Mục tiêu và Giải pháp 56
8.2 Các hoạt động can thiệp cho mỗi giải pháp 54
8.3 Pháp lệnh Dân số năm 2003 59
9. Tiến độ thực hiện các mục tiêu 61
9.1 Tiến độ thực hiện các mục tiêu chính 61
9.2 Tiến độ thực hiện theo các chỉ số chủ yếu 62
9.3 Bài học kinh nghiệm 66
PHẦN III Hướng tới một chiến lược mới 2011-2020 69
10. Các vấn đề cần giải quyết trong xây dựng chính sách 70
10.1 Các nguyên tắc cơ bản và ICPD 70
10.2 Xác định vấn đề 70
10.3 Xây dựng chính sách 71
10.4 Làm thế nào để duy trì mức sinh thay thế? 71
10.5 Làm thế nào để thích ứng với sự tiếp tục gia tăng dân số? 73
10.6 Làm thế nào để tận dụng cơ cấu dân số vàng? 74
10.7 Làm thế nào để kiểm soát quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng? 75
10.8 Làm thế nào để cải thiện sức khỏe sinh sản? 75
10.9 Làm thế nào để giải quyết mất cân bằng về giới tính khi sinh? 76
10.10 Làm thế nào để đối phó với vấn đề già hóa 77
Tài liệu tham khảo 79
Phụ lục 85
10
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Danh mục bảng
Bảng 1. Các chỉ số dân số chủ yếu giai đoạn 2000-2020, theo dự báo
của Liên hợp quốc 21
Bảng 2. Ước tính IMR và U5MR từ nhiều nguồn, Việt Nam, 1982-2006 23
Bảng 3. Tỷ lệ suy dinh dưỡng độ I ở trẻ em dưới 5 tuổi, theo nhóm tuổi và
các đặc điểm cơ bản, Việt Nam, 2006 27
Bảng 4. Ước tính tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi và tổng tỷ suất sinh (TFR),
từ nhiều nguồn, Việt Nam, 1987-2005 30
Bảng 5. TFR theo đặc điểm cơ bản, dữ liệu Điều tra DHS 2002 32
Bảng 6. Phân bổ tỷ lệ phần trăm phụ nữ theo tình trạng hôn nhân và nhóm tuổi, 2002 33
Bảng 7. CPR trong số phụ nữ đã kết hôn theo độ tuổi và đặc điểm cơ bản, 2002 35
Bảng 8. CPR, các biện pháp tránh thai hiện đại và truyền thống, 2002-2007 37
Bảng 9. Tỷ lệ nạo phá thai, Việt Nam, dữ liệu năm 2002 37
Bảng 10. CBR, CDR và tỷ suất tăng dân số tự nhiên, 1998 và 2002-2006 39
Bảng 11. Ước tính các chỉ số dân số cơ bản của Việt Nam, dữ liệu 2006 40
Bảng 12. Phần trăm dân số thành thị, theo khu vực, Việt Nam,
1979, 1989, 1999, 2009 42
Bảng 13. Phân bố tuổi, Việt Nam, 1979, 1989, 1999 và 2007 46
Bảng 14. Tỷ suất giới tính theo độ tuổi, Việt Nam, 2006 47
Bảng 15. Số năm học được hoàn thành bởi nhóm tuổi 20-24, Việt Nam, 2006 48
Bảng 16. Tỷ lệ nghèo chung, theo khu vực, Việt Nam, 1998, 2002, 2004 và 2006 49
Bảng 17. % dân số theo 10 nhóm dân tộc lớn nhất 1979, 1989, 1999 49
Bảng 18. Các hoạt động can thiệp đề xuất cho mỗi giải pháp trong
Chiến lược dân số 2001-2010 57
Bảng 19. Chỉ tiêu đề ra và giá trị thực tế đạt được của các chỉ số chủ yếu
Chiến lược dân số 2001-2010 63
11
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 1. Tỷ suất sinh và chết thô (trên 1.000 dân),
và tỷ lệ tăng tự nhiên (%/năm) tại Việt Nam, 1950-2005 16
Biểu đồ 2a. Cơ cấu tuổi, giới tính, 1980 18
Biểu đồ 2b. Cơ cấu tuổi, giới tính, 1990 18
Biểu đồ 2c. Cơ cấu tuổi, giới tính, 2000 18
Biểu đồ 3. Tăng trưởng dân số từ năm 1950 và các dự báo của Liên hợp quốc
đến năm 2050, Việt Nam 20
Biểu đồ 4. Các xu hướng IMR theo các cuộc điều tra PHC & PCFPS và DHS,
1984-2006 25
Biểu đồ 5. Những khác biệt theo khu vực về IMR, theo dữ liệu PCFPS, 2002-2005 25
Biểu đồ 6. Nguyên nhân chết theo báo cáo của các cơ sở y tế công lập
trong các năm 1978-2007 25
Biểu đồ 7. Các xu hướng của TFR theo Tổng Điều tra và Điều tra ICDS, PCFPS
và DHS, 1987-2006 30
Biểu đồ 8. Tỷ suất sinh đặc trưng theo độ tuổi, Việt Nam, 1988, 1998, 2006 31
Biểu đồ 9. Những khác biệt theo khu vực về TFR theo Điều tra PCFPS, 2000-2005 31
Biểu đồ 10. Phần trăm phụ nữ đã kết hôn, 1989-2006 34
Biểu đồ 11. Dân số đô thị và nông thôn, ước tính và dự báo, Việt Nam, 1950-2050 43
Biểu đồ 12. Tỷ số người ở độ tuổi lao động đối với người ở tuổi phụ thuộc,
Việt Nam, ước tính và dự báo 1950-2050 52
12
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
1.1 Mục tiêu
Chính phủ Việt Nam đang bắt đầu quá trình
xây dựng Chiến lược mới về Dân số và Sức
khỏe sinh sản cho 10 năm tới, 2011-2020.
Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) đã cam
kết hỗ trợ kỹ thuật cho Chính phủ trong quá
trình xây dựng chiến lược. Văn phòng UNFPA
đã mời nhóm chuyên gia quốc tế và trong
nước xây dựng báo cáo này nhằm xem xét
và phân tích những vấn đề dân số và phát
triển mà Việt Nam đang đối mặt và đưa ra
một số khuyến nghị từ đó giúp Văn phòng
UNFPA cung cấp hỗ trợ kỹ thuật tốt nhất cho
Chính phủ trong quá trình xây dựng chiến
lược mới. Bên cạnh đó, Báo cáo này cũng
sẽ hữu ích đối với các độc giả khác, đặc biệt
là các nhà xây dựng chính sách và chương
trình của Chính phủ và những ai quan tâm
đến chính sách dân số tại Việt Nam.
Báo cáo có ba mục tiêu cụ thể:
• Xem xét các xu hướng dân số hiện nay tại
Việt Nam và đánh giá vai trò của các xu
hướng này tới sự phát triển của quốc gia;
• Rà soát các chính sách dân số hiện hành
tại Việt Nam và đánh giá mức độ đạt được
các mục tiêu;
• Đề xuất một số khuyến nghị về việc điều
chỉnh các chính sách hiện hành và áp
dụng chính sách mới nhằm đáp ứng những
nhu cầu chính sách của giai đoạn 2011 -
2020.
Ba mục tiêu này sẽ lần lượt được đề cập
trong Phần I, II và III của báo cáo.
1.2 Chính sách dân số
Thuật ngữ “chính sách” và “chiến lược” được
sử dụng trong các cuộc thảo luận chính sách
với nhiều nội hàm khác nhau, “chính sách
dân số” cũng được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Định nghĩa sử dụng trong Báo cáo gần
với định nghĩa của Demeny: “Chính sách dân
số có thể định nghĩa là những điều kiện về
mặt thể chế và/hoặc các chương trình cụ thể
được xây dựng hoặc điều chỉnh một cách cẩn
trọng, thông qua đó chính phủ có tác động
[hoặc thích ứng], một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp đến các biến động về nhân khẩu
học” (Demeny 2003: 752)
1
. Tư tưởng căn
bản ở đây là các nhà hoạch định chính sách
sẽ tập trung vào việc tác động vào những
nguyên nhân gốc rễ ảnh hưởng tới những
biến động về nhân khẩu học, chứ không trực
tiếp can thiệp vào các biến động này. “Chính
sách dân số cần tác động vào các thể chế và
cơ chế khuyến khích… đối với các cá nhân
nhằm hướng họ thực hiện những hành vi phù
hợp với lợi ích chung” (Demeny 2003: 754).
Một sự thay đổi trong chính sách có thể là
bất cứ tác động nào, ví dụ như từ việc Chính
phủ quyết định giải thể Ủy ban Dân số, Gia
đình, Trẻ em và thành lập Tổng cục Dân số -
Kế hoạch hóa gia đình, tới việc thay đổi cách
thức thống kê số ca sinh, chết hàng tháng
tại địa bàn xã. Chính sách có thể mang tính
chính thức và thể hiện thành văn bản (Ví dụ:
luật, nghị định) hoặc mang tính không chính
thức và bất thành văn (Ví dụ: khi “tất cả
mọi người đều biết” cấp trên muốn gì và mỗi
người tự điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp). Báo cáo này (đặc biệt là ở Phần
Chương 1: Giới thiệu
1 Báo cáo bổ sung cụm từ “thích ứng” để mô tả trường
hợp nhà hoạch định chính sách không được phép tác
động đến một biến động nhân khẩu nào đó nhưng lại
cần có một hoạt động can thiệp chính sách cụ thể để
đảm bảo xã hội thích ứng một cách tốt nhất với thay
đổi đó. Nói cách khác, chính sách dân số (theo quan
điểm của chuyên gia) bao hàm không chỉ việc điều
chỉnh những điều kiện thể chế nhằm tác động đến các
quá trình nhân khẩu học mà cả việc điều chỉnh những
điều kiện thể chế nhằm thích ứng tốt hơn với các quá
trình nhân khẩu học này. Ở phần sau của báo cáo, sẽ
đánh giá điều này quan trọng đối với Việt Nam như thế
nào trong việc đối phó với sự gia tăng dân số do “đà
tăng dân số” (chứ không phải do “mức sinh cao”).
13
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
II) quan tâm nhiều nhất đến các chính sách
mang tính chính thức của Chính phủ, đồng
thời muốn nhấn mạnh rằng hiệu quả của
những chính sách phụ thuộc vào việc chúng
được “cụ thể hóa” bằng các chính sách thích
hợp như thế nào ở cấp địa phương
2
.
“Chiến lược” thường bao gồm (i) một tập hợp
các chính sách nhằm đạt được một mục đích
chung (Ví dụ: ổn định mức sinh ở mức sinh
thay thế, hay bảo vệ quyền của dân nhập cư
mới tại khu vực đô thị), và (ii) những quy
định về đối tượng thực hiện, thời gian và
cách thức thực hiện những chính sách đó.
Mục đích tổng quát của một Chiến lược Dân
số và Phát triển là “hài hòa hóa” vấn đề dân
số với sự phát triển của đất nước. Có nhiều
lý do cần thiết và có nhiều cách để lồng ghép
vấn đề dân số vào quá trình xây dựng kế
hoạch phát triển. Công tác lập kế hoạch,
muốn đảm bảo tính khả thi, cần phải thích
ứng hoặc tác động (khi thích hợp) lên quá
trình biến đổi nhân khẩu học. Thêm vào đó,
các đặc tính dân số của một quốc gia còn mô
tả một cách cơ bản về những nguồn nhân
lực có thể huy động được cho các mục đích
phát triển cũng như cung cấp thông tin căn
bản về đối tượng hưởng lợi của các kế hoạch
phát triển. Do vậy, dân số vừa là phương
tiện, vừa là mục đích của sự phát triển.
1.3 Nguồn dữ liệu và
phương pháp luận
Các dữ liệu thống kê sử dụng trong báo cáo
này được lấy từ một số nguồn. Để thực hiện
các ước tính và dự báo dân số trình bày ở
Chương 2, báo cáo sử dụng tài liệu Triển vọng
dân số thế giới 2006 của Vụ Dân số Liên hợp
quốc (Vụ Dân số của Liên hợp quốc 2007)
3
.
Đối với những nội dung cụ thể đề cập trong
các chương tiếp theo, báo cáo đã lựa chọn
những tập hợp dữ liệu tại Việt Nam được xem
là tin cậy nhất hiện có và chủ yếu dựa vào kết
quả các cuộc điều tra do Tổng Cục Thống Kê
(TCTK) thực hiện. Vì thế sẽ có sự chênh lệch
không đáng kể giữa các số liệu thống kê được
dẫn chiếu trong các phần khác nhau của báo
cáo do tiếp cận các nguồn khác nhau.
Các nguồn dữ liệu thống kê về nhân khẩu
học chủ yếu ở Việt Nam bao gồm tổng điều
tra dân số, điều tra biến động dân số và kế
hoạch hóa gia đình hàng năm và các cuộc
điều tra chọn mẫu làm căn cứ được thực hiện
thường xuyên (như Điều tra nhân khẩu và Y
tế và Điều tra đa biến). Các dữ liệu thống kê
do Bộ Y tế (và các bộ khác) thu thập thường
xuyên cung cấp thông tin quý báu về các
hoạt động can thiệp về mặt chính sách song
nhìn chung chỉ sử dụng được ở mức độ hạn
chế để đánh giá tác động của những hoạt
động can thiệp đó đối với các xu hướng biến
động về dân số. Phần lớn nội dung báo cáo
được hoàn thành trong khoảng thời gian từ
cuối năm 2008 đến đầu năm 2009, trước khi
Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở được tiến
hành vào tháng 4 năm 2009. Tuy nhiên,
một số kết quả ban đầu của cuộc Tổng Điều
tra được công bố trong tháng 8 năm 2009
đã được đưa vào trong báo cáo khi báo cáo
được chỉnh sửa lần cuối cùng vào tháng 11
năm 2009.
Ngoài ra, còn có một số dữ liệu được chọn
lọc từ các báo cáo hoặc các nghiên cứu đã
được xuất bản. Thông tin cũng được thu
thập từ các cuộc thảo luận và trao đổi với
các chuyên gia, quan chức chính phủ và các
đối tượng khác. Các cán bộ của UNFPA tại
Hà Nội đã đóng góp nhiều ý tưởng và gợi
mở cũng như tạo điều kiện hỗ trợ hết sức
quan trọng
4
.
Mọi đánh giá về các xu hướng dân số đều
đòi hỏi phải dẫn chiếu tới một số tiêu chuẩn
mang tính quy tắc, bất kể những tiêu chuẩn
đó được thể hiện rõ ràng hay không. Nguồn
trích dẫn các tiêu chuẩn được sử dụng trong
báo cáo này là Chương trình hành động được
đưa ra tại hội nghị quốc tế về Dân số và Phát
2 Xem thêm phần giới thiệu tổng quan rất toàn diện của
Colebatch (2002) về khái niệm “chính sách” và cách
thức xây dựng và kiểm chứng chính sách trong các hệ
thống chính trị hiện đại.
3 Các “bảng tổng hợp” cơ bản về Việt Nam được trích
dẫn tại phụ lục A. Vụ Dân số của Liên hợp quốc sử
dụng dữ liệu dân số do các cơ quan thống kê quốc
gia như TCTK cung cấp nhưng có đánh giá riêng về
tính đầy đủ, chính xác và nhất quán của các dữ liệu
đó và điều chỉnh nếu cần thiết (Xem thêm chi tiết tại
UN 2007, vol. III.) Thuận lợi của việc sử dụng bộ dữ
liệu của Liên hợp quốc là ở chỗ dữ liệu được cụ thể
hóa theo thời gian một cách hoàn chỉnh và nhất quán
(theo phép nội suy và ngoại suy) và được trình bày
theo một biểu mẫu thống nhất cho phép so sánh giữa
các quốc gia.
4 Báo cáo này là kết quả làm việc của một nhóm chuyên
gia. Nguyễn Đình Cử và Vũ Mạnh Lợi là các chuyên gia
về dân số và chính sách dân số của Việt Nam. Trưởng
nhóm chuyên gia Adrian Hayes, có nhiều kinh nghiệm
làm việc về các vấn đề chính sách dân số và phát triển
tại Đông Á và Đông Nam Á.
14
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
triển Cairo, 5-13/9/2004 (UN 1994). Chương
trình này được thông qua bằng một tuyên
bố tại Hội nghị Cairo và Chính phủ Việt Nam
(cùng với khoảng 170 quốc gia khác) tham
gia ký kết. Điều đó không có nghĩa là Việt
Nam (hay bất kỳ quốc gia nào) có nghĩa vụ
phải công nhận tất cả các nguyên tắc hay
phải thực hiện tất cả các khuyến nghị của
Chương trình. Song Chương trình hành động
ICPD cho cho đến nay vẫn là “văn kiện đồng
thuận” quốc tế quan trọng nhất đối với những
ai có liên quan đến các chính sách và chương
trình dân số và phát triển.
1.4 Cấu trúc báo cáo
Báo cáo được chia thành ba phần tương ứng
với ba mục tiêu chủ yếu. Phần I, đánh giá
vai trò của các xu hướng dân số hiện nay
trong sự phát triển của quốc gia. Chương 2,
đề cập tới các thống kê nhân khẩu học cơ
bản về quy mô và tăng trưởng dân số. Việt
Nam là nước có quy mô và mức tăng dân số
lớn (theo các tiêu chuẩn quốc tế) với mật độ
dân số đông. Nhìn chung, những thực tế này
đều được các bên liên quan hiểu một cách
rộng rãi là có tầm quan trọng đối với triển
vọng phát triển của một quốc gia, song các
cơ chế tác động cụ thể lại hiếm khi được mô
tả chi tiết. Chương 3 và 4, xem xét các quá
trình biến động về sinh - tử, là các yếu tố
ảnh hưởng tới sự gia tăng dân số của một
quốc gia. Chương 5, tập trung vào vấn đề
di cư, đặc biệt là tỷ lệ gia tăng về di cư từ
nông thôn ra thành thị. Chương 6, xem xét
đến những chuyển đổi về cơ cấu dân số (độ
tuổi, giới tính, giáo dục, lực lượng lao động,
nghèo đói ). Cuối cùng Chương 7 phân tích
vấn đề “cơ cấu dân số vàng” của Việt Nam
(là kết quả của sự thay đổi về các tỷ số phụ
thuộc theo tuổi) và cơ hội duy nhất (song
cũng mang tính giới hạn về mặt thời gian)
cho việc tăng cường đầu tư phát triển nguồn
nhân lực, từ đó tiếp tục cải thiện cơ cấu dân
số và “chất lượng dân số”.
Phần I khi đánh giá các xu hướng dân số
hiện nay vấn đề giới không cần tách ra thành
một chương riêng. Mọi quá trình biến động
nhân khẩu học đều liên quan mật thiết đến
vấn đề giới. Để đảm bảo công bằng giới thì
điều hết sức quan trọng là phải hiểu được
chính xác mối liên quan đó diễn ra như thế
nào và tại sao (Presser và Sen 2000). Cách
tiếp cận trong báo cáo này là đề cập các vấn
đề giới ở bất cứ nội dung nào trong phân tích
các quá trình dân số và phát triển (tử vong,
sức khỏe, mức sinh, di cư ).
Phần II tập trung điểm lại các chính sách dân
số hiện hành tại Việt Nam, đồng thời đánh giá
tính hiệu quả của những chính sách đó mà
trọng tâm là Chiến lược Dân số 2001-2010,
và Pháp lệnh Dân số ban hành năm 2003
được nêu trong Chương 8. Chương 9, đánh
giá tiến độ thực hiện so với các mục tiêu đề
ra của Chiến lược và trình bày một số bài học
thu được (đặc biệt liên quan đến nội dung
giám sát và đánh giá).
Phần III tiếp nối những phân tích đã trình bày
ở Phần I và II. Chương 10 đi vào phân tích sơ
bộ những vấn đề chủ yếu về chính sách cần
giải quyết trong Chiến lược mới về Dân số và
Phát triển giai đoạn 2011 - 2020.
15
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
NHỮNG XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG
DÂN SỐ HIỆN NAY VÀ TÁC ĐỘNG
TỚI SỰ PHÁT TRIỂN
PHẦN I
16
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Mục tiêu của Phần I là xem xét những xu
hướng chuyển đổi dân số hiện nay tại Việt
Nam và đánh giá vai trò của chúng đối với sự
phát triển của quốc gia. Chương mở đầu sẽ
trình bày tổng quan về tình hình dân số của
Việt Nam có sử dụng tập hợp dữ liệu quốc tế
của Vụ Dân số Liên hợp quốc.
2.1 Các chỉ số cơ bản và
chuyển đổi nhân khẩu học
Giống như nhiều nước khác ở Đông Á và
Đông Nam Á, Việt Nam đang ở giai đoạn sau
của chuyển đổi nhân khẩu học. “Chuyển đổi
nhân khẩu học” là thuật ngữ được các nhà
nhân khẩu học sử dụng để mô tả mức chết
và sinh giảm từ tỷ lệ cao ở các quốc gia có
thu nhập thấp xuống tỷ lệ thấp ở các quốc
gia có thu nhập cao (Casterline 2003: 210).
Chuyển đổi nhân khẩu học gắn bó hết sức
mật thiết với sự phát triển. Trong quá trình
phát triển, xã hội đều trải qua sự chuyển đổi
nhân khẩu học và không xã hội nào hoàn
thành sự chuyển đổi này mà không phát
triển. Tuy nhiên, những cơ chế gắn kết giữa
chuyển đổi nhân khẩu học và phát triển đều
rất phức tạp. Thời điểm và tốc độ giảm mức
chết và mức sinh ở các nước đang phát triển
rất khác nhau
5
. Phương thức phổ biến nhất
là mức chết giảm trước mức sinh và kết quả
là tăng trưởng dân số cao trong giai đoạn
chuyển đổi nhân khẩu học
6
.
Biểu đồ 1 cho thấy xu hướng biến động của
các chỉ số cơ bản ở Việt Nam kể từ năm 1950,
thể hiện bằng tỷ suất chết thô (CDR) và tỷ
suất sinh thô (CBR) (với các giá trị biểu diễn
trên trục tung Y bên trái)
7
. Trong những năm
gần đây, CDR đã giảm dần một cách ổn định
mặc dù tốc độ giảm đã bắt đầu chững lại. Theo
ước tính mới nhất của Liên hợp quốc (2007),
trong giai đoạn 1950-1955, CDR trung bình
là 23,9 trên 1000 dân và giảm xuống còn 5,2
trên 1000 dân ở giai đoạn 2000 - 2005 (xem
phụ lục A). Trong khi đó, CBR lúc đầu tăng ít,
sau đó bắt đầu giảm. CBR ở mức 42,7 trên
1000 dân vào năm 1950 - 1955, đạt đỉnh
45,9 trong giai đoạn 1960 - 1965 và giảm
dần một cách ổn định từ đó đến nay, mặc dù
(tương tự như chỉ số CDR) mức độ giảm cũng
đã bắt đầu chững lại trong những năm gần
đây. Ước tính chỉ số này đạt 20,2 trên 1000
dân trong giai đoạn 2000 - 2005.
Chương 2: Quy mô và
tăng trưởng dân số
5 Các tỷ số cơ bản đều không đồng nhất trong các xã hội
trước chuyển đổi cũng như sau chuyển đổi.
6 Xem thêm phần giới thiệu tóm tắt của Casterline
(2003) về chủ đề này.
7 CDR là số ca chết trên 1.000 dân mỗi năm, CBR là số
ca sinh sống trên 1.000 dân mỗi năm.
Biểu đồ 1. Tỷ suất sinh và chết
thô (trên 1.000 dân), và tỷ lệ tăng
tự nhiên (%/năm) tại Việt Nam,
1950-2005
Nguồn dữ liệu: Vụ Dân số của Liên hợp quốc (2007).
Tỷ lệ tăng tự nhiên
Tỷ lệ tăng tự nhiên
17
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Tác động của mức giảm chết và giảm sinh sẽ
được lần lượt xem xét một cách chi tiết hơn
trong hai chương tiếp theo. Ở phần này, sẽ
đánh giá tác động kết hợp của hai chỉ số này
đối với tăng trưởng dân số, phân bổ độ tuổi
và quy mô dân số
8
.
2.2 Tăng trưởng dân số, cơ
cấu tuổi và đà tăng dân số
Biểu đồ 1 cho thấy CBR ở bất kỳ thời điểm nào
trong giai đoạn 1950 - 2005 đều cao hơn hẳn
so với CDR
9
. Giai đoạn 1950 - 1955, số ca sinh
nhiều hơn số ca chết trung bình là 18,8 (tức là
42,7 - 23,9) trên 1000 dân/năm, hay nói cách
khác, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,88% (biểu
thị trên trục tung bên phải của Biểu đồ 1). Xin
lưu ý rằng trong khi tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
được biểu thị theo % thì tỷ suất sinh, chết thô
ở bên phải của trục tung được biểu thị theo tỷ
lệ phần nghìn (%o). Do CBR trước tiên tăng,
sau đó mới giảm nên số ca sinh nhiều hơn số
ca chết đạt đỉnh trong giai đoạn 1960 - 1965
ở mức 24,8 trên 1000 dân/năm. Mặc dù đến
năm 2000 - 2005, CBR đã giảm tới một mức
(20,2) thấp hơn so với giai đoạn 1950 - 1955
(23,9), tỷ lệ tăng dân số tự nhiên vẫn ở mức
1,50%/năm, do CDR cũng giảm (xuống còn
5,2). Chính mức tăng tự nhiên dương này làm
cho dân số Việt Nam tăng nhanh trong nửa
cuối của thế kỷ XX (xem phần 2.3). Nếu tính
cả số người di cư khỏi Việt Nam thì tỷ lệ tăng
dân số thực tế sẽ thấp hơn chút ít so với tỷ lệ
tăng tự nhiên song thấp hơn không đáng kể
(xem Chương 5).
Một hệ quả quan trọng khác của sự thay đổi
các chỉ số cơ bản với chuyển đổi nhân khẩu
học là thay đổi về cơ cấu tuổi. Các chỉ số cơ
bản ở mức cao của dân số trước chuyển đổi
gắn liền với tháp tuổi thường được biết tới:
mức sinh cao có nghĩa là số ca sinh nhiều,
làm cho đáy tháp khá rộng, nhưng mức chết
cao có nghĩa là mỗi nhóm tuổi đều bị thu hẹp
lại đáng kể so với nhóm tuổi trẻ hơn kế tiếp
phía dưới, vì thế tháp nhỏ lại dần lên phía
trên, giống như đỉnh của một tam giác vậy.
Dân số sau chuyển đổi có cơ cấu tuổi giống
hình trụ hơn: do số ca sinh không nhiều nên
đáy của hình trụ khá hẹp. Song vì phần lớn
số trẻ sinh ra đều sống, lớn lên và bước vào
tuổi trưởng thành (trong thực tế nhiều người
có tuổi thọ cao) nên mỗi nhóm tuổi thu hẹp
hơn không đáng kể so với nhóm trẻ hơn kế
tiếp phía dưới cho đến khi chúng ta đạt đến
nhóm 65 tuổi trở lên.
Biểu đồ 2 cho thấy cơ cấu tuổi của Việt Nam
đã thay đổi như thế nào kể từ năm 1980
10
.
Mặc dù, mức sinh đã bắt đầu giảm từ những
năm 1960, tại thời điểm năm 1980, nó vẫn ở
mức khá cao và cơ cấu tuổi hình tháp vẫn rõ
nét. Đến năm 2000, chúng ta thấy rằng mức
sinh giảm dần đã làm cho nhóm tuổi trẻ nhất
trở nên thu hẹp hơn so với nhóm tuổi lớn hơn
kế tiếp
11
. Sử dụng dự báo dân số của Liên hợp
quốc với ước tính ở mức trung bình (xem Phụ
lục B); có thể thấy đến năm 2020, thậm chí
là 2030, cơ cấu tuổi càng có xu hướng biến
đổi theo hình trụ. Dân số Việt Nam đang già
đi. Hiện tượng này sẽ rõ nét hơn rất nhiều sau
năm 2000 so với trước đó (xem Chương 6).
Năm 1950 tuổi trung vị là 24,6; năm 1970
giảm xuống 18,0; năm 2000 lại tăng lên là
23,1; tới năm 2050, theo dự báo của Liên hợp
quốc với ước tính ở mức trung bình thì số tuổi
trung vị của dân số Việt Nam sẽ là 41,6.
Biểu đồ 2 cũng chứng minh sự mất cân bằng
giới tính khi sinh: bắt đầu từ năm 1980, ở
nhóm tuổi 0 - 4, số trẻ em trai đã nhiều hơn
hẳn số trẻ em gái (Biểu đồ 2a). Sự mất cân
bằng này càng rõ nét hơn vào năm 1990 và
2000 (Biểu đồ 2b và 2c). Vấn đề này sẽ được
thảo luận ở Chương 4.
Các tỷ suất sinh thô và chết thô cơ bản có ý
nghĩa quan trọng vì khi kết hợp lại, sẽ cho
tỷ suất tăng dân số tự nhiên. Tuy nhiên,
các tỷ suất thô này không phải là chỉ số
đáng tin cậy phản ánh chính xác tình hình
sinh và chết, vì chúng bị ảnh hưởng của
cơ cấu tuổi và giới tính của dân số. Dân số
nước A có thể có CBR cao hơn dân số nước
B chẳng hạn, không phải do phụ nữ ở nước
10 Để biểu thị cơ cấu tuổi - giới tính, nhóm nam và nữ
thường được đặt lần lượt ở bên trái và bên phải của
trục tung, nhưng trong Biểu đồ 2, báo cáo đặt cả hai
nhóm ở cùng một bên (để tiện cho việc áp dụng phần
mềm vẽ bản đồ).
11 Trong nhiều trường hợp, sự xuất hiện nhóm tuổi 0 - 4
hẹp trong dữ liệu thu được từ các cuộc tổng điều tra
và điều tra đơn giản chỉ phản ánh việc số ca sinh và
số trẻ 0 - 4 tuổi không được thống kê đầy đủ (và/
hoặc các nhóm tuổi trẻ em khác bị khai tăng tuổi)
nhưng trong trường hợp này, các phát hiện xem ra
đáng tin cậy hơn. Các số liệu của Liên hợp quốc cho
thấy mức sinh đạt đỉnh trong giai đoạn 1985-1990.
8 Xem Jones (1999) để so sánh các yếu tố này giữa các
quốc gia Đông Nam Á.
9 Để phân tích điều này, báo cáo sử dụng dữ liệu mới
nhất của TCTK trong Chương 4.
18
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
A đẻ nhiều hơn phụ nữ ở nước B, mà do
nước A có số phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ nhiều
hơn so với nước B. Tương tự như vậy, dân
số nước C có thể có CDR cao hơn dân số
nước D, không phải do những người thuộc
một nhóm tuổi bất kỳ nào đó ở nước C có
xác suất chết trong 12 tháng tới cao hơn
so với nước D, mà là do dân số nước C có
tỷ lệ người già cao hơn. Các tỷ suất thô cơ
bản này, vì thế, nếu chỉ xem xét riêng lẻ,
sẽ có những đánh giá không đúng về tình
hình sinh và chết
12
.
Ở Việt Nam, tỷ lệ phụ nữ trong nhóm tuổi
15 - 49 tăng từ 41,3% năm 1970 đến 44,5%
năm 1980, 48,3% năm 1990 và 53,9% năm
2000 (UN 2007). Để đạt mức giảm CBR từ
38,9% năm 1970 - 1975 xuống còn 20,2%
năm 2000 - 2005 (giảm 48,1%) ngay cả khi
tỷ lệ phụ nữ ở tuổi sinh đẻ tăng lên, đòi hỏi
mức sinh trung bình ở mỗi phụ nữ - tổng
tỷ suất sinh
13
phải giảm và thực tế đã giảm
(theo dữ liệu của Liên hợp quốc) từ 6,70
trong giai đoạn 1970 - 1975 xuống còn 2,32
trong giai đoạn 2000 - 2005 (giảm 65,4%).
Tỷ lệ phụ nữ trong nhóm tuổi 15 - 49 được
dự báo sẽ đạt đỉnh vào khoảng năm 2010 (ở
mức 57,3%) rồi sau đó giảm (tới mức 42,6%
vào năm 2050 theo dự báo mức trung bình
của Liên hợp quốc). Tổng số tuyệt đối phụ
nữ trong nhóm tuổi 15 - 49 sẽ không đạt
đỉnh cho đến khoảng năm 2030 theo dự báo
mức trung bình của Liên hợp quốc.
Sự chênh lệch giữa số ca sinh và số ca chết
quyết định tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và
không phụ thuộc vào các điều kiện mức chết
và mức sinh thực tế. Thông thường, song
song với sự chuyển đổi nhân khẩu học, dân
số sẽ tiếp tục tăng liên tục trong vài thập
kỷ sau khi đã đạt được “mức sinh thay thế”.
Trường hợp này được gọi là đà tăng dân số.
Đà tăng dân số là sự thay đổi về tỷ lệ tăng
dân số diễn ra sau những thay đổi về hành vi
sinh đẻ và tỷ lệ tử vong. Đà tăng dân số xảy
ra trong quá trình thay đổi về cơ cấu tuổi, có
nghĩa là dân số khi đã liên tục tăng nhanh
trong một thời gian dài sẽ có cơ cấu dân số
trẻ và làm cho dân số tiếp tục tăng trưởng
trong nhiều thập kỷ trước khi đạt được tình
trạng tăng trưởng bằng không. (Feeney
2003: 647).
12 Chính vì vậy các nhà thống kê gọi các tỷ số này là
tỷ số “thô”!
13 Tổng tỷ suất sinh (Total Fertility Rate -TFR) tại một
thời điểm xác định là tổng số lần sinh con sống trung
bình mà một phụ nữ sẽ sinh trong suốt cuộc đời nếu
người phụ nữ đó đạt tỷ suất sinh đặc trưng theo độ
tuổi tại thời điểm đó. Tổng tỷ suất sinh nhóm tuổi là số
lần sinh con sống trung bình của những phụ nữ thuộc
một nhóm tuổi trong suốt thời kỳ sinh sản của họ. TFR
thời kỳ được sử dụng phổ biến hơn và vì thế khi nói
“TFR” chính là nhằm nói đến TFR thời kỳ, trừ phi có sự
chú thích cụ thể.
Biểu đồ 2a. Cơ cấu tuổi, giới tính,
1980
Biểu đồ 2b. Cơ cấu tuổi, giới tính,
1990
Biểu đồ 2c. Cơ cấu tuổi, giới tính,
2000
80+
70-74
60-64
50-54
40-44
30-34
20-24
10-14
0-4
0 1000 2000 3000 4000 5000
Nữ
Nam
80+
70-74
60-64
50-54
40-44
30-34
20-24
10-14
0-4
0 1000 2000 3000 4000 5000
Nữ
Nam
80+
70-74
60-64
50-54
40-44
30-34
20-24
10-14
0-4
0 1000 2000 3000 4000 5000
Nữ
Nam
Nguồn dữ liệu: Vụ Dân số của Liên hợp quốc (2007: Vol. II).
Ghi chú: Trục hoành X biểu diễn quy mô dân số theo đơn
vị nghìn.
19
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Dự báo dân số của Liên hợp quốc với ước tính
ở mức sinh trung bình cho Việt Nam cho thấy
mặc dù mức sinh đạt dưới mức sinh thay thế
trước năm 2010, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
sẽ vẫn là 1,09%/năm trong giai đoạn 2015 -
2020. Trong những thập kỷ tới, mặc dù dân
số sẽ tăng do đà tăng dân số (chứ không phải
do mức sinh tăng), song tỷ lệ tăng dân số sẽ
tiếp tục giảm. Cũng theo dự báo trên của Liên
hợp quốc, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của Việt
Nam sẽ ở mức 0,79%/năm trong giai đoạn
2025 - 2030 và giảm xuống còn 0,29% trong
những năm 2045 - 2050. Xử lý vấn đề tăng
dân số do đà tăng dân số là một thách thức
lớn đối với các nhà hoạch định chính sách.
Vấn đề này sẽ được thảo luận thêm trong một
số phần sau của báo cáo.
2.3 Quy mô và mật độ dân số
Biểu đồ 3 cho thấy dân số Việt Nam đã tăng
từ 27,4 triệu năm 1950 lên 79,1 triệu năm
2000, tức là tăng 190% trong vòng 50 năm.
Dân số sẽ còn tiếp tục tăng - Vấn đề mấu
chốt đặt ra là: Tăng bao nhiêu? Trong những
hoàn cảnh nào?
Do “không thể biết chắc chắn các xu hướng
tương lai” (UN 2007: vol. I, xxxviii) Liên hợp
quốc đã đưa ra một số dự báo dựa trên các
giả định khác nhau. Sự khác biệt chủ yếu
giữa ba dự báo chính (được đưa vào Phụ
lục A) là: dự báo với ước tính ở mức sinh
trung bình (MVP) giả định rằng TFR sẽ tiếp
tục giảm xuống thấp hơn một chút so với
mức sinh thay thế và đạt 1,85 trước năm
2020 rồi giữ ở mức này cho đến năm 2050;
dự báo với ước tính ở mức sinh cao (HVP)
cho biết tăng trưởng dân số sẽ diễn ra như
thế nào nếu TFR bằng 2,35; và dự báo với
ước tính ở mức sinh thấp (LVP) xem xét tăng
trưởng dân số trong bối cảnh mức sinh được
giả định là tiếp tục giảm cho đến khi TFR đạt
1,35 (vào khoảng năm 2020), sau đó giữ ổn
định ở mức này
14
.
Với mức sinh trung bình (MVP) dự báo dân
số sẽ là 120 triệu người vào năm 2050, tức
là tăng 51,7% so với năm 2000. Vào năm
2020, dân số sẽ là 101,7 triệu, với mức
tăng 0,9%/năm và tuổi bình quân là 31,2.
Với mức sinh thấp (LVP) dự báo dân số sẽ
là 100,4 triệu vào năm 2050 (tức là tăng
27,0% trong vòng 50 năm). Năm 2020, dân
số sẽ là 97,0 triệu, với tỷ lệ tăng là 0,5%/
năm và tuổi bình quân là 32,5. Với mức sinh
cao (HVP) dự báo dân số sẽ là 142,2 triệu
vào năm 2050 (tức là tăng 79,8% so với năm
2000). Năm 2020, dân số sẽ là 106,3 triệu,
với tỷ lệ tăng là 1,2%/năm và tuổi bình quân
là 29,9. Rõ ràng, sự biến đổi về quy mô dân
số và cơ cấu tuổi trong giai đoạn 10 hoặc
hơn 10 năm tới rất phụ thuộc vào mức sinh
trong tương lai. Các xu hướng mức sinh và
những yếu tố ảnh hưởng đối với chúng sẽ
được thảo luận ở chương 4.
Điều đáng lưu ý là trong ba dự báo trên chỉ
có phương án mức sinh cao (HVP) cho thấy
giá trị tuyệt đối của mức tăng quy mô dân số
trong giai đoạn 2000-2050 (63,1 triệu) cao
hơn so với giai đoạn 1950-2000 (51,7 triệu);
và ngay cả trong trường hợp này, mức tăng
trong giai đoạn 2000-2050 tính theo phần
trăm (79,8%) cũng thấp hơn nhiều so với giai
đoạn 1950-2000 (190,0%).
Mật độ dân số tăng tương ứng với quy mô dân
số. Mật độ dân số trung bình của Việt Nam là
83 người/km
2
vào năm 1950; 238 người/km
2
năm 2000; và sẽ tăng lên mức 362 người/
km
2
vào năm 2050 (MVP) (UN 2007). Mật độ
dân số tăng sẽ tác động đến tổ chức xã hội và
môi trường (xem chương 5 - 7).
Theo kết quả ban đầu của TĐT (tại thời điểm
1 tháng 4 năm 2009) dân số Việt Nam là
85,8 triệu, tăng 9,5 triệu trong khoảng thời
gian từ 1999-2009
15
. Điều này cho thấy mức
tăng dân số của Việt Nam hiện đang ở mức
sinh thấp.
14 Cả ba dự báo giả định rằng mức chết sẽ tiếp tục giảm
vừa phải, do đó tuổi thọ sẽ tăng từ 74,2 tuổi trong
giai đoạn 2005-2010 đến 80,3 tuổi trong giai đoạn
2045-2050 với mức di cư ròng thấp. Với những giả
định thực tế, các xu hướng sinh trong tương lai chính
là yếu tố tác động lớn nhất đến quy mô tăng trưởng
dân số. Xem chi tiết về các giả định của ba dự báo
chính trong tài liệu UN (2007, vol. III).
15 Phúc tra kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ sót chỉ khoảng
0.3%.
20
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
2.4 Biến động dân số:
2001-2010 đến 2011-2020
Bảng 3 tóm tắt một số biến động chủ yếu có
thể xảy ra đối với các chỉ số về số dân của
Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 so với
giai đoạn 2001-2010
16
.
Ô có tên gọi “Dự báo với ước tính ở mức
sinh thấp” cho thấy nếu mức sinh tiếp tục
giảm như hiện nay và ổn định ở ngay sát
dưới mức sinh thay thế vào cuối năm 2020
(giống như giả định trong MVP), thì tăng
trưởng tuyệt đối trong giai đoạn 10 năm tới
sẽ giống như trong giai đoạn hiện nay, tức
là khoảng 11 triệu người. Tuy nhiên, nếu
mức sinh ổn định ở ngay trên mức sinh thay
thế vào cuối năm 2020 (giống như giả định
trong HVP) thì tăng trưởng dân số sẽ đạt gần
15 triệu (xem ô “Dự báo với ước tính ở mức
sinh cao”). Mặt khác, nếu mức sinh tiếp tục
giảm xuống mức cực thấp trong giai đoạn
10 năm tới (TFR=1,35: xem ô “Dự báo với
ước tính ở mức sinh thấp”) thì tăng trưởng
dân số có thể hạ thấp tới mức 7 triệu; tỷ lệ
tăng dân số thấp hơn sẽ hấp dẫn các nhà
hoạch định chính sách ở một số khía cạnh
nào đó, nhưng nếu mức sinh cực thấp thì sẽ
có những tác động tiêu cực đối với sự phát
triển, như trình bày trong Chương 7.
Phân tích chi tiết kết quả Tổng Điều tra Dân
số năm 2009 sẽ cho phép các dự báo cho giai
đoạn 2011-2020 được chính xác hơn. Các
dự báo trên của Liên hợp quốc cho thấy trừ
trường hợp có biến cố rất lớn không lường
trước được, dân số Việt Nam sẽ tăng thêm
11 triệu người, có thể sai số 2 - 3 triệu, trong
giai đoạn 2011-2020. Kết quả sơ bộ ban đầu
của Tổng Điều tra Dân số cho thấy có thể
tốc độ tăng dân số sẽ tiếp cận ở mức sinh
thấp, nghĩa là ở giới hạn dưới của khoảng
dao động này, tuy nhiên đây cũng chỉ là giả
định; khi có thêm đầy đủ số liệu, cần được
phân tích thêm để theo dõi và kiểm chứng
giả định này.
Phần còn lại của báo cáo này mục đích tìm
hiểu chi tiết hơn tình hình dân số Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 và những can thiệp
chính sách nào cần được cân nhắc. Muốn
vậy, chúng ta phải hiểu được cặn kẽ các xu
hướng đang diễn ra hiện nay và điều kiện
làm cho chúng có thể thay đổi. Những câu
hỏi chính đặt ra là:
• Những nhân tố nào có khả năng tác động
tới việc dân số vào năm 2020 sẽ vượt lên
hay hạ xuống thấp hơn mức dự báo nêu
trên?
• Cơ cấu dân số về độ tuổi, giới tính, hình
thái định cư và các đặc điểm xã hội khác
sẽ thay đổi như thế nào trong giai đoạn
2010-2020?
• Quan trọng nhất là: Những lựa chọn chính
sách nào có thể tác động tới các kết quả
nhân khẩu học nhằm góp phần tăng phúc
lợi xã hội cho dân số Việt Nam giai đoạn
2011-2020 và những năm sau đó?
Biểu đồ 3. Tăng trưởng dân số từ
năm 1950 và các dự báo của Liên
hợp quốc đến năm 2050, Việt Nam
Ghi chú: Pop - Dân số; MVP - Dự báo với ước tính ở mức
sinh trung bình; HVP - Dự báo với ước tính ở mức sinh
cao; LVP- Dự báo với ước tính ở mức sinh thấp.
Nguồn: Vụ Dân số của Liên hợp quốc (2007).
Quy mô dân số (triệu người)
16 Các năm tham chiếu trong thống kê của Liên hợp
quốc và thống kê chính thức của Việt Nam không
hoàn toàn trùng khớp. Thống kê của Liên hợp quốc
lấy mốc 01/07 là trung điểm của một năm. Thống
kê của TCTK lại lấy mốc 01/04, cũng là ngày tham
chiếu chính thức của tổng điều tra dân số và điều tra
biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình. Trong
khi đó, giai đoạn lập kế hoạch 2011-2020, lại tính từ
01/01/2011 đến 31/12/2020.
21
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Bảng 1. Các chỉ số dân số chủ yếu giai đoạn 2000-2020, theo dự báo của Liên hợp quốc
Dự báo với ước tính ở
mức sinh thấp
Dự báo với ước tính ở
mức sinh trung bình
Dự báo với ước tính ở
mức sinh cao
2000 2005 2010 2015 2020 2010 2015 2020 2010 2015 2020
Dân số
(triệu người)
79,1 85,0 89,9 93,9 97,0 90,8 96,5 101,7 91,8 99,1 106,3
Độ tuổi trung bình
(tuổi)
23,1 24,9 27,2 29,7 32,5 26,9 29,0 31,2 26,6 28,2 29,9
2000-
2005
2005-
2010
2010-
2015
2015-
2020
2020-
2025
2010-
2015
2015-
2020
2020-
2025
2010-
2015
2015-
2020
2020-
2025
CBR 21,2 18,8 14,2 12,1 11,3 17,5 16,0 14,7 20,7 19,5 17,7
CDR 5,2 5,1 5,1 5,2 5,5 5,0 5,1 5,3 5,0 5,0 5,1
TFR 2,32 2,14 1,57 1,36 1,35 1,97 1,86 1,85 2,37 2,36 2,35
IMR 22 20 17 15 14
Tốc độ tăng trưởng 1,45 1,32 0,87 0,65 0,54 1,20 1,05 0,90 1,52 1,41 1,23
Nguồn: Vụ Dân số của Liên hợp quốc (2007).
22
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
3.1 Tử vong giảm trong toàn quốc
Khi dân số trải qua quá trình chuyển đổi
nhân khẩu học thì chỉ số cơ bản đầu tiên sẽ
giảm thường là mức chết. CDR ở Việt Nam
đã giảm một cách ổn định từ năm 1950 tới
nay và cả trước đó (xem Phụ lục A). Chương
này sẽ phân tích sâu hơn về giảm mức chết,
đặc biệt tập trung vào chết sơ sinh và chết
trẻ em vì đây hay được xem là hai trong số
những chỉ số về sức khỏe cộng đồng nhạy
cảm nhất
17
. Việc cải thiện tình hình bệnh tật
và tử vong có ý nghĩa căn bản đối với cuộc
sống của con người: cả hai đều là kết quả
của sự phát triển, đồng thời là nền móng
quan trọng để tiếp tục phát triển.
Các số liệu ước tính về tỷ suất chết sơ sinh và
chết ở trẻ em của Việt Nam có trong các tài liệu:
(i) Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999 (TĐTDS),
(ii) Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia
đình hàng năm (PCFPS)
18
, được thực hiện từ năm
2001, (iii) Điều tra nhân khẩu học và y tế Việt
Nam (DHS), được thực hiện năm 1997 và 2002,
và (iv) Điều tra đa biến (MICS), được thực hiện
năm 2000 và 2006. Bảng 2 liệt kê các số liệu ước
tính chủ yếu lấy từ những nguồn này liên quan
đến tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi (IMR) và tỷ
suất chết trẻ em dưới 5 tuổi (U5MR).
Tổng điều tra 1999 ước tính IMR ở mức
36,7 trẻ sơ sinh chết trên 1.000 trẻ đẻ sống
trong vòng 12 tháng trước ngày tổng điều
tra 01/04/1999, bằng cách sử dụng phương
pháp tính toán trực tiếp có điều chỉnh
19
.
Các cuộc điều tra của PCFPS sau này cho
thấy IMR giảm đáng kể và chững lại ở mức
16 ca chết trên 1.000 ca sinh sống vào năm
2005 và 2006 (TCTK 2008: 35). Các số liệu
ước tính IMR áp dụng cho giai đoạn 12 tháng
trước thời điểm điều tra (ngày 01/04) nên
trung điểm của giai đoạn này (ngày 01/10)
vẫn thuộc năm trước của năm điều tra; tức
là khi tính IMR sử dụng dữ liệu được thu thập
năm 2007 thì sẽ cho kết quả ước tính cho
một giai đoạn 12 tháng mà trung điểm của
nó thuộc năm 2006. Các thống kê của PCFPS
được tính toán theo bộ chương trình phần
mềm QFIVE của Vụ Dân số Liên hợp quốc, sử
dụng các thuật toán ước tính gián tiếp
20
.
Chương 3: Giảm tử vong và
biến động về dịch tễ học
17 Tỷ suất chết đặc trưng theo độ tuổi theo kết quả Tổng
điều tra lần trước được liệt kê tại Phụ lục C.
18 Điều tra này bắt đầu được giới thiệu năm 2000, mặc
dù tên gọi của nó đã được thay đổi một vài lần.
19 “Căn cứ thông tin về tình hình tử vong ở các hộ gia
đình, lập bảng thống kê tổng số ca chết trong thời
gian một năm trước thời điểm Tổng điều tra và sắp
xếp theo giới tính và nhóm tuổi của người chết lúc
chết. Phản hồi từ các hộ gia đình thường không chính
xác, làm cho tổng số ca chết thường thấp hơn thực tế.
Vì thế, những dữ liệu này được điều chỉnh trên cơ sở
các hệ số điều chỉnh được ước tính từ cuộc phúc tra
về mức sinh và mức chết” (TCTK 2001: 89) Cần số ca
chết ở các hộ gia đình được thu thập theo phiếu hỏi
với nhóm mẫu 3% (về mức sinh và mức chết); tức là
5.000 dân hay 2,4 triệu dân.
20 Những kết quả ước tính này rất có khả năng thấp
hơn thực tế. Gigi Santow đã chỉ ra rằng các thuật
toán được sử dụng ở đây ban đầu được thiết kế cho
các nước mà đa số có tỷ suất chết cao hơn Việt Nam
ngày nay, vì thế chúng có thể cho các kết quả ước
tính IMR thấp hơn chút ít khi áp dụng cho các dữ liệu
của Việt Nam (UNFPA 2007: 10). Mức chết cũng có
thể bị hạ thấp hơn khi TCTK sử dụng những thuật
toán này; CDR có thể cao hơn tới 25% so với ước
tính của PCFPS (UNFPA 2007: 12-13). Việc sử dụng
các kỹ thuật ước tính gián tiếp ở một nước như Việt
Nam - nơi chưa có hệ thống đăng ký công dân đáng
tin cậy là hết sức thiết yếu, song những kết quả sai
lệch có thể xảy ra trong những hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam cần được nghiên cứu thêm.
23
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Bảng 2. Ước tính IMR và U5MR từ nhiều nguồn, Việt Nam, 1982-2006
Tên cuộc
điều tra
Thời điểm thu
thập dữ liệu
Ước tính
Thời gian
tham chiếu
IMR
PHC 1999
Ngày tổng điều tra
dân số 01.04.99
37 1998
PCFPS 2003 04/03 21 2002
PCFPS 2004 04/04 18 2003
PCFPS 2005 04/05 18 2004
PCFPS 2006 04/06 16 2005
PCFPS 2007 04/07 16 2006
DHS 1997 07/97 – 10/97
28,2
40,0
31,8
1992-1996
1987-1991
1982-1986
DHS 2002 10/02 – 12/02
18,2
29,6
35,7
1998-2002
1993-1997
1988-1992
MICS 2006 22 2001-2005
U5MR
DHS 1997 07/97 – 10/97
37,7
53,5
54,9
1992-1996
1987-1991
1982-1986
DHS 2002 10/02 – 12/02
23,6
39,5
47,4
1998-2002
1993-1997
1988-1992
Nguồn: Các cuộc điều tra như ghi ở cột 1.
24
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Dữ liệu về mức chết sơ sinh và chết ở trẻ em
cũng được thu thập bởi Điều tra DHS năm
1997 và 2002
21
. Các số liệu ước tính của DHS
đều dựa vào kết quả ước tính trực tiếp sử
dụng dữ liệu từ hồ sơ thai sản của nhóm phụ
nữ đã từng lập gia đình tuổi từ 15 đến 49.
Kết quả ước tính trực tiếp từ những dữ liệu
này cho thấy IMR ở mức 28,2 trong 5 năm
trước cuộc điều tra năm 1997 (trung điểm ở
năm 1994) và 18,2 trong cùng kỳ trước điều
tra năm 2002 (trung điểm năm 2000).
Các dữ liệu DHS cũng đã được sử dụng để
ước tính IMR và U5MR cho nhóm 5 - 9 tuổi
và 10-14 tuổi trước thời điểm điều tra. Rõ
ràng là càng đi ngược về trước thời điểm
điều tra thì càng có nhiều khả năng xảy ra
sai số và chênh lệch. Tuy nhiên, kết quả ước
tính này vẫn rất đáng quan tâm. Dữ liệu năm
1997 cho thấy ước tính cho giai đoạn 1982-
1986 thấp hơn so với giai đoạn 1987-1991
rất có thể là do những hạn chế của dữ liệu
gây ra
22
. Các ước tính cho các giai đoạn 5
năm trước đó trong dữ liệu năm 2002 có vẻ
tin cậy hơn. Những dữ liệu này cho thấy IMR
đã giảm từ 35,7 trong giai đoạn 1988-1992
xuống còn 18,2 trong giai đoạn 1998-2002.
Chất lượng dữ liệu DHS 2002 có vẻ tốt song
các chuyên gia đều có chung nhận xét rằng
phép ước tính trực tiếp thường cho kết quả
IMR thấp hơn thực tế và các nhà nghiên cứu
DHS cũng lưu ý phải thận trọng khi đánh giá
mức giảm nhanh chóng này “nếu không có
[thêm] bằng chứng về thành công lớn của
các chương trình đảm bảo sự sống còn cho
trẻ em”: “… mức chết vô cùng thấp theo kết
quả điều tra [DHS 2002] đòi hỏi phải có sự
thận trọng khi phân tích. Chỉ cần bỏ sót một
vài ca sinh mà trẻ tử vong sớm trong thời
kỳ sơ sinh cũng sẽ có thể làm cho mức chết
giảm hẳn song sự bỏ sót này thường không
cách nào phát hiện được. Một lý do khác là ở
những mức chết thấp như vậy, sai số lấy mẫu
thường rất lớn” (NCPFC và ORC Macro 2003:
78,79). Giới hạn trên và dưới của khoảng tin
cậy 95% đối với ước tính IMR bằng 18,2 lần
lượt là 27 và 9.
Các dữ liệu IMR khác được cung cấp bởi các
cuộc điều tra của MICS, thực hiện ở Việt Nam
năm 1995, 2000 và 2006
23
. Điều tra MICS
năm 2006 cho thấy IMR là 22 trên 1.000 trẻ
đẻ sống tính trung bình cho giai đoạn 5 năm
trước thời điểm điều tra (với trung điểm ở năm
2003), theo các thuật toán ước tính gián tiếp.
Biểu đồ 4 thể hiện mức giảm IMR trong giai
đoạn 1984-2006, sử dụng dữ liệu của các
cuộc điều tra PHC, PCFPS, và DHS
24
. Các
năm biểu diễn trên trục hoành X là các năm
tham chiếu thống kê, chứ không phải năm
thu thập dữ liệu.
Tất các nguồn dữ liệu chính đều khẳng định
rằng từ những năm 1980 đến nay, mức chết
sơ sinh và chết ở trẻ em đã giảm đáng kể
25
.
Tuy vậy vẫn có một quan ngại lớn rằng các
số liệu ước tính chính thức do TCTK công bố
– kể cả những số liệu sử dụng thuật toán ước
tính gián tiếp được xem là khắc phục được lỗi
bỏ sót – vẫn có thể nghiêng về phía thấp.
3.2 Những khác biệt giữa các
khu vực
Quá trình biến đổi dịch tễ học không diễn ra
đồng đều giữa các khu vực hành chính. Biểu
đồ 5 cho thấy sự khác biệt trong mức giảm
IMR theo khu vực, theo dữ liệu PCFPS. Nhìn
chung, tỷ suất này đều giảm ở tất cả các
khu vực song chênh lệch giữa các khu vực
vẫn rất lớn. Ở ba khu vực có tỷ suất IMR
lớn nhất, một trẻ sơ sinh có xác suất chết
trước khi tròn 1 tuổi lớn hơn gấp 2,5 lần
so với một trẻ sơ sinh ở ba khu vực có IMR
thấp nhất. Những khác biệt này cần được
nghiên cứu chi tiết hơn. Chúng có thể được
giải thích phần lớn bởi sự chênh lệch về mức
độ phát triển giữa các khu vực (thu nhập,
giáo dục, cơ sở hạ tầng, dịch vụ ) song
văn hóa, khí hậu và các yếu tố môi trường
khác cũng có thể có tác động nhất định.
21 Ngoài ra còn có điều tra DHS năm 1988 (NCPFP
1990), nhưng rất khó tìm thông tin về cuộc điều tra
này vì không được đăng trên website Measure DHS.
Những số liệu ước tính của nó về IMR và U5MR cũng
không được sử dụng để phân tích các xu hướng trong
những báo cáo DHS sau này, trừ một phần vắn tắt
trong NCPFP và ORC Macro (1999: 85).
22 Ví dụ: khoảng tin cậy 95% đối với ước tính 28,2
cho giai đoạn 1992-1996 là 21 : 36 (NCPFP và ORC
Macro 2003: 85).
23 Dữ liệu năm 1995 không có và báo cáo năm 2000
không có ước tính IMR .
24 Biểu đồ 4 tương tự như “Biểu đồ 7.1” trong tài liệu
của NCPFC và ORC Macro (2003: 78), chỉ có một điều
cần lưu ý là báo cáo DHS hình như đã đảo ngược hai
giá trị của IMR là “28,2” và “31,8” trên đường biểu
thị xu hướng IMR theo DHS 1997.
25 Phụ lục C cung cấp số liệu về tỷ suất chết đặc trưng
theo độ tuổi dựa trên kết quả Tổng điều tra năm
1999. Mức chết giảm chậm hơn ở các nhóm tuổi khác
nhau so với nhóm 0 - 1, song đều giảm ở tất cả các
nhóm tuổi (TCTK 2001: 111).
25
Dân số và phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược mới, 2011-2020
Nguồn: Giống như ở Bảng 2.
3.3 Những thay đổi về bệnh
tật và nguyên nhân tử vong
Không chỉ mức chết giảm, cơ cấu nguyên nhân
chết cũng đang biến đổi. Dân số đang trải
qua một quá trình “biến đổi dịch tễ học” quen
thuộc, trong đó nguyên nhân chết chủ yếu
là các bệnh truyền nhiễm được thay thế bởi
các bệnh mãn tính không truyền nhiễm - (đôi
khi còn được gọi là “bệnh của nhà giàu”). Các
dữ liệu đáng tin cậy từ các cuộc điều tra mẫu
theo thời gian không sẵn có, song thống kê
về số ca chết tại các cơ sở y tế cũng cho thấy
xu hướng biến đổi (Biểu đồ 6). Năm 1976 và
1986, bệnh truyền nhiễm vẫn là nguyên nhân
của hơn 50% số ca chết, song đến năm 2000,
tỷ lệ này chỉ còn 30% và đến nay là dưới
20%. Trong khi đó, các bệnh không truyền
nhiễm lại tăng lên là nguyên nhân của dưới
50% nay tăng lên trên 60% số ca chết này.
Số vụ tai nạn, thương tích và ngộ độc cũng
tăng lên một cách nhanh chóng, càng nhấn
mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của
việc phải xử lý những “nhân tố về lối sống”
trong công tác kiểm soát bệnh tật và tử vong
của dân số hiện nay.
Các số liệu về nguyên nhân chết được cung
cấp trong báo cáo Điều tra Y tế quốc gia năm
2002
26
. Một số phát hiện từ kết quả cuộc điều
tra này là: bệnh truyền nhiễm vẫn là nguyên
nhân gây ra gần 40% số ca chết trong nhóm
0-4 tuổi; nhóm nghèo nhất vẫn chiếm hơn
20% tổng số ca chết do bệnh truyền nhiễm,
gấp hai lần hoặc hơn hai lần so với các nhóm
khác; và (đúng như dự đoán) nhóm người
nghèo và dân tộc thiểu số có ít cơ hội tiếp
cận chăm sóc y tế trước khi tử vong hơn
nhiều so với các nhóm còn lại.
26 Dựa trên kết quả phỏng vấn mẫu gồm 36.000 hộ gia
đình tại 1.200 xã/phường thuộc 61 tỉnh.
50
40
30
20
10
0
1984 1986 1988 1990
PHC & PCFPS DHS 1997 DHS 2002
1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004 2006
Biểu đồ 4. Các xu hướng IMR theo
các cuộc điều tra PHC & PCFPS và
DHS, 1984-2006
Biểu đồ 5. Những khác biệt theo
khu vực về IMR, theo dữ liệu PCFPS,
2002-2005
Nguồn: TCTK (2007).
40
30
20
10
0
2002 2003 2004 2005
Tây Bắc
Tây Nguyên
Đông Bắc
Bắc Trung Bộ
Ven biển Trung bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng Bắc bộ
Đông Nam bộ
70
60
50
40
30
20
10
0
%
1976
Bệnh truyền nhiễm Bệnh không truyền nhiễm
Tai nạn, thương tích và ngộ độc
1986 1996 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Biểu đồ 6. Nguyên nhân chết theo
báo cáo của các cơ sở y tế công lập
trong các năm 1978-2007
Nguồn: Niên giám thống kê y tế của Bộ Y tế các năm
2001-2007.