Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà nước đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.3 KB, 85 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, hệ thống Kho bạc Nhà nước
đã góp phần cùng với toàn ngành Tài chính đạt được nhiều kết quả, đóng góp
tích cực, có hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng, đổi mới đất nước thông qua
việc tập trung kịp thời, đầy đủ nguồn thu cho NSNN, đáp ứng kịp thời nhu
cầu chi của Chính phủ, huy động một lượng vốn lớn cho ngân sách và cho
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; KBNN đã cung cấp thông tin kịp thời, chính
xác tình hình thu, chi ngân sách phục vụ sự chỉ đạo điều hành của các cơ quan
trung ương và chính quyền địa phương, góp phần đắc lực vào việc nâng cao
chất lượng quản lý và điều hành tài chính, ngân sách nhà nước, quỹ NSNN.
Là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức bộ máy được xác lập ngay từ ngày
đầu thành lập ngành Kho bạc Nhà nước, hệ thống thanh tra, kiểm tra Kho bạc
Nhà nước hiện nay và Thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà nước trước đây trong
chặng đường 20 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, đã không ngừng
được củng cố về tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ thanh tra, kiểm tra ngày
càng được nâng cao; quy trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ
cũng không ngừng được đổi mới, và dần được hoàn thiện. Vì vậy, hệ thống
thanh tra, kiểm tra KBNN thực sự đã khẳng định được vai trò và vị trí của
mình trong sự phát triển đi lên và ngày càng vững mạnh của hệ thống KBNN,
là công cụ đắc lực, là bộ phận tham mưu không thể thiếu của Lãnh đạo
KBNN các cấp trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động KBNN.
Trước yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện mục tiêu cải cách tài chính công đòi hỏi
KBNN phải có những cải cách mạnh mẽ về thể chế chính sách, hoàn thiện bộ
1
máy, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 138/2007/QĐ-TTg ngày 21/8/2007 phê duyệt
Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020; đồng thời Bộ trưởng Bộ Tài
chính cũng đã ban hành Chỉ thị số 04/2007/CT-BTC ngày 12/12/2007 và
Quyết định số 3873/QĐ-BTC ngày 12/12/2007 hướng dẫn tổ chức thực hiện


chiến lược phát triển KBNN. Trên cơ sở đó, đổi mới công tác thanh tra, kiểm
tra Kho bạc Nhà nước là tất yếu. Đổi mới để đảm bảo sự an toàn và phát triển
của hệ thống, để thích nghi với hoạt động quản lý quỹ NSNN, hoạt động KB
trong tình hình mới và phù hợp với chiến lược cải cách hành chính, chiến
lược phát triển ngành tài chính, cũng như chiến lược phát triển KBNN.
Mặt khác, trong những năm vừa qua hoạt động thanh tra, kiểm tra
KBNN vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc và hạn chế nhất định như: Lực
lượng thanh tra, kiểm tra KBNN còn mỏng, chưa được chuẩn hoá, trình độ
chuyên môn của một số cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới;
khung pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra kho bạc còn thiếu; quy trình
nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra chưa được hoàn thiện kịp thời so với những thay
đổi của các hoạt động nghiệp vụ KBNN; một số KBNN tỉnh, thành phố vẫn
chưa thực sự quan tâm đến công tác thanh tra, kiểm tra
Xuất phát từ tình hình thực tế nói trên, là một cán bộ làm công tác
thanh tra, kiểm tra tại KBNN tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Đổi mới hoạt
động thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà nước đến năm 2020” với mong muốn
đưa ra những giải pháp có tính khoa học và thực tiễn nhằm góp phần vào quá
trình đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN nói riêng và chiến lược
phát triển KBNN đến 2020 nói chung.
2
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu yêu cầu, sự cần thiết khách quan đổi mới hoạt động
thanh tra, kiểm tra KBNN đối với sự phát triển an toàn, ổn định của hệ
thống KBNN.
- Làm rõ thực trạng, hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN
trong giai đoạn hiện nay, những kết quả đạt được và những tồn tại, vướng
mắc của hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN.
- Nghiên cứu tình hình và thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra
KBNN trong những năm vừa qua, phân tích đánh giá rút ra những ưu điểm,
tồn tại và nguyên nhân trong quá trình hoạt động từ đó đưa ra những giải pháp

nhằm hoàn thiện, đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu lý luận, thực tiễn hoạt
động thanh tra, kiểm tra KBNN.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Luận văn tập trung vào sự cần thiết phải hoàn thiện, đổi mới hoạt
động thanh tra, kiểm tra KBNN.
- Đánh giá thực trạng, hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN
những năm vừa qua, định hướng và giải pháp đổi mới hoạt động thanh tra,
kiểm tra KBNN đến năm 2020.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã khái quát những lý luận chung về hoạt động thanh tra, kiểm
tra KBNN và nêu bật vai trò của hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN đối với
quá trình hoạt động của KBNN.
3
Bằng lý luận và thực tiễn đã làm rõ vai trò của hoạt động thanh tra,
kiểm tra KBNN, phân tích thực trạng của thanh tra, kiểm tra KBNN trong giai
đoạn hiện nay, những tồn tại trong hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN và
những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, vướng mắc đó.
Trên cơ sở những tồn tại, vướng mắc của hoạt động TTKT KBNN đề
tài đã đề xuất những giải pháp cơ bản để đổi mới hoạt động của TTKT KBNN
và những kiến nghị để TTKT KBNN hoạt động hiệu quả hơn.
5. Kết cấu của đề tài
Tên của đề tài: “Đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà
nước đến năm 2020”
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà nước
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà nước
Chương 3: Những giải pháp cơ bản đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra

Kho bạc Nhà nước đến năm 2020
4
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA, KIỂM TRA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA, KIỂM TRA
1.1.1 Khái niệm thanh tra, kiểm tra
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Nhà nước đã xuất hiện
với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng với sứ mạng lịch sử là duy trì
trật tự xã hội. Để thực hiện được sứ mạng lịch sử đó, Nhà nước thể hiện sự
quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động của xã hội. Nhiệm vụ cơ bản
trong quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước là dự đoán, kế hoạch tổ chức,
động viên, điều hành, thanh tra, kiểm tra. Như vậy, thanh tra, kiểm tra luôn
gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước.
Hiện nay có một số quan niệm về thanh tra:
Theo nghiệp vụ công tác thanh tra – Trường cán bộ thanh tra: “Thanh
tra xuất phát từ tiếng Latinh (In-spectare) có nghĩa là “nhìn vào bên trong”
chỉ “một sự xem xét từ bên ngoài vào một đối tượng nhất định” (11,tr.9)
Theo Giáo trình Thanh tra tài chính – Học viện tài chính: “Thanh tra là
hoạt động kiểm tra của tổ chức thanh tra nhà nước đối với đối tượng thanh
tra nhằm phát hiện, chấn chỉnh những sai lầm, xử lý những vi phạm trong các
hoạt động kinh tế - xã hội giúp cho bộ máy quản lý vận hành tốt”. (9,tr.5)
Theo Luật Thanh tra năm 2004: “Thanh tra nhà nước là việc xem xét,
đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo
5
thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật thanh tra và các quy
định khác của pháp luật”. (2)
Như vậy, từ những khái niệm trên ta có thể hiểu, thanh tra là hoạt động
kiểm tra, xem xét, đánh giá, xử lý của chủ thể quản lý với đối tượng quản lý

nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, chính
sách chế độ của Nhà nước và các quy định của cơ quan, tổ chức.
Thanh tra là hoạt động kiểm tra cho nên giữa thanh tra và kiểm tra
có những điểm giống nhau.
Thanh tra và kiểm tra đều có cùng mục đích là phát hiện, ngăn ngừa, xử lý
những vi phạm pháp luật, quy chế, chế độ quản lý góp phần thúc đẩy các tổ
chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành cơ chế quản lý, tăng cường pháp
chế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thanh tra và kiểm tra đều phải xem xét hoạt động thực tế của đối tượng
để phát hiện, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình một cách chính xác,
khách quan, trung thực, xử lý sai phạm. Do đó, giữa thanh tra và kiểm tra có
thể có cùng nội dung hoặc phương pháp tiến hành trong những phạm vi công
việc nhất định.
Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra có sự khác nhau:
Về chủ thể: Chủ thể của hoạt động thanh tra và kiểm tra là không giống
nhau. Chủ thể của thanh tra là các tổ chức thanh tra chuyên trách về kiểm tra
của Nhà nước. Đó là thanh tra nhà nước gồm, các cơ quan thanh tra hành
chính và thanh tra chuyên ngành (thanh tra Ngân hàng, thanh tra Tài chính,
Thanh tra Thuế, ). Trong hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh tra có thể sự
dụng các cán bộ ngoài ngành thanh tra tham gia nhưng điều quan trọng là
những người tiến hành công tác thanh tra phải có tư cách pháp lý do cơ quan
6
có thẩm quyền quyết định để khi cần thiết họ có thể sử dụng tối đa các quyền
của mình đối với các đối tượng thanh tra.
Chủ thể kiểm tra rộng hơn. Nó bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước,
các cơ quan thanh tra, Thủ trưởng các đơn vị, các tổ chức quần chúng và
người lao động cũng có thể thanh tra trực tiếp kiểm tra.
Cơ quan thanh tra nhà nước thực hiện việc kiểm tra đối với doanh
nghiệp, cơ quan. Cơ quan thanh tra nhà nước không kiểm tra thường xuyên,
mà kiểm tra theo vụ việc được phát hiện. Cơ quan này vừa kiểm tra, vừa có

quyền xử lý kết quả kiểm tra đó. Như vậy có thể nói thanh tra là kiểm tra từ
bên ngoài vào đối tượng; còn kiểm tra có khi do bản thân đối tượng đó thực
hiện (tự kiểm tra), không nhất thiết do bên ngoài kiểm tra.
Về nội dung: Nội dung thanh tra thường là những vấn đề phức tạp, bao
gồm những hành vi thuộc về quá khứ. Hoạt động thanh tra là kiểm tra ở giai
đoạn sau khi các hoạt động giải quyết các “tồn đọng” trong quản lý; giải
quyết các khiếu nại, tố cáo đối với các đối tượng kiểm tra vi phạm pháp luật.
Có thể khẳng định, nội dung thanh tra thường là phức tạp, có những vấn đề
bộc lộ ra bề nổi, song rất nhiều vấn đề bị che đậy bởi những vẻ bề ngoài khác
nhau và khó nhận biết được bản chất của sự việc. Để có kết luận chính xác,
những đánh giá đúng đắn về các vụ việc, đòi hỏi phải có thời gian, có nghiệp
vụ thanh tra để kiểm tra, thu thập các tài liệu chứng cứ cần thiết.
Nội dung hoạt động kiểm tra thường là những vấn đề trong hiện tại, dễ
nhận biết thực chất của chúng hơn. Tất nhiên, nội dung kiểm tra bao gồm
những nội dung cụ thể của kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau khi
các hoạt động kinh tế - xã hội phát sinh, cũng như việc kiểm tra thực hiện các
chính sách, pháp luật, chế độ, thể lệ quản lý của Nhà nước, nhưng chủ yếu là
kiểm tra thường xuyên trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội. Vì
7
vậy, khi tiến hành kiểm tra cũng dễ nhận biết thực chất của vấn đề, không đòi
hỏi phải có những biện pháp nghiệp vụ phức tạp để xác minh tài liệu, chứng
cứ mà vẫn có thể đánh giá đúng đắn và có kết luận chính xác.
Về phạm vi: hoạt động kiểm tra diễn ra ở tất cả các hoạt động kinh tế -
xã hội, nó được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, ở mọi nơi với
nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra thích hợp với các yêu cầu, đặc
điểm, nội dung hoạt động của những đối tượng kiểm tra.
Phạm vi của hoạt động thanh tra hẹp hơn. Hoạt động thanh tra là kiểm
tra ở gia đoạn sau khi các hoạt động kinh tế - xã hội đã phát sinh. Điều đó có
nghĩa là thanh tra chỉ bó hẹp ở giai đoạn sau. Muốn xác minh hồ sơ, tài liệu,
thu thập chứng cứ đầy đủ để đánh giá đúng, kết luận chính xác, khách quan

những nội dung cần thanh tra cũng cần phải kiểm tra các giai đoạn trước và
trong khi thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội với các chính sách, pháp
luật, chế độ liên quan. Điều đó có nghĩa là, để kiểm tra sau phải thẩm định
lại, kiểm tra lại những thông tin xảy ra trước mới đưa đến những thông tin
cuối cùng.
Kiểm tra của hoạt động thanh tra dựa vào các số liệu, sổ sách thống kê,
kế toán, các báo cáo quyết toán đã ghi chép, tính toán, phản ánh cả quá trình
phát sinh các nghiệp vụ kinh tế - tài chính theo thời gian và không gian của
chúng. Nói khác đi, tài liệu, số liệu thanh tra tác động tới là những tài liệu, số
liệu của quá khứ, khi các hoạt động kinh tế - xã hội đã kết thúc.
Về thời gian: Hoạt động thanh tra được tổ chức theo từng cuộc nên thời
gian thường dài.
Đối với hoạt động kiểm tra, thời gian ngắn hơn.
8
Về hình thức tổ chức: Để tiến hành hoạt động thanh tra phải thành
lập Đoàn và Đoàn thanh tra thực hiện trình tự thanh tra theo quy định của
pháp luật.
Đối với kiểm tra có thể thành lập Đoàn hoặc không cần thành lập Đoàn,
có khi chỉ cần cấp dưới tự kiểm tra một hoặc một số nội dung và báo cáo kết
quả bằng văn bản cho cấp trên.
Công tác thanh tra và kiểm tra tuy có sự khác nhau, song đều là những
hoạt động không thể thiếu được trong công tác quản lý của Nhà nước. Việc
phân định giữa thanh tra và kiểm tra không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, mà
còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc tổ chức, chỉ đạo, để tránh tình trạng
chồng chéo giữa công tác thanh tra và kiểm tra, giảm bớt phiền hà cho các tổ
chức và cá nhân là đối tượng thanh tra, kiểm tra.
1.1.2 Sự cần thiết của hoạt động thanh tra, kiểm tra
Thanh tra luôn gắn với Nhà nước, là một hoạt động không thể tách rời
của cơ quan nhà nước, sự cần thiết khách quan của hoạt động thanh tra được
bắt nguồn từ các lý do cơ bản sau:

Thứ nhất, Thanh tra, kiểm tra là chức năng chủ yếu của quản lý nhà
nước. Thanh tra kiểm tra là một khâu của quá trình quản lý, có vai trò quan
trọng trong việc kiểm định và đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước,
đề xuất biện pháp hoàn thiện cơ chế chính sách.
Thứ hai, Thanh tra là phương thức đảm bảo trật tự kỷ cương trong
quản lý, góp phần tăng cường pháp chế XHCN. Hoạt động của thanh tra là
phát hiện, phòng ngừa và xử lý vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước,
vi phạm các quy tắc, quy trình của các cơ quan tổ chức; giải quyết khiếu nại
tố cáo đảm bảo cho pháp luật được thực thi đúng đắn.
9
Thứ ba, Thanh tra, kiểm tra là một phương thức góp phần bảo đảm
quyền dân chủ của nhân dân. Ở nước ta quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà
nước có nghĩa vụ chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp cho nhân dân, nhân dân
thực hiện quyền kiểm tra giám sát thông qua nhiều con đường, trong đó có
hoạt động các cơ quan nhà nước do mình bầu ra, và thông qua quyền trực tiếp
khiếu nại tố cáo, hoạt động của các cơ quan thanh tra là một phương thức đảm
bảo các quyền dân chủ này.
1.1.3 Mục đích và nguyên tắc hoạt động thanh tra, kiểm tra
Trên những nét tổng thể, có thể nhận thấy mục đích của thanh tra, kiểm
tra trên các khía cạnh sau:
Hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật, trong đó phòng ngừa là mục đích chủ yếu, trực
tiếp của hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục là
mục đích quan trọng của hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Phát hiện nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là mục đích gián tiếp nhưng có
tác động quan trọng tới hiệu quả quản lý.

Để đạt được mục đích đề ra, trong hoạt động thanh tra cần quán triệt
các nguyên tắc cơ bản sau:
Hoạt động thanh tra, kiểm tra phải tuân theo pháp luật: Nhà nước ta là
Nhà nước pháp quyền XHCN, pháp luật vừa là chuẩn mực trong hoạt động
quản lý kinh tế - xã hội, vừa tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt
10
động này. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi khâu của hoạt động thanh tra phải
được thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự do pháp luật quy định, mọi
đánh giá nhận xét đều phải dựa trên quy định của pháp luật làm chuẩn mực và
hệ thống pháp luật cũng cần phải được liên tục hoàn thiện để phù hợp với
thực tế khách quan.
Hoạt động thanh tra phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực:
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động thanh tra phải tôn trọng sự thật, đánh giá
đúng như nó vốn có, không được áp đặt, suy diễn chủ quan, tùy tiện. Để
thực hiện được nguyên tắc này, cán bộ thanh tra cần có kiến thức vững
vàng và đạo đức trong sáng, phải quán triệt nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện
tượng theo quan điểm duy vật biện chứng: toàn diện, lịch sử cụ thể, thực
tiễn và phát triển.
Hoạt động thanh tra phải bảo đảm dân chủ, công khai và kịp thời:
nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động thanh tra phải đặt lợi ích của nhân dân lên
trên, lắng nghe tôn trọng ý kiến quần chúng nhân dân, không được cửa quyền
hách dịch coi thường hoặc ức hiếp quần chúng nhân dân; hoạt động thanh tra
phải tuân theo quy trình rõ ràng và minh bạch, có cơ chế giám sát việc thực
hiện hoạt động thanh tra. Hoạt động thanh tra cần tuân theo thời hạn nhất định
và tiến hành đúng lúc. Công khai dân chủ là một giải pháp phòng chống tham
nhũng trong hoạt động thanh tra.
Hoạt động thanh tra không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra: hoạt động thanh tra là một loại
hoạt động của bộ máy công quyền, vừa quản lý xã hội nhưng cũng phải phục
vụ xã hội. Do vậy nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động thanh tra cần có sự phối

kết hợp tốt với đối tượng thanh tra để tổ chức hoạt động thanh tra một cách
phù hợp với điều kiện thực tế, thời gian và hoàn cảnh của đơn vị, không làm
11
ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh hay tổ chức điều hành vốn có
của cơ quan đơn vị được thanh tra.
1.2 THANH TRA, KIỂM TRA KBNN
1.2.1 Khái niệm thanh tra, kiểm tra KBNN
Thanh tra KBNN (gọi tắt là thanh tra kho bạc) là đơn vị thuộc KBNN,
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với các tổ chức cá nhân sử
dụng ngân sách nhà nước trong việc chấp hành pháp luật thuộc phạm vi quản
lý của KBNN; thanh tra hành chính đối với các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm
quyền quản lý của Tổng giám đốc KBNN nhằm kết luận đúng sai đánh giá ưu
điểm, khuyết điểm, phòng ngừa và xử lý những vi phạm, tăng cường pháp
chế, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có quan hệ
với quỹ NSNN và kiểm soát chi NSNN qua KBNN.
Kiểm tra KBNN là việc hoạt động kiểm tra, giám sát của hệ thống
thanh tra, kiểm tra KBNN và hoạt động kiểm tra của các bộ phận chuyên
môn đối với các hoạt động nghiệp vụ của KBNN, nhằm giúp Lãnh đạo
KBNN các cấp điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật các mặt
hoạt động của KBNN.
Thanh tra, kiểm tra KBNN được tổ chức theo cấp hành chính, ở Trung
ương có Thanh tra KBNN; ở địa phương có Phòng Thanh tra thuộc KBNN
các tỉnh, thành phố.
1.2.2 Đặc điểm hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN
Một là, hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN là loại hoạt động tổng
hợp và đa dạng
Hoạt động KBNN có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đơn
vị và công dân có quan hệ với NSNN, tài chính, tài sản của Nhà nước. Chính
12
vì vậy hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN có đặc điểm là loại hình hoạt

động tổng hợp và đa dạng.
Tính tổng hợp của thanh tra, kiểm tra KBNN biểu hiện ở sự việc hay
nội dung thanh tra, kiểm tra có liên quan đến nhiều lĩnh vực, mỗi lĩnh vực lại
tổng hợp nhiều vấn đề có ảnh hưởng lẫn nhau. Kết quả của thanh tra, kiểm tra
KBNN là những báo cáo, kết luận, giải quyết xử lý không chỉ có giá trị đối
với đơn vị được thanh tra mà còn có tác dụng chung trong hệ thống quản lý
tài chính, ngân sách nhà nước.
Tính đa dạng của thanh tra, kiểm tra KBNN biểu hiện ở sự việc thanh
tra, đối tượng thanh tra, kiểm tra, loại hình thanh tra, kiểm tra, phương pháp
thanh tra, kiểm tra là khác nhau, như: thanh tra, kiểm tra công tác quản lý quỹ
NSNN, quản lý vốn tiền mặt, tài sản; thanh tra, kiểm tra công tác kiểm soát
chi NSNN; kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB; chương trình mục tiêu;
thanh tra, kiểm tra công tác phát hành, thanh toán trái phiếu, tín phiếu, chi trả
công trái; quản lý kinh phí nội bộ, công tác XDCB nội ngành…
Quản lý NSNN và hoạt động KBNN là một hoạt động tổng hợp và đa
dạng, mỗi quyết định liên quan đến lĩnh vực quản lý NSNN và hoạt động
KBNN là sản phẩm của sự vận dụng tổng hợp các kiến thức kinh tế, xã hội và
mục tiêu của các quyết định quản lý không chỉ hướng tới và được do bằng giá
trị cụ thể mà là hiệu quả kinh tế, xã hội. Thanh tra, kiểm tra KBNN là một
hoạt động tổng hợp, đa dạng là vì thế.
Hai là, Thanh tra, kiểm tra KBNN là hoạt động thường phải đấu
tranh với những sai trái, tiêu cực, vi phạm trong việc chấp hành các quyết
định quản lý, chấp hành pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, ngân sách
của các cơ quan, đơn vị và công dân cũng như của chính cơ quan KBNN
và công chức trong ngành kho bạc.
13
Thanh tra, kiểm tra KBNN có đặc trưng là xem xét tại chỗ, chấn chỉnh,
kiến nghị hoặc làm rõ đúng sai đối với vụ việc và con người có quan hệ đến vi
phạm quản lý tài chính, ngân sách của Nhà nước. Kết quả tác động của thanh
tra, kiểm tra KBNN đối với đối tượng thanh tra, kiểm tra không phải là sự

phản ánh đơn thuần mà là sự khẳng định việc làm đúng hay sai, ảnh hưởng
đến thực hiện quyết định quản lý tài chính, ngân sách. Vì thế, hoạt động thanh
tra, kiểm tra KBNN trong hoàn cảnh nào, điều kiện nào, nội dung sự việc ra
sao, bao giờ cũng là sự đấu tranh của hai mặt đối lập đúng, sai, tích cực, tiêu
cực trong hoạt động quản lý kinh tế, tài chính, NSNN để tìm ra nguyên nhân,
đề xuất kiến nghị, biện pháp khắc phục, đấu tranh phòng ngừa, xử lý vi phạm,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Ba là, tổ chức, cá nhân được thanh tra, kiểm tra KBNN vừa là đối
tượng thanh tra, kiểm tra vừa là chủ thể quản lý
Thanh tra, kiểm tra KB là một chức năng thiết yếu của KBNN và phạm
vị quản lý của KBNN mở rộng đến đâu thì phạm vi thanh tra, kiểm tra KB
cũng được mở rộng đến đó. Tổ chức và cá nhân được thanh tra, kiểm tra
KBNN hiện nay chủ yếu là KBNN các cấp, cá nhân thuộc hệ thống KBNN,
họ có quyền hạn và trách nhiệm nhất định trước pháp luật, họ vừa là đối
tượng thanh tra, vừa là chủ thể quản lý.
Là đối tượng thanh tra: KBNN các cấp, cá nhân được thanh tra, kiểm
tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của đoàn TTKT KB, có trách nhiệm
pháp lý đối với những tài liệu, số liệu cung cấp theo yêu cầu của đoàn TTKT
KB.
Là chủ thể quản lý: họ có trách nhiệm về hoạt động của mình. Họ có
quyền biết mục tiêu, nội dung, kế hoạch TTKT KB, được tham gia thảo
luận những nhận xét, kết luận cũng như những giải pháp xử lý của đoàn
14
TTKT; được quyền giải trình những điểm chưa nhất trí, đồng thời có trách
nhiệm tổ chức thực hiện những kết luận, kiến nghị, giải quyết xử lý đối
với những sai phạm.
Xem xét các đặc điểm của hoạt động thanh tra, kiểm tra KB cho thấy,
mỗi sự việc, nội dung thanh tra, kiểm tra KB có liên quan đến nhiều yếu tố
nên khi tiến hành TTKT phải nghiên cứu, phân tích toàn diện, tìm ra những
yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự việc, nội dung TTKT và trên cơ sở đó rút ra

những kết luận có giá trị đích thực không chỉ với đối tượng TTKT mà còn đối
với hoạt động quản lý. Mặt khác, trong quá trình TTKT KB, giữa đoàn thanh
tra, kiểm tra với đơn vị được thanh tra, kiểm tra, cấp quản lý đoàn thanh tra,
kiểm tra, cơ quan, đơn vị quản lý nghiệp vụ cấp trên đơn vị được thanh tra
phải cộng tác, phối hợp chỉ đạo chặt chẽ, khẩn trương xử lý vướng mắc nảy
sinh phải tuân thủ nguyên tắc thận trọng, bình đẳng và dân chủ.
1.2.3 Nội dung hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các chính sách, pháp luật tài chính,
ngân sách nhà nước nhằm giữ nghiêm kỷ luật chấp hành, góp phần bảo vệ tài
sản, vốn của nhà nước, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tổ chức,
công dân. Công tác thanh tra, kiểm tra KBNN được triển khai trên tất cả các
mặt hoạt động nghiệp vụ, đặc biệt tập trung vào những lĩnh vực chủ yếu có
liên quan đến việc quản lý tiền, tài sản như: công tác quản lý quỹ NSNN,
quản lý vốn tiền mặt, tài sản; kiểm soát chi NSNN; kiểm soát thanh toán vốn
đầu tư XDCB, chương trình mục tiêu; phát hành, thanh toán trái phiếu, tín
phiếu, chi trả công trái; quản lý tài chính, tài sản nội bộ, công tác XDCB nội
ngành.
Tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
giải quyết của KBNN.
15
Thanh tra KBNN (gọi tắt là thanh tra kho bạc) là đơn vị thuộc KBNN,
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với các tổ chức cá nhân sử
dụng ngân sách nhà nước trong việc chấp hành pháp luật thuộc phạm vi quản
lý của KBNN; thanh tra hành chính đối với các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm
quyền quản lý của Tổng giám đốc KBNN.
Thanh tra hành chính KB là hoạt động thanh tra của Thanh tra KBNN
đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân thuộc quyền quản lý của Tổng Giám đốc KBNN.
Chủ thể của thanh tra hành chính KB là Thanh tra KBNN và Phòng
thanh tra KBNN tỉnh, thành phố.

Đối tượng của thanh tra hành chính KB là các cơ quan, tổ chức, cá
nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Tổng Giám đốc KBNN. Như vậy, hoạt
động thanh tra hành chính của KBNN chủ yếu nhằm vào bản thân bộ máy
quản lý, xem xét, đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật, quy trình,
nghiệp vụ của cán bộ, công chức trong hệ thống KBNN.
Điều đó thể hiện sự kiểm tra, giám sát của KBNN cấp trên đối với
KBNN cấp dưới trong hệ thống KBNN. Theo dõi, đánh giá, đôn đốc KBNN
cấp dưới thực hiện nhiệm vụ là một nội dung hết sức quan trọng của công tác
thanh tra hành chính KBNN.
Thanh tra chuyên ngành KB là hoạt động thanh tra của KBNN đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định,
quy trình quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KB thuộc thẩm quyền quản lý
của KBNN.
Chủ thể của thanh tra chuyên ngành KB là Thanh tra KBNN và Phòng
thanh tra KBNN tỉnh, thành phố.
16
Đối tượng của thanh tra chuyên ngành KB là mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân sử dụng ngân sách nhà nước trong việc chấp hành pháp luật thuộc phạm
vi quản lý của KBNN.
Kiểm tra KBNN là việc hoạt động kiểm tra, giám sát của hệ thống thanh
tra, kiểm tra KBNN và hoạt động kiểm tra của các bộ phận chuyên môn đối với
các hoạt động nghiệp vụ của KBNN, nhằm giúp Lãnh đạo KBNN các cấp điều
hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật các mặt hoạt động của KBNN.
Chủ thể của kiểm tra KBNN là Thanh tra KBNN, Các Vụ, Cục chuyên
môn thuộc KBNN, Phòng thanh tra và các phòng chuyên môn KBNN tỉnh,
thành phố.
Đối tượng của kiểm tra KBNN là tất cả các cán bộ, công chức KBNN,
KBNN các cấp trong việc chấp hành pháp luật nhà nước, chính sách chế độ
của Bộ Tài chính, quy chế, quy trình nghiệp vụ KBNN
1.2.4 Quy trình và phương pháp thanh tra, kiểm tra

1.2.4.1 Quy trình tiến hành một cuộc thanh tra, kiểm tra KBNN
Quy trình tiến hành một cuộc TTKT KB là trình tự tiến hành công việc
của một cuộc TTKT KB sắp xếp theo thứ tự phù hợp với diễn biến khách
quan của hoạt động TTKT và được áp dụng thống nhất cho các cuộc TTKT
KB. Quy trình tiến hành một cuộc TTKT KB bao gồm các bước:
- Chuẩn bị thanh tra, kiểm tra
- Thực hiện thanh tra, kiểm tra
- Kết thúc thanh tra, kiểm tra
Mỗi bước có yêu cầu và nội dung khác nhau nhưng có liên quan đến
nhau, bước trước là tiền đề cho bước sau, bước sau là kết quả của bước trước.
17
* Chuẩn bị thanh tra, kiểm tra
Chuẩn bị thanh tra, kiểm tra là khảo sát nắm tình hình về đối tượng TTKT,
xác định mục tiêu và khối lượng công việc, thời gian bắt đầu và thời gian phải
hoàn thành cuộc TTKT chuẩn bị các thủ tục hành chính cho cuộc TTKT.
Kết quả bước này là bản kế hoạch TTKT được duyệt và quyết định
TTKT được ban hành, có đủ nhân lực và trang bị kiến thức, phương tiện cần
thiết cho cuộc TTKT.
Yêu cầu của bước này là phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt nhằm đảm bảo
cho đoàn TTKT hoặc các thành viên trong Đoàn TTKT hiểu biết thấu đáo yêu
cầu nhiệm vụ, nắm được nội dung cần TTKT.
* Thực hiện thanh tra, kiểm tra
Là bước đoàn TTKT KB tiếp xúc với đơn vị, cá nhân được TTKT thực
hiện kế hoạch TTKT đã được Lãnh đạo phê duyệt.
Yêu cầu của bước này: cần nắm vững các nguyên tắc TTKT để tiến hành
xác minh số liệu, tài liệu một cách chu đáo đảm bảo tính chính xác, khách quan
làm căn cứ cho các chấn chỉnh, kết luận và kiến nghị giải pháp xử lý.
* Kết thúc thanh tra
Yêu cầu của bước này là đoàn TTKT phải dựa vào quy định của cơ
quan quản lý, dựa vào chứng cứ và phân tích sâu sắc các nhân tố ảnh hưởng

để có kết luận chính xác và kiến nghị xử lý đúng đắn, thiết thực. Cụ thể:
- Làm cho KBNN các cấp, đơn vị, cá nhân được TTKT nhận rõ ưu
điểm để phát huy, khuyết điểm cần khắc phục trong quản lý quỹ NSNN và
hoạt động nghiệp vụ KB, thực hiện nhiệm vụ được tốt hơn.
18
- Làm cho KBNN cấp trên của đơn vị, cá nhân được TTKT, các bộ
phận chuyên môn thuộc KBNN các cấp thấy rõ trách nhiệm và có các biện
pháp chỉ đạo sát hơn, hiệu quả hơn.
- Đề xuất được những vấn đề cần thay đổi, bổ sung về chính sách, chế
độ quản lý quỹ NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN hoặc biện pháp Lãnh
đạo của đơn vị một cách thiết thực, đúng trọng tâm.
- Rút ra được những kinh nghiệm về phương pháp và nghiệp vụ TTKT
KB.
1.2.4.2 Phương pháp thanh tra, kiểm tra KBNN
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động TTKT KB và để tiến hành những
nội dung đã xác định trong kế hoạch TTKT, TTKT KB vận dụng tổng hợp
nhiều phương pháp khác nhau. Sau đây là một số phương pháp có thể dẫn ra:
- Phương pháp trực tiếp
- Phương pháp khai thác tài liệu
- Phương pháp kiểm kê
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp chọn mẫu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Quá trình thực hiện TTKT thực chất là quá trình Đoàn TTKT vận dụng
các phương pháp kỹ thuật TTKT nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng có độ
tin cậy cao và có giá trị để làm cơ sở cho lập báo cáo TTKT. Trong thực tiễn,
19
mỗi nội dung TTKT KB, Đoàn TTKT, các thành viên đoàn TTKT thường

phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp để mang lại hiệu quả cao.
1.3 SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG THANH TRA, KIỂM TRA KBNN
1.3.1 Vai trò của hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN
Một là, Bảo đảm an toàn hệ thống KBNN
Trong hệ thống tài chính quốc gia, KBNN giữ vai trò quan trọng và
đảm nhiệm chức năng quản lý các quỹ tài chính nhà nước, trong đó có quỹ
NSNN, huy động và tập trung nguồn ngân quỹ cho nhà nước và đầu tư phát
triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống KBNN ở nước ta,
phát triển KBNN ổn định, an toàn và hiện đại đạt mục tiêu nâng cao hiệu quả
quản lý NSNN, đảm bảo tính công khai, minh bạch và khả năng kiểm tra,
giám sát ngân sách và các hoạt động khác của KBNN, đã đặt ra yêu cầu tăng
cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN để giữ an toàn hệ
thống. Trong những năm qua, một trong những mục đích đầu tiên của hoạt
động TTKT KBNN là đảm bảo tính an toàn hệ thống để các KBNN hoạt động
đúng quy định của Ngành, của Bộ Tài chính và đúng Luật.
Hai là, tăng cường kỷ cương pháp luật trong quản lý quỹ NSNN và
hoạt động KBNN
Thanh tra, kiểm tra luôn gắn với nhà nước, lịch sử đã chứng minh, có
nhà nước là có thanh tra, công cụ kiểm tra giám sát phục vụ yêu cầu quản lý
của nhà nước, giúp nhà nước quản lý kinh tế xã hội. Hoạt động thanh tra,
kiểm tra KBNN gắn bó hữu cơ với thẩm quyền quản lý Nhà nước của KBNN,
đây là vấn đề quan trọng có quan hệ đến hiệu quả và hiệu lực thanh tra, kiểm
tra KBNN, do vậy phải phát huy hết vai trò của KBNN các cấp trong hoạt
20
động TTKT KB, thông qua hoạt động TTKT KB có tác dụng giúp KBNN các
cấp kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định quản lý góp phần hoàn thiện cơ
chế, chính sách khắc phục sơ hở thiếu sót trong quản lý, giữ vững kỷ cương
pháp luật bảo vệ lợi ích của nhà nước và quyền lợi hợp pháp của các tổ chức,
cá nhân.

Bên cạnh đó, hoạt động TTKT KB còn phát hiện, ngăn ngừa và chấn
chỉnh, xử lý theo thẩm quyền, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi
phạm pháp luật về quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KB khác.
Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về quản lý quỹ
NSNN và các hoạt động KB khác.
Xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy
định của Luật KNTC các vụ việc thuộc thẩm quyền của KBNN có liên quan
đến tổ chức và hoạt động KB, tham mưu giúp Tổng Giám đốc KBNN chỉ đạo
công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành Kho bạc.
Tiến hành các cuộc TTKT thường xuyên, đột xuất về chấp hành các
quy định của pháp luật, chế độ, chính sách của BTC và quy trình nghiệp vụ
KB về lĩnh vực quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KB khác.
Ba là, góp phần ổn định và phát triển hệ thống KBNN
Thanh tra, kiểm tra KBNN là một bộ phận quan trọng góp phần không
nhỏ giữ vững sự ổn định của hệ thống KBNN, vì vậy hoạt động của hệ thống
KBNN không thể tách rời hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN.
Thanh tra, kiểm tra KB hàng năm đã tiến hành các cuộc TTKT định kỳ
hoặc đột xuất… để kiểm tra tình hình hoạt động của các Vụ chuyên môn tại
21
KBNN; KBNN các cấp, khi phát hiện sai phạm sẽ tiến hành chấn chỉnh, xử lý
theo quy định hiện hành.
Thẩm tra, xác minh, kết luận kiến nghị việc giải quyết KNTC theo quy
định của Luật KNTC liên quan đến tổ chức và hoạt động Kho bạc, tham mưu
giúp Tổng Giám đốc KBNN chỉ đạo công tác phong ngừa và đấu tranh chống
tham nhũng trong ngành Kho bạc.
Thanh tra, kiểm tra KBNN thường xuyên tiếp nhận đơn thư KNTC và
xác minh tính chính xác và trung thực của thông tin từ đó có những biện pháp
cụ thể xử lý những sai phạm diễn ra trong hoạt động của các KBNN, quy
trách nhiệm của những cá nhân liên quan đến sai phạm đó.
Phát hiện ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền

cho phép, từ đó kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KB.
Kiến nghị Tổng Giám đốc KBNN và cơ quan có thẩm quyền thực hiện
các biện pháp chấn chỉnh, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý quỹ NSNN và
các hoạt động KB. Yêu cầu các đơn vị chấp hành nghiêm các quy định về
quản lý quỹ NSNN và các hoạt động KB, từ đó, góp phần ổn định và phát
triển hệ thống KBNN.
1.3.2 Sự cần thiết đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN
Qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, hệ thống Kho bạc nhà nước
đã góp phần cùng với toàn ngành Tài chính đạt được nhiều kết quả, đóng góp
tích cực, có hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng, đổi mới đất nước thông qua
việc tập trung kịp thời, đầy đủ nguồn thu cho NSNN, đáp ứng kịp thời nhu
cầu chi của Chính phủ, huy động một lượng vốn lớn cho ngân sách và cho
22
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; KBNN đã cung cấp thông tin kịp thời, chính
xác tình hình thu, chi ngân sách phục vụ sự chỉ đạo điều hành của các cơ quan
trung ương và chính quyền địa phương, góp phần đắc lực vào việc nâng cao
chất lượng quản lý và điều hành tài chính, ngân sách nhà nước, quỹ NSNN.
Là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức bộ máy được xác lập ngay từ ngày
đầu thành lập ngành Kho bạc Nhà nước, hệ thống thanh tra, kiểm tra Kho bạc
Nhà nước hiện nay và Thanh tra, kiểm tra Kho bạc Nhà nước trước đây trong
chặng đường 20 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, đã không ngừng
được củng cố về tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ thanh tra, kiểm tra ngày
càng được nâng cao; quy trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ
cũng không ngừng được đổi mới, và dần được hoàn thiện. Vì vậy, hệ thống
thanh tra, kiểm tra KBNN thực sự đã khẳng định được vai trò và vị trí của
mình trong sự phát triển đi lên và ngày càng vững mạnh của hệ thống KBNN,
là công cụ đắc lực, là bộ phận tham mưu không thể thiếu của Lãnh đạo
KBNN các cấp trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động KBNN.
Tuy nhiên xuất phát tự thực tế hiện nay cơ chế quản lý tài chính, ngân sách

không ngừng có những thay đổi trong khi đó công tác thanh tra, kiểm tra còn
tồn tại nhiều bất cập. Để đáp ứng tốt vai trò thanh tra, kiểm tra, ngăn ngừa kịp
thời những sai phạm trong lĩnh vực quản lý tài chính ngân sách nhà nước thì
việc đổi mới hoạt động thanh tra, kiểm tra là hết sức cần thiết.
Để đảm bảo sự an toàn, chất lượng hoạt động hệ thống KBNN trong
giai đoạn tới, để thích nghi với hoạt động quản lý quỹ NSNN, hoạt động KB
trong tình hình mới, phù hợp với chiến lược cải cách hành chính, chiến lược phát
triển ngành tài chính, cũng như chiến lược phát triển KBNN. Đổi mới công tác
thanh tra, kiểm tra KB là một đòi hỏi, yêu cầu tất yếu vì những lý do sau:
23
Một là, phát triển KBNN ổn định, an toàn và hiện đại đạt mục tiêu nâng
cao hiệu quả quản lý NSNN, đảm bảo tính công khai, minh bạch và khả năng
kiểm tra, giám sát ngân sách và các hoạt động khác của KBNN, đã đặt ra yêu
cầu tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra KBNN đối với lĩnh
vực quản lý NSNN và hoạt động KBNN để giữ an toàn, chất lượng hoạt động
hệ thống trong giai đoạn tới.
Hai là, xuất phát từ đòi hỏi của cải cách hành chính trong lĩnh vực tài
chính, cải cách tài chính công và cải cách hành chính trong các hoạt động
KBNN. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra KB là cần thiết: Thanh tra, kiểm
tra phải có trọng tâm, trọng điểm, phải khách quan, công khai và minh bạch.
Mặt khác, cần thiết đổi mới quy trình thanh tra, kiểm tra; đổi mới nội dung
thanh tra, kiểm tra KB trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý quỹ NSNN và
các hoạt động KB. Đổi mới cơ bản hoạt động thanh tra, kiểm tra KB từ hoạt
động thanh tra, kiểm tra trong nội bộ hệ thống kho bạc sang thanh tra, kiểm
tra cả những lĩnh vực, đối tượng bên ngoài thuộc thẩm quyền quản lý của
KBNN và Tổng Giám đốc KBNN.
Ba là, hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ, quy trình nghiệp vụ, công
nghệ quản lý liên quan đến hoạt động quản lý quỹ NSNN và hoạt động KB
trong thời gian qua có nhiều thay đổi. Khi môi trường, cách thức, công nghệ
quản lý thay đổi, để phù hợp với các hoạt động KB trong điều kiện mới thì công

tác thanh tra, kiểm tra KB phải thay đổi là một tất yếu khách quan.
Bốn là, xuất phát từ thực trạng hoạt động TTKT KBNN trong những
năm vừa qua: khung pháp lý cho hoạt động TTKTKB còn thiếu, tính pháp lý
của các kết luận thanh tra, kiểm tra về những sai phạm được phát hiện, chưa
mang tính cưỡng chế, bắt buộc; Việc xử lý kết quả TTKTKB chưa được thực
hiện nghiêm túc triệt để, một số vụ việc phát hiện không làm rõ nguyên nhân,
24
không quy trách nhiệm xử lý đúng người, đúng việc, còn kết luận chung
chung, nể nang, thiếu trách nhiệm; Lực lượng TTKT KB còn mỏng, chưa
được chuẩn hoá, trình độ chuyên môn của cán bộ TTKT chưa đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ, đảm bảo chất lượng hoạt động TTKT; Một số đơn vị
KBNN tỉnh, thành phố vẫn chưa thực sự quan tâm và thực hiện đúng chỉ đạo
của KBNN về công tác thanh tra, kiểm tra
TÓM LẠI CHƯƠNG 1
Chương 1 đã đề cập đến một số vấn đề làm sáng tỏ những lý luận về
thanh tra, kiểm tra và thanh tra, kiểm tra KB như: những vấn đề cơ bản về
thanh tra, kiểm tra; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hoạt động TTKT
KB; đặc điểm, nội dung hoạt động của TTKT KB; quy trình, phương pháp
tiến hành một cuộc TTKT KB và vai trò của hoạt động TTKT KB.
Sau 20 năm, hoạt động thanh tra, kiểm tra ngành kho bạc đã góp phần
không nhỏ vào công cuộc cải cách, phát triển KBNN ổn định, an toàn và hiện
đại đạt mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý NSNN, đảm bảo tính công khai,
minh bạch và khả năng kiểm tra, giám sát ngân sách và các hoạt động khác
của KBNN. Những thành tựu đạt được là rất đáng ghi nhận, tuy nhiên kết quả
này vẫn còn cách xa so với mục tiêu mà KBNN đề ra trong những năm tiếp
theo. Một số đánh giá, khuyến nghị đưa ra dưới đây là nhằm góp phần hỗ trợ
cho công cuộc đổi mới ngành KBNN nói chung và Thanh tra, kiểm tra kho
bạc nói riêng.

25

×