Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.4 KB, 120 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN XUÂN THỌ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ ĐÀ LẠT
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60.14.01.11
Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI VĂN DŨNG
2
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 2
B. NỘI DUNG 10
Chương 1 10
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
ĐÀ LẠT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 10
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường
Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay 10
1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên
Trường Cao đẳng Nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay 28
Kết luận chương 1 41
Chương 2 42
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ ĐÀ LẠT
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 42
Kết luận chương 2 73


Chương 3 74
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG NGHỀ ĐÀ LẠT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 74
3.1. Phương hướng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao
đẳng Nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay 75
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên
Trường Cao đẳng Nghề Đà Lạt 77
Kết luận chương 3 107
C. KẾT LUẬN 109
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
3
PHỤ LỤC 116
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo (từ năm 1986 đến nay), đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả
các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng v.v Trong
những năm gần đây, nền kinh tế của nước ta luôn đạt mức tăng trưởng khá, bộ
mặt xã hội ngày càng thay da đổi thịt, quan hệ hợp tác quốc tế được tăng cường
và mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, đội ngũ lao
động được đào tạo nghề có trình độ đáp ứng nhu cầu của xã hội thông qua hệ
thống các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề.
Góp phần vào thắng lợi ban đầu có ý nghĩa quan trọng này phải kể đến
những đóng góp của ngành giáo dục và đào tạo. Là một ngành ươm mầm xây
dựng tương lai cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi ngành nhằm không ngừng phát
triển đất nước sánh vai với các cường quốc trên toàn thế giới.
4
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, chúng ta cũng không thể phủ
nhận một thực tế khách quan đang còn tồn tại đó là công tác giáo dục đạo đức

nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng chưa
được quan tâm đúng mức, là tác nhân gây nên sự giảm sút không nhỏ tới sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trước tình hình đó, việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh
viên trong các trường đại học, cao đẳng nói chung và học sinh, sinh viên Trường
Cao đẳng Nghề Đà Lạt nói riêng là hết sức cần thiết và cấp bách nhằm làm cho
học sinh, sinh viên – những người tương lai của đất nước trong sáng, cao đẹp về
đạo đức, giàu có về tài năng. Điều đó, đòi hỏi phải có các công trình đi sâu vào
nghiên cứu về vấn đề đạo đức, đạo đức nghề nghiệp và giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho học sinh, sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Công tác đào tạo nghề hiện nay đã tạo ra nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những tác động của nền kinh tế thị trường
đã và đang tạo ra những biến động về giá trị đạo đức trong xã hội và trong tầng lớp
học sinh, sinh viên. Nhà trường cần có sự quan tâm đúng mức và có những biện
pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên thích hợp nhằm tạo ra
sự định hướng tác động thống nhất, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực và phát
huy được những mặt tích cực giúp học sinh, sinh viên rèn luyện những phẩm chất
đạo đức nói chung và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp nói riêng để họ vững bước
vào cuộc sống lao động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp ra trường. Đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ lao động với đầy đủ các phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ
khoa học kỹ thuật, nghề nghiệp, năng động sáng tạo nhằm phục vụ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, là trách
nhiệm của Nhà nước, của nhà trường, của gia đình và của toàn xã hội.
Để nâng cao nhận thức, rèn luyện đạo đức của bản thân, cũng như góp phần
vào việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
5
nghề Đà Lạt chúng tôi đăng ký đề tài 
 !"##$%&
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Đến nay việc nhiên cứu đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh

viên của các trường học, các cấp học trong hệ thống giáo dục của nước ta, hay
giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên của các cơ quan, ban ngành khác nhau,
v.v đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu gồm có:
- Đề tài Luận án Tiến sỹ '(
)#*#+#,#-.#) của Tiến sỹ
Nguyễn Anh Tuấn, Trường Đại học Hùng Vương – Tỉnh Phú Thọ, tác giả nghiên
cứu những nội dung cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nghề dạy học và đề xuất
những biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên
cho các trường sư phạm.
- /0#1()
#$ của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Anh, Trường Đại học
Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học
Đà Nẵng - số 2(43), 2011. Tác giả đã đề xuất những biện pháp giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên nhằm tạo ra sự định hướng tác động thống nhất, hạn
chế được những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy được những mặt tích cực giúp
sinh viên rèn luyện những phẩm chất đạo đức nói chung và phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp nói riêng để họ vững bước vào cuộc sống lao động nghề nghiệp sau
khi tốt nghiệp ra trường.
- PGS. TS. Bùi Minh Hiền, giảng viên Trường Đại học Quốc gia Hà Nội
trong công trình: /0#123)45652
 7518!0% đã nêu ra thực trạng đạo đức và đề xuất
một số giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng và sinh viên các trường bạn nói chung.
6
- Đề tài luận văn thạc sỹ 9652:;-
5<#=9>?@#A.BCD của ThS. Lê Gia Thanh.
Tác giả nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng công tác giáo dục đạo đức học
sinh ở Trường Trung học phổ thông Bình Sơn - Tỉnh Vĩnh Phúc, đề xuất những
biện pháp quản lý giáo dục đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn

diện cho học sinh của nhà trường.
- PGS.TS. Nguyễn Xuân Uẩn, công tác tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã có
công trình: E4$F:11!)G ?)
F=HH%. Công trình đã đề xuất các
giải pháp cụ thể nhằm xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- .I#-8JK/LM4$F)
(0$ của tác giả Đinh Đức Hiền, Sở Nội vụ, Ủy ban nhân dân thành phố
Đà Nẵng đăng trên tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng - số 5(40),
2010. Tác giả đã vận dụng những Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ và công
tác cán bộ, bài viết đề xuất một số giải pháp: Giáo dục chính trị, đạo đức, đánh
giá đúng và tạo môi trường thuận lợi nhằm phát huy tài năng, có cơ chế ràng
buộc và kiểm tra giám sát, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và
năng lực để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai
đoạn hiện nay.
- .65L):!1%###-8JK/ của tác
giả Trần Ngọc Ánh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng&Tác giả đã nhấn
mạnhHồ Chí Minh là nhà tư tưởng hàng đầu về đạo đức, nhất là đạo đức cách
mạng. "Đức là gốc" là quan điểm cơ bản, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tác giảNguyễn Viết Thông - Phó trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
Ương đã nghiên cứu#-8JK/#)G nhằm làm rõ
việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục Tư tưởng Hồ Chí
7
Minh là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân; là nội dung trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng, là tình cảm,
nguyện vọng thiết tha của mọi người Việt Nam. Nghiên cứu, tuyên truyền, giáo
dục Tư tưởng Hồ Chí Minh phải nhằm mục đích lâu dài, nhất quán, là biến tư
tưởng của Người thành hiện thực; hình thành và phát triển tố chất Hồ Chí Minh,
tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo trong mỗi con người Việt Nam.

N.I#-8JK/O51#PP5$
:QKR#<651!44O#=#R:F:Q=
44 của Nguyễn Văn Nghệ - Thượng tá, Tiến sĩ, Phó Trưởng Bộ môn Mác
– Lênin và khoa học xã hội nhân văn - Trường Đại học Cảnh sát Nhân dân.Tác
giả nghiên cứuchuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng
Việt Nam. Một trong những chuẩn mực đó là: “Suốt đời phấn đấu hy sinh cho lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân” và việc vận dụng trong công tác của lực lượng
Công an nhân dân.
Nhìn chung các công trình trên do các tác giả nghiên cứu rất sâu sắc, đề cập
tới cái chung, bình diện rộng, phong phú, đa dạng nhằm nâng cao hiệu qủa công
tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên hiện nay. Tuy nhiên, về thực tiễn vấn
đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề
Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay chưa có công trình nào đi sâu khảo sát, nghiên
cứu và đề ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho học sinh, sinh sinh viên học nghề. Vì vậy, với tư cách là người giáo
viên giảng dạy bộ môn chính trị của nhà trường, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên
cứu này nhằm góp phần thiết thực trong công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho học sinh, sinh viên tại Trường Cao đẳng Nghề Đà Lạt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
8
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, thực
trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp của học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Đà Lạt. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học
sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát thực tế thông qua điều tra xã hội học nhằm tìm hiểu thực trạng

của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Đà Lạt.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp giáo giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện tốt quá trình nghiên cứu hoàn thành nội dung đề tài giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong
giai đoạn hiện nay chúng tôi sử dụng phương pháp luận khoa học Mác – Lênin.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phối hợp đồng bộ các phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra xã hội học: Xây dựng hệ thống câu hỏi và tiến hành
khảo sát điều tra xã hội học đối với học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề
Đà Lạt nhằm đánh giá kết quả đạt được cũng như thực trạng về việc học tập rèn
luyện giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Từ kết qủa điều tra xã hội học để đề ra
phương hướng và giải pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh
viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích trước hết là phân chia cái toàn
thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố
9
cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất
của từng yếu tố đó, và từ đó giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một
cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy.
Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy
đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận gắn liền với thực tiễn: Lý luận phải đi đôi
với thực tiễn, học phải gắn với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với xã hội.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Căn cứ vào nội dung của đề tài chúng tôi tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay.
Điều tra khảo sát, nghiên cứu đánh giá phân tích thực trạng của việc giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên tại Trường Cao đẳng nghề Đà
Lạt thuộc các ngành: Công nghệ thông tin, Quản trị nhà hàng, Kế toán doanh
nghiệp, Điện công nghiệp, Công nghệ ô tô, Bảo vệ thực vật. Từ đó đề ra những
phương hướng và giải pháp nhằm giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh,
sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay.
6. Giả thiết khoa học
Việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên tại Trường Cao
đẳng nghề Đà Lạt còn có những hạn chế, nếu thực hiện được đồng bộ các giải
pháp hợp lý sẽ nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
học sinh, sinh viên của nhà trường.
7. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng
nghề Đà Lạt nhận thức được các chuẩn mực đạo đức của xã hội, đạo đức nghề
10
nghiệp, đạo đức Hồ Chí Minh và rèn luyện đạo đức lối sống, đạo đức nghề
nghiệp theo các chuẩn mực đó, hình thành thái độ, ý thức trong học tập nghề
nghiệp cũng như trong lao động sản xuất sau khi tốt nghiệp nghề được đào tạo.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần định hướng việc rèn luyện đạo đức
nghề nghiệp trong học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai
đoạn hiện nay là vấn đề khá nóng bỏng được gia đình, nhà trường và xã hội rất
quan tâm nó góp phần tạo nên đạo đức mới của học sinh, sinh viên.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận
văn có cấu trúc gồm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay

Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh,
sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai
đoạn hiện nay
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
NGHỀ ĐÀ LẠT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh,
sinh viên Trường Cao đẳng nghề Đà Lạt trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Một số khái niệm khoa học
S&S&S&S& 
Có thể nói, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã
hội, bao gồm những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong
11
quan hệ với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc
hoặc toàn xã hội), là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử của xã hội và góp
phần phản ánh tồn tại xã hội. Căn cứ vào những chuẩn mực ấy, người ta đánh giá
hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được làm
(vô đạo đức) và về nghĩa vụ phải làm. Khác với pháp luật, các chuẩn mực đạo
đức không ghi thành văn bản pháp quy có tính cưỡng chế, song đều được mọi
người thực hiện do sự thôi thúc của lương tâm cá nhân và của dư luận xã hội.
Đạo đức ra đời và phát triển là do nhu cầu của xã hội phải điều tiết mối quan hệ
giữa các cá nhân và hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tính đạo đức biểu hiện bản chất xã hội của con người, là nŠt cơ bản
trong tính người; sự tiến bộ của ý thức đạo đức là cái không thể thiếu được trong
sự tiến bộ chung của xã hội.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xŠt cho cùng, là sự phản ánh của các

quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thu‹, đạo đức của chế độ chủ nô,
đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống
trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột
tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh
chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp,
đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các
hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vŒn giữ lại những điều kiện
sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh
những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người nào. Đó là những yêu
cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với
người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội
và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn. Không ai
nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về
tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại. Quan hệ giữa người với người ngày
12
càng mang tính nhân đạo cao hơn. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, đạo đức vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội.
Đạo đức là một vấn đề giành được sự quan tâm của nhiều lĩnh vực khoa học
và của nhiều nhà khoa học. Mỗi lĩnh vực khoa học, nhà khoa học lại đề cập đến
đạo đức ở những khía cạnh với những phạm vi nội dung khác nhau:
- “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh dư luận xã hội” [12; tr 8].
- “Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự
nhiên” [9; tr 37].
- “Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã hội, với
tự nhiên và với cả bản thân mình” [9; tr 39].

- Theo Từ điển Tiếng Việt: “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được
dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau
và đối với xã hội”; “Đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng
theo những tiêu chuẩn nhất định mà có” [24; tr 466].
Có thể liệt kê ra rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức. Nhưng tựu
trung lại dù theo cách định nghĩa nào thì đạo đức cũng được xem là một hiện
tượng xã hội, thực hiện các chức năng cơ bản sau: Chức năng định hướng giáo
dục, chức năng điều chỉnh hành vi, và chức năng kiểm tra đánh giá.
Đạo đức còn được xem là một hình thái ý thức xã hội, có quan hệ chặt chẽ
với các hình thái ý thức xã hội khác: Chính trị, pháp luật, khoa học, tôn giáo.
Đạo đức thể hiện ở các quan niệm về thiện và ác; hạnh phúc; nghĩa vụ; lương
tâm; danh dự; lẽ công bằng… Những phạm trù này xoay quanh một cái gốc triết
học cơ bản và biểu thị cụ thể thành một hệ thống chuẩn mực đạo đức. Hệ thống
13
quan niệm về đạo đức thay đổi tùy theo chế độ xã hội chính trị. Tuy nhiên, giữa
các hình thái kinh tế - xã hội, chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì cũng có ít
nhiều quan niệm về đạo đức giống nhau, hoặc là về ngôn từ hoặc là về cả nội
dung chủ yếu. Về cơ bản “xã hội nào thì đạo đức ấy”. Trong đạo đức của các chế
độ chính trị - xã hội khác nhau cũng có một số vấn đề được gọi là “tính nhân loại
phổ biến của đạo đức”, ví dụ: lòng nhân ái; lương tâm; lòng tự trọng; khiêm tốn;
lễ độ… Hệ thống các quan niệm, chuẩn mực đạo đức được biểu hiện, tồn tại
dưới hình thức những hành vi đạo đức sống động của những nhân cách cụ thể
vận hành ý thức đạo đức ấy và dưới hình thức tồn đọng trong nền văn hóa – xã
hội, đặc biệt là trong lối sống, phong tục tập quán, nền lý luận, ca dao, tục ngữ,
cách đối nhân xử thế…
Đạo đức của mỗi con người được thể hiện thông qua hành vi đạo đức. Hành
vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa
về mặt đạo đức. Hành vi đạo đức chịu sự quy định bởi các yếu tố tâm lý: Chủ thể
của hành vi đạo đức (toàn bộ nhân cách cụ thể và giáo dục đạo đức phải thông
qua tổ chức cho người được giáo dục tham gia vào các hành vi đạo đức và giáo

dục toàn bộ nhân cách con người); tính sẵn sàng hành động có đạo đức; niềm tin
đạo đức; xu hướng đạo đức; phẩm chất ý chí và phương thức hành vi. Hành vi
đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với nhu cầu đạo đức. Nhu cầu đạo đức quy định
sự bộc lộ hành vi đạo đức, nhưng hành vi đạo đức cũng có sự tác động trở lại
nhu cầu đạo đức làm cho nó biến đổi. Nhu cầu đạo đức là một bộ phận trong hệ
thống nhu cầu của cá nhân. Trong một điều kiện nhất định, nhu cầu đạo đức sẽ
được nổi bật lên và dần xác định được đối tượng để thỏa mãn nhu cầu đó. Khi
đối tượng được xác định tức là động cơ đạo đức được hình thành. Động cơ đạo
đức chính là yếu tố thúc đẩy chủ thể tiến hành hành vi đạo đức. trong quá trình
đó nhân cách của con người được bộ lộ và hình thành.
S&S&S&T&
14
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Nghề nghiệp là một công việc mà người ta thực
hiện trong suốt cả cuộc đời" [24; tr 698]. Ví dụ: Nghề dạy học, nghề y, nghề kinh
doanh nghề nghiệp không chỉ đảm bảo cuộc sống mà còn tôn vinh con ngưòi
làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó.
Nghề nghiệp là những tri thức và kĩ năng lao động mà người lao động có
được trong quá trình huấn luyện chuyên môn hoặc qua thực tiễn, cho phŠp người
đó có thể thực hiện được một loại hoạt động nhất định trong hệ thống phân công
lao động xã hội. Cùng với quá trình phát triển kinh tế và khoa học - kĩ thuật, việc
phân ngành, phân nghề ngày càng mở rộng và chuyên sâu. Người lao động, do
vậy phải được đào tạo nghề nghiệp một cách cơ bản và chuyên sâu. Tuy nhiên,
không thể coi nhẹ việc nâng cao kĩ năng lao động thông qua môi trường hoạt
động thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nhất là trong một số nghề
nghiệp mà kĩ năng, kĩ xảo dựa nhiều vào sự khŠo lŠo như nghề nghiệp thủ công,
mĩ nghệ, hay dựa vào kinh nghiệm truyền thống (nghệ thuật, y học cổ truyền ).
Bất cứ một loại hình nghề nghiệp nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp
của nó. Dựa trên đặc điểm này, người ta đã chia nghề nghiệp thành 4 loại sau:
- Nghề quan hệ với kỹ thuật (thợ lắp máy, sữa chữa máy móc, gia công).
- Nghề quan hệ với tín hiệu (thợ sắp chữ, sửa bản in, đánh máy, mật mã).

- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên (chăn nuôi, thú y, địa chất).
- Nghề quan hệ trực tiếp với con người (cán bộ quản lý, tuyên huấn, thầy
thuốc, bán hàng, sư phạm, hướng dŒn viên du lịch).
Các nghề không chuyên môn hoá: như nghề bốc; dỡ; vận chuyển nguyên
liệu, vật liệu. Đây là những nghề sử dụng việc mang, vác trực tiếp hoặc nhờ các
phương tiện nửa cơ giới; những nghề này chỉ cần sự thích ứng trong khoảng thời
gian ngắn với những yêu cầu của lao động thấp (chỉ cần đạt được một số ít tri
thức và kĩ xảo nghề nghiệp).
15
Các nghề nửa chuyên môn hoá: Là những nghề đỏi hỏi một trình độ chuyên
môn hạn chế, các tri thức và kĩ xảo nghề nghiệp chỉ đủ để thực hiện những thao
tác đơn giản hay những thao tác được chuyên biệt hoá một cách chặt chẽ.
Các nghề chuyên môn hoá: Là những nghề đòi hỏi một quá trình đào tạo
nghề nghiệp chính quy, cá nhân được nhận chứng chỉ công nhận tay nghề do các
cơ sở đào tạo cấp. Trên cơ sở đó, người lao động được nhận vào làm việc thuộc
lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng. Các chứng chỉ nghề nghiệp có thể chứng nhận
một trình độ chuyên môn ở mức cơ sở, trung cấp, cao đẳng, đại học
Lựa chọn nghề nghiệp là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với
cá nhân mà còn đối với xã hội. Nó không chỉ đơn thuần là sự lựa chọn một công
việc cụ thể nào đó để nuôi sống bản thân, đóng góp cho gia đình và xã hội, mà đó
còn là sự lựa chọn một cách sống, lối sống cho tương lai. Thực tế cho thấy không
phải tất cả thanh niên, học sinh, sinh viên lựa chọn đúng đắn về nghề nghiệp.
Theo các chuyên gia tư vấn về nghề nghiệp, có 2 nguyên nhân dŒn tới sự sai
lầm trong lựa chọn nghề nghiệp, đó là:
- Thái độ không đúng đối với tình huống khác nhau của việc lựa chọn nghề
nghiệp, cụ thể: thái độ với việc lựa chọn nghề nghiệp như là với việc lựa chọn
một nơi cư trú suốt đời; những thành kiến về nghề nghiệp; ảnh hưởng trực tiếp
hay gián tiếp của nghề nghiệp; sự say mê chỉ xuất phát từ mặt bên ngoài hay một
mặt cục bộ nào đó của nghề nghiệp.
- Thiếu tri thức, kinh nghiệm, thông tin về các tình huống nghề nghiệp, cụ

thể: đồng nhất môn học với nghề nghiệp; những biểu tượng lỗi thời về tính chất
lao động của lĩnh vực nghề nghiệp; không hiểu về năng lực và động cơ của bản
thân; không đánh giá đúng về những đặc điểm thể chất, thiếu sót của bản thân
khi lựa chọn nghề nghiệp. Việc lựa chọn nghề nghiệp là rất quan trọng và phức
tạp. Về phía cá nhân phải có sự lựa chọn một cách tự giác, có suy nghĩ chín
chắn. Xã hội cần có sự hướng dŒn, định hướng nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp
16
được các yếu tố: nguyện vọng, năng lực của cá nhân; những đỏi hỏi của nghề
nghiệp; những yêu cầu của xã hội đối với các loại hình nghề nghiệp.
Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc. Nghề
nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu vong.
Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công nghệ điện
tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành cả một nền
công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần cứng, phần mềm
và các thiết bị bổ trợ v.v Công nghệ các hợp chất cao phân tử tách ra từ công
nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du lịch tiếp nối ra đời…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những biến
đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất là
trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị
của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về
mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do
“hàm lượng chất xám”, “chất lượng sức lao động”, và “đạo đức nghề nghiệp”
quyết định. Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành
của cơ chế thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản
lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…
Đào tạo nghề nghiệp được hiểu là toàn bộ quá trình học tập của con người
và những tích luỹ của cá nhân về kiến thức; kỹ xảo và các đặc điểm tâm lý.
Ngoài ra, đào tạo nghề nghiệp còn được hiểu là toàn bộ các hoạt động, được
triển khai theo cá nhân hay tập thể, một cách ngŒu nhiên hay có tổ chức. Đào tạo

nghề nghiệp được tiến hành thông qua các hình thức sau: dạy nghề, hoàn thiện
nghề nghiệp, chuyên môn hoá nghề nghiệp, đào tạo bằng kinh nghiệm, thông tin
nghề nghiệp. Ba hình thức đầu được xem là các giai đoạn của việc đào tạo nghề
nghiệp chính quy. Hai hình thức sau có thể gặp cả trong việc đào tạo chính quy
lŒn trong đào tạo nghề nghiệp phi chính quy. Trong các hình thức trên, dạy nghề
17
là quan trọng nhất. Dạy nghề là hoạt động trang bị cho người học những kiến
thức tối thiểu, các kỹ năng, kỹ xảo và những đặc điểm nhân cách để thực hiện tốt
một loại hình nghề nghiệp nhất định.
Ngày nay đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin, mỗi học sinh, sinh viên không chỉ học tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo thực sự khoa học của nghề mà cần thiết phải rèn luyện
những phẩm chất đạo đức của nghề, thấy rõ giá trị đích thực của nghề mình theo
học và còn phải biết tiếp nhận, có khả năng xử lý những thông tin khác nhau để
theo kịp sự phát triển của xã hội và của chính nghề nghiệp của mình. Từ đó đề ra
hàng động phù hợp và làm cho nghề của mình có giá trị để phù hợp với sự phát
triển của xã hội.
Trong mọi nghề nghiệp, để người hành nghề có thể thực hiện công việc với
chất lượng cao, tuân thủ pháp luật và phục vụ tốt nhất cho khách hàng, các cơ
quan chức năng, phải thiết lập các quy định cho người hành nghề. Các ngành
nghề hiện nay mang tính chuyên nghiệp cao. Vì vậy, càng cần phải chịu sự chi
phối bởi các quy định có liên quan.
S&S&S&U& 
Nói tới khái niệm đạo đức nghề nghiệp là người ta muốn thu hẹp phạm vi
của khái niệm đạo đức nói chung nhưng nó được cụ thể hoá và đặc trưng hoá cho
từng nghề nghiệp nhất định.
Đạo đức nghề nghiệp cũng có những nguyên tắc, chuẩn mực được dư luận
xã hội thừa nhận và quy định những hành vi ứng xử trong mối quan hệ xã hội.
Bản thân nó lại có những nŠt đặc thù riêng, phản ánh đầy đủ phẩm chất cần có
của một ngành, một nghề cụ thể. Đó là những qui tắc, chuẩn mực của một nghề

nghiệp hoặc một nhóm nghề nghiệp nào đó, nó qui định những hành vi ứng xử
của những cá nhân khi hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp đó. Khi những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đó không được thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả trong hoạt động của chính
18
hoạt động đó. Mỗi một lĩnh vực nghề nghiệp đều có chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp chung: Ví dụ khi nói đến đạo đức của ngành y thì vấn đề “lương y như từ
mŒu” được coi là một chuẩn mực đạo đức của ngành này. Trong thời kì chiến
tranh, phẩm chất đạo đức “yêu xe như con, quí xăng như máu” là phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp của người bộ đội lái xe thời kì đó. Với những người làm công
tác dịch vụ xã hội thì: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” là biểu hiện đạo
đức nghề nghiệp của họ. Với lực lượng công an nhân dân thì phẩm chất đạo đức
của họ phải đạt chuẩn theo 6 điều Bác Hồ dạy:
“Với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính.
Với đồng sự phải thân ái giúp đỡ.
Với chính phủ phải tuyệt đối trung thành.
Với nhân dân phải kính trọng lễ phŠp.
Với công việc phải tận tụy.
Đối với địch phải cương quyết khôn khŠo.”
Đối với người Đảng viên, cán bộ, Bác Hồ dạy phải “cần, kiệm, liêm, chính,
chí, công, vô tư”. Đối với ngành giáo dục, một khẩu hiệu chung cho các cấp học
là: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Đó chính là đạo đức nghề nghiệp của người
thầy giáo.
Mỗi loại hình nghề nghiệp luôn đặt ra cho những người trong lĩnh vực nghề
nghiệp đó những yêu cầu, quy tắc, chuẩn mực mà họ phải tự giác thực hiện. Có
bao nhiêu loại nghề nghiệp thì cũng có bấy nhiêu loại đạo đức nghề nghiệp. Ví
dụ: đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên, công an nhân dân, bác sỹ, kỹ sư,
huấn luyện viên, vận động viên thể thao, luật sư, dịch thuật, lái xe, người kinh
doanh, nhà báo
Đạo đức nghề nghiệp luôn thể hiện qua hành vi nghề nghiệp và kết quả lao

động. Đạo đức nghề nghiệp thực hiện các chức năng sau đây:
Định hướng giáo dục những người làm việc trong nghề nghiệp để họ có
được những phẩm chất phù hợp với xã hội, với nghề nghiệp.
19
Điều chỉnh hành vi của người làm việc trong nghề nghiệp phải tuân thủ
những quy tắc, chuẩn mực của lĩnh vực đó.
Với tư cách là phương thức kiếm sống, hoạt động nghề nghiệp là hoạt động
cơ bản của con người. Trong hoạt động nghề nghiệp, những lợi ích trực tiếp và
thiết yếu nhất của con người được thực hiện. Nhưng khi thực hiện lợi ích của
mình con người không thể không có quan hệ về mặt lợi ích với người khác, với
xã hội. Vì thế, hoạt động nghề nghiệp cũng là hoạt động mà ở đó những quan hệ
đạo đức giữa con người với con người, giữa con người với xã hội được thể hiện.
Do tính đặc thù của hoạt động nghề nghiệp mà xã hội có những yêu cầu, những
đòi hỏi cụ thể về nghề nghiệp cũng như về đạo đức đối với từng dạng hoạt động
nghề nghiệp nhất định. Do đó, với mỗi loại hình nghề nghiệp có một số chuẩn
mực đạo đức thể hiện một cách nổi bật, làm thành tính đặc thù đạo đức của nghề
nghiệp đó. Ví dụ: y tế là một trong những lĩnh vực mà từ lâu đã đề xuất những
yêu cầu đạo đức nghề nghiệp. Do có liên quan trực tiếp đến sinh mạng của bệnh
nhân, lĩnh vực này đỏi hỏi một trách nhiệm cao, một sự tận tâm, một tình thương
“lương y như từ mŒu”, đã hình thành nên chuẩn mực đạo đức của người thầy
thuốc: tình thương, lương tâm, trách nhiệm; giữ chữ tín, trung thực là yêu cầu
đạo đức của người kinh doanh chân chính; tận tụy với công vụ, thanh liêm,
gương mŒu là yêu cầu đạo đức của người quản lý xã hội; với nghề luật sư ngoài
các yếu tố Chân, Thiện, Mỹ, luật sư phải là người có khối óc thông minh, tấm
lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt
động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội, đó chính là yêu cầu
rất cao trong đạo đức nghề nghiệp luật sư Những yêu cầu, chuẩn mực đó một
mặt là sự phản ánh cụ thể những đòi hỏi của xã hội; mặt khác lại là động lực tinh
thần để con người có được hiệu quả tích cực trong hoạt động nghề nghiệp.
Theo TS. Nguyễn Anh Tuấn “Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn

mực đạo đức phản ánh những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của bản thân nghề
20
nghiệp đối với người làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó, giúp họ hoàn
thành nhiệm vụ của mình với kết quả cao nhất” [29; tr 27].
Như vậy, đạo đức là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức trong một
lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức bao gồm những yêu cầu
đạo đức đặc biệt, các quy tắc chuẩn mực trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định,
nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong nghề nghiệp đó sao cho phù
hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội. Đạo đức nghề nghiệp có mối quan hệ chặt
chẽ với năng lực nghề nghiệp, chúng kết hợp với nhau, biểu hiện thông qua
nhau, tạo nên nhân cách của cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp nào
đó. Các phẩm chất nghề nghiệp là cơ sở để hình thành các năng lực nghề nghiệp.
Ví dụ: tình yêu đối với nghề nghiệp làm cho cá nhân hăng say, tích cực sáng tạo
trong nghề nghiệp. Như vậy, tình yêu nghề nghiệp là một trong những cơ sở để
hình thành các năng lực nghề nghiệp. Đồng thời, năng lực nghề nghiệp sau khi
được hình thành và rèn luyện lại có những ảnh hưởng đối với việc hình thành các
chuẩn mực về đạo đức trong lĩnh vực nghề nghiệp nào đó.
Tóm lại, từ nội hàm của khái niệm đạo đức nói chung và qua phân tích một
số đặc trưng về đạo đức của một vài nghề nghiệp, ta có thể hiểu:
Đạo đức nghề nghiệp là tổng hợp những nguyên tắc, qui tắc, những chuẩn
mực đạo đức xã hội mang tính đặc thù của một bộ phận xã hội nhất định nhằm
định hướng và điều chỉnh hành vi ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa
các thành viên và xã hội, nó còn chịu sự chế ước của pháp luật. Vì vậy, đạo đức
nghề nghiệp được xem như là một nội dung quan trọng của công tác giáo dục
đạo đức nói riêng và công tác giáo dục đào tạo nói chung.
Đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dŒn cho các thành viên
ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích của nghề nghiệp
và xã hội. Nói cách khác, đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp nâng cao chất lượng lao
động sản xuất tăng năng suất chất lượng hiệu quả của công viêc, đạo đức nghề
nghiệp là một phương thức để nâng cao sự tín nhiệm của công chúng vào nghề

21
nghiệp, là một phương tiện giúp tăng cường lòng tin của công chúng vào các
ngành nghề, các sản phẩm hàng hóa dịch vụ được cung cấp.
1.1.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức nghề nghiệp
S&S&T&S&
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng, chính là phương thức
chuyển văn hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Nói cách
khác, đó là phương thức và quá trình chuyển những nguyên tắc, những chuẩn
mực, những quan điểm và lý tưởng đạo đức của xã hội thành những phẩm chất
đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo đức, thành niềm tin và tri thức,
thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và động cơ cá nhân, thành năng lực
sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con người. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người cho rằng, công việc này phải tiến hành thường xuyên, phải “rèn luyện bền
bỉ hàng ngày”, phải coi đây là công việc của tất cả mọi người và diễn ra ở mọi
lúc, mọi nơi. Đây cũng là một công việc hết sức khó khăn, nó đòi hỏi một sự nỗ
lực, tính tự kiềm chế và cả đức tính kiên trì. Một con người hôm nay là tốt nhưng
chưa có gì có thể đảm bảo chắc chắn rằng, ngày mai, ngày kia anh ta cũng vŒn là
người tốt. Cho nên, mỗi con người, trong suốt cuộc đời của mình, cần phải nỗ
lực rèn luyện liên tục để khẳng định và vươn tới cái thiện, chống lại cái ác trong
cuộc sống và ngay cả trong chính bản thân mình.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề
giáo dục đạo đức. Có thể nói, chưa bao giờ sự nghiệp giáo dục của nước ta lại
phải chịu nhiều tác động bởi cơ chế thị trường và quá trình toàn cầu hóa như
hiện nay. Cho nên, việc tăng cường, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là
giáo dục đạo đức vừa là yêu cầu của công cuộc đổi mới về kinh tế - xã hội, vừa
là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp phát triển con người và xây dựng một môi
trường đạo đức lành mạnh của xã hội.
22
Giáo dục đạo đức là quá trình biến đổi hệ thống các chuẩn mực đạo đức từ
những đòi hỏi bên ngoài, bên trong của cá nhân thành niềm tin, nhu cầu, thói

quen của người được giáo dục.
Giáo dục đạo đức là bộ phận nền tảng hợp thành của nội dung giáo dục toàn
diện nhằm giúp thế hệ trẻ hình thành lý tưởng, ý thức và tình cảm đạo đức, tạo
nên một thế giới quan, nhân sinh quan và hành vi đạo đức của con người mới xã
hội chủ nghĩa. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một vấn đề lớn trong chiến
lược con người của Đảng, được toàn xã hội quan tâm và có vị trí đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Giáo dục đạo đức nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Giáo dục ý thức đạo đức: cung cấp cho học sinh, sinh viên những tri thức
cơ bản về phẩm chất và chuẩn mực đạo đức để từ đó giúp các em hoàn thành
niềm tin đạo đức.
- Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức: đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn và
tinh tế vì nó phải khơi dậy ở học sinh, sinh viên những rung cảm, cảm xúc đối
với hiện thực xung quanh làm cho các em biết yêu, biết ghŠt rõ ràng và có thái
độ đúng đắn.
- Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức: là tổ chức cho học sinh, sinh viên lặp
đi lặp lại nhiều lần những hành động đạo đức trong học tập, sinh hoạt và trong
cuộc sống nhằm có được hành vi đạo đức đúng đắn và từ đó có thói quen đạo
đức bền vững.
Nội dung giáo dục đạo đức có quan hệ chặt chẽ với những yêu cầu đạo đức
– xã hội để đề ra cho người công dân trong một xã hội nhất định, thể hiện ở
những mối quan hệ sau: Quan hệ với chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối xây dựng phát triển kinh tế xã hội của Đảng; Tổ quốc; người
khác; bản thân. Để thực hiện các nội dung trên, giáo dục đạo đức có thể tiến
23
hành thông qua các con đường sau: thông qua việc dạy học các môn học, việc tổ
chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Đạo đức bao giờ cũng gồm ý thức đạo đức, tình cảm và niềm tin đạo đức,
hành vi đạo đức. Do đó việc giáo dục đạo đức đều phải bao gồm cả ba mặt nhằm

hình thành những con người có bộ mặt đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Trong nhà trường xã hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên
là phát triển mặt đạo đức của nhân cách, là xây dựng các sản phẩm đạo đức xã hội
chủ nghĩa trong mỗi cá nhân, là hoàn thành ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức,
hành vi và thói quen đạo đức của học sinh, sinh viên theo những nguyên tắc đạo
đức cách mạng mà tấm gương sáng ngời là đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giáo dục đạo đức là bộ phận của nội dung giáo dục toàn diện con người, là
quá trình kết hợp nâng cao nhận thức với hình thành thái độ, xúc cảm, tình cảm,
niềm tin và hành vi thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức phải gắn chặt với giáo
dục tư tưởng chính trị. Giáo dục tư tưởng chính trị có tác dụng xây dựng cơ sở
thế giới quan Mác - Lênin và định hướng chính trị xã hội theo quan điểm và
đường lối của Đảng cộng sản, cho ý thức và hành động đạo đức. Ngoài ra giáo
dục đạo đức còn phải kết hợp với giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật có tác
dụng củng cố và thúc đẩy việc thực hiện các yêu cầu đạo đức.
S&S&T&T&
Để người học nghề có thể lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp đó thì trường
đào tạo nghề phải thực hiện ba nhiệm vụ sau:
- Trang bị về những kiến thức nghề nghiệp cần thiết;
- Hình thành những kỹ năng, k‹ xảo mà nghề nghiệp đòi hỏi;
- Giáo dục để người học nghề có đủ những tri thức cơ bản và những phẩm
chất đạo đức đặc thù của lĩnh vực nghề nghiệp.
Trong trường dạy nghề phải tiến hành ba nhiệm vụ trong mối quan hệ chặt
chẽ với nhau nhiệm vụ này là tiền đề, cơ sơ cho việc thực hiện nhiệm vụ kia.
Nếu bỏ hoặc thực hiện không tốt bất cứ nhiệm vụ nào cũng sẽ ảnh hưởng tiêu
24
cực tới kết quả của quá trình đào tạo nghề. Trong thực tiễn đào tạo nghề hiện nay
có một thực trạng là các trường đào tạo nghề quá chú trọng tới việc thực hiện hai
nhiệm vụ đầu mà chưa hoặc ít quan tâm đến nhiệm vụ thứ ba – nhiệm vụ giáo
dục đạo đức nghề nghiệp. Về mặt lý luận và thực tiễn cho thấy nếu thực hiện hai
nhiệm vụ đầu đã rất khó thì việc thực hiện nhiệm vụ thứ ba còn khó khăn và

phức tạp hơn nhiều.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của giáo dục nói chung. Giáo
dục là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đào tạo, bồi dưỡng con người
một cách toàn diện trên tất cả các mặt: Đức, Trí, Thể, Mỹ. Giáo dục đạo đức là
yếu tố được quan tâm hàng đầu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung của
giáo dục. Giá trị nhân cách của một con người luôn được đo bằng các yếu tố tài
và đức. Chính vì vậy, trong kho tàng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Người luôn
quan tâm đến giáo dục đạo đức và khuyên nhủ mọi người phải thường xuyên
chăm lo rèn luyện đạo đức. Người đã từng khẳng định: “Có tài mà không có đức
ví như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt kŠt thì chẳng
những không làm gì được cho xã hội mà còn hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho
loài người” [20; tr 222].
Trong thực tiễn giáo dục đạo đức nghề nghiệp được tổng hợp trong các hoạt
động giáo dục nói chung. Trong các trường đại học, cao đẳng và trung học
chuyên nghiệp, đạo đức học, tâm lý học là một môn cơ bản, bắt buộc. Bên cạnh
đó có các hoạt động bổ trợ khác như các câu lạc bộ học tập, diễn đàn học sinh,
sinh viên, chương trình ngoại khóa, tham quan thực tế đều có ý nghĩa và tác dụng
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là sự tác động qua lại giữa các hoạt động giáo
dục đạo đức nghề nghiệp với người học nghề nhằm hình thành ở người học nghề
những phẩm chất nghề nghiệp cần thiết. Như vậy, nếu xem xŠt dưới góc độ lý
thuyết hệ thống thì giáo dục đạo đức nghề nghiệp bao gồm nhiều thành tố: mục
25
đích và yêu cầu, nội dung và phương pháp, biện pháp, phương tiện, các lực lượng
tham gia, người dạy nghề, ngưòi học nghề và kết quả giáo dục đạo đức nghề
nghiệp. Các thành tố này vận động và phát triển trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, thành tố này quy định và ảnh hưởng đến thành tố khác và tạo nên sự vận
động chung của cả hệ thống giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Cụ thể: mục đích và
yêu cầu giáo dục đạo đức nghề nghiệp sau khi được xây dựng, quy định những nội

dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cụ thể cần hình thành ở người học nghề. Sau
khi xác định nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp, từ đó quy định phương pháp
giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Trong mối quan hệ giữa lực lượng tham gia giáo
dục đạo đức nghề nghiệp và người học nghề thì lực lượng giáo dục đạo đức nghề
nghiệp giữ vai trò chủ đạo tổ chức, điều khiển hoạt động của ngưòi học nghề.
Dưới các tác động giáo dục đó, người học nghề phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo của mình trong quá trình tự rèn luyện tự bồi dưỡng các phẩm chất nghề
nghiệp. Sự vận động của tất cả các thành phần nêu trên sẽ đưa lại kết quả giáo dục
đạo đức nghề nghiệp. Kết quả này phản ánh sự vận động đúng hay không đúng
quy luật khách quan của các thành tố và cả hệ thống.
Tuy nhiên, giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống mở vì các thành
tố cấu thành của nó còn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội: chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hoá.
Như vậy, có thể nói: Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống các
hoạt động, các giải pháp nhằm giáo dục những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
cho học sinh, sinh viên để khi hành nghề, mỗi cá nhân biết kết hợp hài hòa giữa
năng lực nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.
S&S&T&U&)
 !:#
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc nâng cao chất lượng đào tạo
học sinh, sinh viêntrong các trường đại học, cao đẳng là phải tăng cường giáo
dục đạo đức nghề nghiệp giúp cho học sinh, sinh viên yêu nghề hơn, có ý thức

×