Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thực trạng và điều kiện phát triển thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.98 KB, 22 trang )

ĐỀ TÀI : THỰC TRẠNG VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN PHÁI SINH
MỤC LỤC
I. Khái niệm chứng khoán phái sinh
1. Khái niệm
2. Đặc điểm
II. Phân loại chứng khoán phái sinh
1. Hợp đồng tương lai
2. Hợp đồng kì hạn
3. Quyền chọn
4. Hợp đồng hoán đổi
III. Thực trạng và điều kiện phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
1. Thực trạng thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
a. Mức độ áp dụng công cụ phái sinh ở Việt Nam
b. Những thành quả và hạn chế
2. Những giải pháp vĩ mô
1
I. Chứng khoán phái sinh
1. Khái niệm
Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được sinh từ chứng khoán gốc và giá
của nó phụ thuộc vào giá của chứng khoán gốc, hay Chứng khoán phái sinh là những hợp
đồng tài chính, hay công cụ tài chính mà giá trị của nó đuợc xác định dựa vào giá trị của một
công cụ khác, thường gọi là công cụ cơ sở (the underlying).
Công cụ cơ sở có thể là: tài sản, bao gồm hàng hoá, cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản
nhà ở thế chấp, bất động sản thương mại, các khoản vay,… Số tài sản: các loại bất động sản
thế chấp hoặc là chỉ số: lãi suất, tỷ giá, chứng khoán, giá tiêu dùng. Thậm chí là các công cụ
phái sinh khác (ví dụ dòng tiền của một công cụ phái sinh phụ thuộc vào giá trị của công cụ
cơ bản) hay các loại khác.
Ví dụ: Một hợp đồng quyền mua chọn mua 100 cổ phiếu của Nokia tại mứac giá 50
EUR vào tháng 09/2006. Công cụ cơ sở là cổ phiếu Nokia. Một số hợp đồng tương lai mua
trái phiếu chính phủ Đức thời hạn 10 năm giá trị 10 triệu EUR, công cụ cơ sở là trái phiếu


chính phủ Đức.
2. Đặc điểm của chứng khoán phái sinh
• Tính thanh khoản (Tính lỏng):
Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao
hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của
việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so
với các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung,
các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau. Khả năng thanh
khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của thị trường chứng khoán đối với các nhà đầu
tư. Việc kinh doanh tự do, minh bạch diễn ra trên thị trường chứng khoán dựa trên nguồn
cung và cầu. Bằng cách này, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các cổ phần họ sở hữu thành
tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn thông qua cơ chế định giá đang hoạt
động.
• Tính rủi ro
Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao
gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường
2
là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của
các điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất v.v. Rủi ro
không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản.
Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành. Các nhà đầu tư thường
quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định
trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa
lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức, người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi
người ta kỳ vọng được bù đắp bằng lợi tức tăng thêm.
• Tính sinh lợi
Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận
được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được
phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ
cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý mức độ chấp nhận rủi

ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.
II. Phân loại chứng khoán phái sinh
Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản là Hợp đồng tương lai, Hợp đồng kỳ hạn,
Quyền chọn và Hợp đồng hoán đổi.
1. Hợp đồng tương lai
a. Khái niệm
Hợp đồng tương lai là một thỏa thuận giữa hai bên tham gia về việc mua và bán một
tài sản tại một thời điểm nhất định trong tương lai với giá được xác định trước.
Như vậy, khi tham gia vào hợp đồng tương lai, bên mua và bên bán đều được biết
trước về:
+ Loại hàng hóa (tài sản) sẽ mua – bán là gì;
+ Khối lượng hàng hóa (tài sản) sẽ mua – bán là bao nhiêu;
+ Thời điểm diễn ra giao dịch đó;
+ Giá giao dịch.
b. Đặc điểm của hợp đồng tương lai
 Tính chuẩn hóa
Hợp đồng tương lai là một công cụ được niêm yết và giao dịch trên sở giao dịch
chứng khoán phái sinh. Vì vậy, các điều khoản của hợp đồng đều được chuẩn hóa. Cụ thể, sở
3
giao dịch nơi niêm yết hợp đồng tương lai sẽ quy định cụ thể các nội dung chi tiết của một
hợp đồng, như: loại và chất lượng tài sản cơ sở, quy mô của hợp đồng (số lượng tài sản cơ sở
giao dịch tương ứng với một hợp đồng), cách thức giao - nhận cũng như thanh toán giữa hai
bên khi hợp đồng đáo hạn
 Tính chất cam kết về việc thực hiện nghĩa vụ trong tương lai
Khi tham gia vào một giao dịch hợp đồng tương lai, cả hai bên giữ vị thế mua và bán
của hợp đồng đều bị ràng buộc bởi những quyền và nghĩa vụ nhất định. Cụ thể, khi hợp đồng
tương lai đáo hạn, bên bán của hợp đồng có nghĩa vụ giao một khối lượng tài sản cơ sở xác
định cho bên mua và có quyền được nhận tiền từ bên mua. Ngược lại, bên mua của hợp đồng
có nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận trong hợp đồng và có quyền nhận tài sản chuyển giao từ
bên bán.

 Các bên tham gia giao dịch hợp đồng tương lai phải đáp ứng yêu cầu ký quỹ
Trên thị trường hợp đồng tương lai, ký quỹ là biện pháp bảo đảm việc thực hiện nghĩa
vụ mang tính bắt buộc theo hợp đồng đối với cả bên mua và bên bán khi hợp đồng được
thanh toán. Nhà đầu tư tham gia thị trường này phải đáp ứng các yêu cầu về ký quỹ do sở
giao dịch và trung tâm thanh toán bù trừ quy định cụ thể cho từng loại hợp đồng tương lai.
c. Phân loại hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai thường được phân loại căn cứ vào tài sản làm cơ sở cho hợp đồng.
Vì vậy, có thể nêu ra 5 nhóm hợp đồng tương lai thường thấy trên các thị trường chứng
khoán phái sinh, bao gồm:
 Hợp đồng tương lai hàng hóa cơ bản
Hàng hóa cơ bản ở đây bao gồm các loại nông sản, kim loại và năng lượng. Hợp đồng
tương lai nông sản có thể được lập cho các loại ngũ cốc, bột, dầu, gia súc, thịt gia súc, gỗ,
bông, cà phê, ca cao…Nhóm các sản phẩm kim loại gồm vàng, bạc, nhôm, platinum,
palladium, chì, nickel, thiếc, kẽm và đồng. Nhóm sản phẩm năng lượng chủ yếu gồm dầu
nóng, dầu thô, khí thiên nhiên, xăng không chì, than, propane và điện. Thông thường, các
hợp đồng tương lai đối với hàng hóa cơ bản đều được áp dụng phương thức chuyển giao vật
chất khi đáo hạn.
 Hợp đồng tương lai tiền tệ
Hàng hóa cơ sở cho loại hợp đồng tương lai này rất đa dạng: đồng bảng Anh, đồng
yên Nhật, đồng đôla Canada, đồng real Brazil, đồng đôla Úc, đồng franc Thụy Sỹ, đồng
4
Euro…Hợp đồng tương lai tiền tệ có thể giúp nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro hoặc tìm kiếm lợi
nhuận từ những biến động của tỷ giá hối đoái.
 Hợp đồng tương lai lãi suất và hợp đồng tương lai trái phiếu
Hợp đồng tương lai lãi suất là loại chứng khoán phái sinh có thể được sử dụng để đối
phó với những biến động của lãi suất ngắn hạn (kỳ hạn dưới 1 năm) trong khi hợp đồng
tương lai trái phiếu thường gắn liền với thị trường công cụ nợ kỳ hạn từ 1 năm trở lên. Theo
đó, ở hợp đồng tương lai lãi suất, tài sản/ công cụ cơ sở thường thấy bao gồm tín phiếu kho
bạc, các khoản tiền gửi (ví dụ: tiền gửi bằng đồng đôla Mỹ ở các thị trường ngoài nước Mỹ)
…. Với hợp đồng tương lai trái phiếu, tài sản cơ sở của hợp đồng thường là trái phiếu chính

phủ (có thể được lựa chọn với những thời hạn trái phiếu khác nhau).
 Hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu
Tài sản cơ sở của loại hợp đồng tương lai này là một chỉ số cổ phiếu nhất định. Các
chỉ số cổ phiếu được chọn có thể là chỉ số chung toàn thị trường, chỉ số ngành hay chỉ số
được tính từ một nhóm/rổ cổ phiếu nào đó. Các hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu được
thanh toán bằng tiền khi đáo hạn, tức là không diễn ra sự chuyển giao danh mục cổ phiếu cấu
thành chỉ số cơ sở giữa các bên tham gia hợp đồng.
 Hợp đồng tương lai cổ phiếu
Đây là nhóm hợp đồng tương lai xây dựng cho các cổ phiếu riêng lẻ. Cổ phiếu cơ sở
của hợp đồng là những cổ phiếu được niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán và thường
đòi hỏi phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định, đặc biệt là về tính thanh khoản trên thị
trường.
d. Mục đích:
Làm giảm bớt rủi ro xảy ra do các biến cố có thể đẩy giá cả lên cao hoặc xuống thấp
trong tương lai.
2. Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là loại hợp đồng trong đó có sự thỏa thuận giữa các bên ký hợp đồng
về giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với
mức giá xác định vào thời điểm ký hợp đồng. Mức giá trong hợp đồng kỳ hạn có thể thay đổi
tại thời điểm giao nhận hàng hóa theo sự thỏa thuận của các bên.
- Giá cả và khối lượng giao dịch được xác định trước, nhưng thực hiện hợp đồng vào
một thời điểm trong tương lai.
5
- Chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thỏa thuận với nhau
dựa trên những ước tính mang tính cá nhân.
- Khi có sự thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi
một trong hai bên không thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: Hoàng muốn mua một căn nhà trong năm tới. Đồng thời Minh hiện tại đang sở
hữu một căn nhà trị giá 100.000 USD mà anh ta muốn bán trong năm tới. Hai người ký hợp
đồng kỳ hạn với giá mua căn nhà là 104.000 USD trong vòng một năm tới. Một năm sau, giá

thị trường căn nhà là 110.000 USD. Khi đó Minh cũng buộc phải bán căn nhà cho Hoàng với
giá 104.000 USD.
Hoặc
Ông A cần 15.000 USD vào ngày 15-11-2009 cho một mục đích nào đó, để đề phòng
tỉ giá có thể tăng cao, ông A ký một hợp đồng sáu tháng vào ngày 15-5 với một ngân hàng,
theo đó ông A sẽ mua 15.000 USD từ ngân hàng này vào ngày ông cần tiền là 15-11 với giá
là 17.800đ/USD.
3. Quyền chọn
a. Khái niệm:
Quyền chọn (Option) là hợp đồng giữa hai bên - người mua và người bán – trong đó
người mua có quyền (không phải là nghĩa vụ) để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào một
ngày trong tương lai với giá cả được thỏa thuận vào ngày hôm nay. Tài sản được đề cập
thường là cổ phiếu, trái phiếu, tiền, vàng hoặc là hàng hóa,… và các loại tài sản trừu tượng
khác như chỉ số chứng khoán chẳng hạn. Mức giá cố định mà người mua hợp đồng quyền
chọn có thể mua hoặc bán tài sản được gọi là giá chốt, hay giá thực hiện. Một hợp đồng
quyền chọn được thực hiện tại bất cứ thời điểm nào trước khi đáo hạn được gọi là quyền
chọn theo kiểu Mỹ và chỉ có thể thực hiện được vào ngày đáo hạn thì được gọi là quyền chọn
theo kiểu Châu Âu.
Trong một hợp đồng quyền chọn có hai bên: mua quyền chọn và bán quyền chọn.
Người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn một số tiền gọi là phí quyền chọn. Bên
bán quyền chọn: là bên phát hành quyền chọn, sau khi thu phí quyền chọn phải có nghĩa vụ
luôn sẵn sàng tiến hành giao dịch (mua hoặc bán) tài sản cơ sở đã thỏa thuận trong hợp đồng
với bên mua – khi bên mua thực hiện quyền trong thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán quyền
chọn có lợi nhuận giới hạn (tối đa là phí quyền chọn), còn lỗ thì không giới hạn.
6
Trên thị trường, có hai loại người bán quyền: người bán quyền chọn mua (Seller
Call Option) và người bán quyền chọn bán (Seller Put Option). Bên mua quyền chọn: là bên
nắm giữ quyền chọn, và phải trả cho bên mua phí quyền chọn để được “quyền” mua hoặc
bán một loại tài sản cơ sở nào đó. Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng, bên mua có ba sự
lựa chọn: (i) thực hiện hợp đồng quyền chọn nếu giá trên thị trường biến động theo hướng có

lợi cho họ; (ii) bán hợp đồng quyền chọn cho bên thứ ba trên thị trường để hưởng chênh lệch
giá; (iii) để quyền chọn tự động hết hiệu lực mà không tiến hành bất cứ một giao dịch mua
bán nào nếu giá trên hợp đồng quyền chọn bất lợi hơn so với giá trên thị trường. Trường hợp
không thực hiện quyền chọn, họ vẫn bị mất phí mua quyền. Do vậy, bên mua quyền bị lỗ chỉ
giới hạn bằng phí quyền chọn nhưng có lời thì không giới hạn. Có hai loại người mua quyền:
người mua quyền chọn mua (Buyer Call Option) và người mua quyền chọn bán (Buyer Put
Option) Giá quyền chọn (phí quyền chọn) thay đổi theo giá tài sản cơ sở và theo thời gian.
Giá quyền chọn phải phản ánh được cơ hội mà hợp đồng này đem lại lợi nhuận cho người
mua. Do đó, nếu giá tài sản cơ sở càng biến động mạnh (volatile) và thời gian đáo hạn càng
dài thì phí quyền chọn càng cao. Đối tượng tham gia mua bán quyền chọn rất đa dạng, bao
gồm: những người đang sở hữu tài sản tham gia giao dịch nhằm phòng ngừa rủi ro và những
người không sở hữu tài sản nào nhưng tham gia với mục đích đầu cơ kiếm lời.
Một quyền chọn để mua tài sản với một mức giá thực hiện trước hay đúng vào ngày
được ấn định gọi là quyền chọn mua (Call Option). Một quyền chọn cho phép chủ sở hữu của
nó quyền bán tài sản với một mức giá ấn định trước đúng vào ngày được ấn định gọi là
quyền chọn bán (Put Option).
b. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán
Giá thực hiện (Exercise prise): Mức giá mà quyền chọn cho phép người sở hữu mua
hoặc bán chứng khoán cơ sở. Trên sàn giao dịch quyền chọn giá thực hiện được chuẩn hoá.
Sàn giao dịch qui định mức giá thực hiện có thể ký kết hợp đồng quyền chọn. Quyền chọn
chứng khoán được qui định mức giá thực hiện có khoảng chênh lệch 2.5$ nếu giá cổ phiếu
thấp hơn 25$, khoảng 5$ nếu giá cổ phiếu từ 25$ đến 200$, và trong khoảng 10$ nếu giá cổ
phiếu trên 200$. Đối với quyền chọn chỉ số, các khoản chênh lệch giá thực hiện có sự khác
biệt nhiều do biên độ rộng của nhiều chỉ số khác nhau:
- Ngày đáo hạn (Expiration date): là ngày mà sau đó hợp đồng quyền chọn không còn
tồn tại nữa. Quyền chọn chứng khoán thường được qui định chu kỳ đáo hạn theo các chu kỳ
7
tháng: Chu kỳ tháng 1(gồm các tháng: 1, 4, 7 và 10); Chu kỳ tháng 2 (gồm các tháng 2, 5, 8
và 11); Chu kỳ tháng 3 (gồm các tháng 3, 6, 9 và 12). Ngày đáo hạn chính xác là vào lúc 22
giờ 59 phút (theo giờ của trung tâm giao dịch) của ngày thứ bảy ngay sau ngày thứ sáu tuần

lễ thứ ba của tháng đáo hạn. Theo thông lệ, nhà đầu tư nắm giữ quyền chọn (nếu quyết định
thực hiện quyền chọn) sẽ có thời gian đến hết 16 giờ 30 phút của ngày thứ sáu đó để ra chỉ
thị cho nhà môi giới thực hiện quyền chọn. Sau đó, nhà môi giới sẽ có thời gian đến 22 giờ
59 phút của ngày thứ bảy hôm sau để hoàn thành các thủ tục giấy tờ thông báo cho Trung
tâm giao dịch chứng khoán thực hiện quyền chọn đó.
- Ảnh hưởng của việc phân chia cổ tức và cổ phiếu: quyền chọn chứng khoán trên thị
trường OTC được đảm bảo về cổ tức. Khi một công ty công bố chia cổ tức bằng tiền mặt, thì
giá thực hiện của quyền chọn về cổ phiếu sẽ giảm một khoản bằng số cổ tức vào thời điểm
không nhận cổ tức. Quyền chọn chứng khoán trao đổi qua trung tâm giao dịch chứng khoán
nói chung không được điều chỉnh theo cổ tức trả bằng tiền mặt, nhưng điều chỉnh theo sự
phân chia cổ phiếu. Việc phân chia cổ phiếu xảy ra khi số cổ phiếu hiện tại được chia thành
nhiều cổ phiếu nhỏ hơn. Ngoài ra, quyền chọn về cổ phiếu còn được điều chỉnh theo cổ tức
chi trả bằng cổ phiếu.
- Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện: được thiết kế nhằm ngăn ngừa tình trạng thị
trường quyền chọn bị chi phối quá mức bởi hành vi của một hoặc một nhóm các nhà đầu tư
cá biệt. Hạn mức vị thế (position limit): là số lượng quyền chọn tối đa mà đầu tư có thể nắm
giữ về một phía của thị trường. Sàn giao dịch chứng khoán ban hành hạn mức vị thế cho từng
chứng khoán căn cứ vào khối lượng cổ phiếu giao dịch và số cổ phiếu trôi nổi. Hạn mức thực
hiện (exercise limit): là số quyền chọn tối đa có thể được thực hiện trong vòng 5 ngày làm
việc liên tục bất kỳ bởi mỗi nhà đầu tư riêng lẻ hay một nhóm các nhà đầu tư cùng hành động
với nhau. Mục tiêu của hạn mức thực hiện và hạn mức vị thế là nhằm ngăn cản từng cá nhân
hoặc một nhóm người có tác động đáng kể đến thị trường
- Điều kiện niêm yết: Các sàn giao dịch quyền chọn qui định các tài sản mà giao dịch
được phép. Đối với quyền chọn cổ phiếu, sàn giao dịch qui định những điều kiện tối thiểu mà
một cổ phiếu phải đạt được để có thể giao dịch quyền chọn.
- Qui mô hợp đồng: một hợp đồng quyền chọn giao dịch trên sàn tiêu chuẩn gồm 100
quyền chọn đơn lẻ, mỗi quyền chọn đơn lẻ được mua (bán) một cổ phiếu. Như vậy một hợp
8
đồng quyền chọn được mua (bán) tối thiểu là 100 cổ phiếu. Tuy nhiên, quyền chọn cũng
được tuân thủ nguyên tắc chia tách cổ phiếu và cổ tức.

c. Phân loại quyền chọn:
Quyền chọn mua: Hợp đồng quyền chọn mua (Call Option) là một loại hợp đồng tài
chính diễn ra giữa hai bên, cho phép người mua hợp đồng có quyền mua một số lượng tài sản
nhất định ở một mức giá ấn định trước, gọi là "strike price" hoặc "exercise price" vào hoặc
trước ngày đáo hạn của hợp đồng. Đổi lại, người mua hợp đồng (holder) phải trả cho người
bán hợp đồng quyền chọn (writer) một khoản phí (call premium). Nếu giá tài sản cơ sở tăng
như dự đoán thì người mua hợp đồng sẽ thu được lợi nhuận trong khi chỉ phải đầu tư một
khoản nhỏ (phí hợp đồng) hơn là phải bỏ tiền ra mua toàn bộ số tài sản đó, trường hợp này
người ta nói hợp đồng quyền chọn mua có lãi (in-the-money call option), ngược lại hợp đồng
quyền chọn mua bị lỗ (out-of-the money call option). Về phía người bán, anh ta chỉ thu được
một khoản lợi tức bằng với phí quyền chọn, nhưng khi người mua thực hiện hợp đồng thì
người bán sẽ bị lỗ không giới hạn. Nếu hợp đồng được thực hiện thì người bán sẽ phải từ bỏ
quyền sở hữu đối với số tài sản đã xác định trong hợp đồng. Nếu người mua hợp đồng cảm
thấy không có lợi anh ta có thể từ chối việc thực thi hợp đồng. Trong hợp đồng quyền chọn
mua, người mua bao giờ cũng kì vọng giá tài sản tăng trong khi người bán kì vọng giá tài sản
đứng hoặc giảm hoặc cũng có trường hợp là do người bán sẵn sàng từ bỏ khoản lợi nhuận từ
giá tài sản tăng để đổi lấy khoản phí thực hiện hợp đồng (được thanh toán ngay). Do có
những nguồn thông tin khác nhau, cách phân tích, đánh giá khác nhau cho nên mới nảy sinh
những kì vọng khác biệt giữa người mua và người bán, dẫn đến việc các hợp đồng quyền
chọn (call option, put option) như thế này diễn ra.
Quyền chọn bán: Nếu như Call option là hợp đồng quyền chọn mua thì ngược lại với
nó có một loại hợp đồng quyền chọn khác là Put option, hợp đồng quyền chọn bán. Hợp
đồng quyền chọn bán là một hợp đồng tài chính giữa hai bên, theo đó người mua hợp đồng
(holder) có quyền bán cho người bán hợp đồng (writer) một số tài sản nhất định tại một mức
giá xác định (strike price, exrcise price), vào hoặc trước ngày đáo hạn hợp đồng (expiration
date). Để đổi lại người mua phải trả cho người bán một khoản phí hợp đồng (option
premium). Cần lưu ý trong hợp đồng quyền chọn bán người mua hợp đồng lại chính là người
có quyền bán tài sản. Người mua hợp đồng sẽ có lợi nếu giá tài sản sụt giảm mạnh, khi đó
nếu người mua hợp đồng quyết định thực thi quyền bán (exercise the option), người bán hợp
9

đồng buộc phải mua số tài sản đó. Ngược lại, người bán hợp đồng (người có nghĩa vụ mua
tài sản khi đến hạn nếu người mua hợp đồng yêu cầu) sẽ thu lợi khi giá chứng khoán tăng,
đứng, hoặc giảm ít hơn khoản phí hợp đồng nhận được. Hợp đồng quyền chọn bán là một
cách để nhà đầu tư bảo hiểm cho tài sản của mình khi ông ta dự đoán tài sản đó có khả năng
tụt giá trong tương lai, đồng thời không muốn bán hẳn số tài sản đó hoặc để đầu cơ thu lợi
trước dự đoán đó. Dù trường hợp nào có xảy ra chăng nữa thì rủi ro người mua hợp đồng
cũng chỉ giới hạn trong số phí hợp đồng. Hợp đồng quyền chọn bán phổ biến nhất đối với cổ
phiếu của một số công ty nhất định, ngoài ra, hợp đồng put option còn được mua bán với tài
sản tài chính như lãi suất, hoặc mặt hàng thực như vàng, dầu mỏ.
Như vậy, khi nhà đầu tư có dự định mua tài sản và kỳ vọng giá của tài sản đó sẽ tăng
lên trong tương lai thì họ sẽ phòng ngừa rủi ro bằng cách mua một quyền chọn mua. Ngược
lại khi nhà đầu tư đang sở hữu tài sản và họ dự đoán trong tương lai giá tài sản sẽ giảm thì sự
lựa chọn cho nỗi lo về giá của họ đối với tài sản đang sở hữu là mua một quyền chọn bán.
Nếu như vậy, không có nghĩa là người bán quyền chọn mua và chọn bán là những kẻ liều
lĩnh hay thích đùa, đánh đổi một ít lợi nhuận bằng cả một rủi ro thua lỗ vô hạn. Trên thị
trường các nhà đầu tư khác nhau sẽ có nhận định và đánh giá khác nhau về xu hướng thay
đổi của thị trường vì vậy họ sẽ hành động theo nhận định, phân tích, dự báo của mình. Ngoại
trừ họ vững tin xu thế giá cả tài sản sẽ biến động theo hướng kỳ vọng, bằng cách này hay
cách khác họ sẽ tiến hành bù trừ vị thế rủi ro hay tự bảo vệ mình khỏi thua lỗ bằng cách kết
hợp nhiều chiến lược một cách khôn khéo và độc đáo.
4. Hợp đồng hoán đổi
a. Khái niệm
Hợp đồng hoán đổi là một cam kết song phương, theo đó các nhà chủ đầu tư sẽ trao
cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để
lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ
hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn vốn khi đến kỳ hạn.
Hợp đồng hoàn đổi, hay còn gọi là hợp đồng SWAP, là một công cụ tài chính phát
sinh (derivative) trong đó hai bên đối tác trao đổi một dòng tiền (cash flow) này lấy một dòng
tiền khác của bên kia. Những dòng tiền này gọi là các nhánh của swap (legs), các dòng tiền
được tính toán dựa trên một con số ước tính nhất định.

b. Mục đích
10
Các hợp đồng hoán đổi thường được dung để phòng ngừa các loại rủi ro tài chính
(như rủi ro về lãi suất, rủi ro về tỉ giá, rủi ro về giá cổ phiếu), để hướng các ưu đãi dành cho
các công ty trong nước, hoặc để nhắm mục đích đầu cơ.
Ví dụ: A có một khoản tiền gửi $100,000 với lãi suất cố định 5%/năm, B cũng có một
khoản đầu tư $100,000 với lãi suất biến động, bình quân cũng là 5%/năm. A và B kí hợp
đồng SWAP theo đó, B sẽ trả cho A số lợi tức từ khoản đầu tư của B, còn A trả cho B lợi tức
5,000 usd/ năm. Bằng cách này, B vẫn giữ được khoản đầu tư kia cho dù không thực sự sở
hữu nó.
c. Đặc điểm
Các hợp đồng swap thường được giao dịch bên ngoài các thị trường giao dịch tập
trung, hay nói cách khác nó là một loại công cụ tài chính phát sinh OTC (Over the counter).
Hợp đồng swap không thể được mua bán trao đổi như là các loại chứng khoán khác hay hợp
đồng tương lai, mà chúng thực sự là những hợp đồng cá biệt giữa hai bên xác định. Do đó,
cách duy nhất để thoát ra khỏi hợp đồng này là bằng thỏa thuận song phương với các phía
đối tác để hủy hợp đồng, hoặc bằng cách chuyển nhượng nó cho bên thứ ba với điều kiện có
sự đồng ý của phía đối tác.
Có rất nhiều loại hợp đồng hoán đổi như SWAP tiền tệ, lãi xuất, chứng khoán….mỗi
loại SWAP có một đặc điểm riêng.
 Swap tiền tệ (currency swap)
Swap tiền tệ là một hợp đồng trao đổi ngoại tệ giữa hai bên, sau một khoảng thời
gian nhất định, số tiền đó sẽ được bán hoán đổi ngược trở lại như ban đầu.
Swap tiền tệ có thể là hợp đồng ngắn hạn, hoặc dài hạn, thời hạn của nó có thể kéo dài
đến 10 năm hoặc hơn. Không giống như vay giáp lưng, theo luật kế toán của một số nước,
hợp đồng hoán đổi tiền tệ. Không được coi là một khoản vay, do đó nó không phản ánh trên
bảng cân đối kế toán. Một hợp đồng hoán đổi tiền tệ bao giờ được cấu thành từ 2 phần, bắt
đầu là một vụ trao đổi tiền tệ (nhánh ngắn), và kết thúc bằng việc thực hiện một hợp đồng kì
hạn.
Để tính toán giá trị hợp đồng swap người ta cũng sử dụng kĩ thuật chiết khấu dòng

tiền về thời điểm hiện tại như các hợp đồng swap khác. Nhìn chung khi bắt đầu tiến hành
nghiệp vụ swap, giá trị hiện tại thuần của hợp đồng swap=0, tức là không bên nào có lợi hơn
11
bên nào. Tuy nhiên, do sự biến động của một số nhân tố như lãi suất, tỉ giá mà khi kết thúc
hợp đồng có thể sẽ có bên lãi và bên lỗ.
 Swap lãi suất ( interest rate swap)
Hợp đồng swap lãi suất là một dạng khá phổ biến trong các công cụ tài chính phái
sinh. Trong hợp đồng này, một bên sẽ hoán đổi một dòng lãi suất của mình lấy dòng lãi suất
của đối phương.
Dòng lãi suất: là tập hợp các khoản lãi suất trong tương lai của một khoản đầu tư. Đối
với dòng lãi suất cố định thì thu nhập từ khoản đầu tư là đều nhau trong những khoảng thời
gian tương đương, còn dòng lãi suất biến đổi thì không.
Swap lãi suất thường là kiển hoán đổi giữa (lãi suất) “cố định- biến đổi”, nhưng cũng
có khi là “biến động- biến động’’. Về mặt lý thuyết thì loại thứ ba “cố định –cố định” cũng
có thể thực hiện được, nhưng do toàn bộ dòng lãi suất có thể xác định được ngay thời điểm kí
hợp đồng swap nên chẳng có lý do gì mà hai bên lại tiến hành hoán đổi cho nhau nếu các
khoản các đầu tư có chung đơn vị tiền tệ.
Swap lãi suất “ cố định-biến đổi ” thường được sử dụng khi các công ty thay thế rủi ro
trước biến động lãi suất của mình bằng một lãi suất ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động quản trị chiến lược, vì khi đó công ty sẽ dễ dàng xác định các nhân tố ảnh hưởng hơn.
Ở chiều ngược lại swap ngược lại, bên tham gia muốn đổi lãi suất ổn định của mình lấy lãi
suất biến động, mà theo kỳ vọng của anh ta là có lợi hơn.
Ví dụ: một hợp đồng swap kiểu cố định- biến động theo đó, bên A trả cho bên B một
tỷ lệ lãi suất bằng với lãi suất LIBOR + 50 điểm (0.5%) để đổi lại bên B cho bên A hưởng
một tỉ lệ lãi suất cố định 3%/ năm. Lưu ý rằng, trên thực tế không diễn ra việc chuyển giao số
tiền gốc, và tiền lãi được tính toán trên một số tiền qui ước. Đến kì hạn thanh toán, giả sử 1
năm sau,lãi suất LIBOR lúc đó là 0,7%, vậy lãi suất A thanh toán cho B là 1,2%, do đó,sau
khi bù trừ A sẽ nhận được số tiền lãi với lãi suất là 3-1,2=1,8%. Lãi suất cố định (3%) được
gọi là là lãi suất swap. Như vậy trong trường hợp này, hợp đồng swap tương tự như một vụ
cá cược về lãi suất LIBOR, nếu lãi suất LIBOR mà lớn hơn 2.5% thì B có lợi hơn, còn thấp

hơn 2.5% thì A có lợi.
Ngoài ta swap lãi suất còn giúp các bên giảm chi phí sử dụng vốn. Nếu A và B hoạt
động trong điều kiện giống nhau thì có vẻ như swap chỉ là một trò chơi có tổng bằng 0 khi
mà lợi ích bên này lại là thiệt hại của bên kia. Tuy nhiên, khi A và B hoạt động trong những
12
môi trường khác nhau, tiếp cận với những nguồn lực khác nhau, thì vẫn có một khoảng nào
đó khiến cả hai cùng có lợi.
Ví dụ: A có khả năng vay tiền với lãi suất 12% hoặc LIBOR + 2%, trong khi B có khả
năng vay với lãi suất 10% hoặc LIBOR + 1%. Coi như đây là chi phí sử dụng vốn của 2 công
ty, thì bằng lý thuyết lợi thế so sánh có thể thấy A có lợi thế so sánh về lãi suất động còn B
có lợi thế so sánh về lãi suất cố định. Vậy A nên vay vốn theo lãi suất biến động LIBOR +
2% còn B nên vay vốn theo lãi suất cố định 10% sau đó A và B có thể sử dụng hợp đồng
swap để hoán đổi lãi suất theo một tỉ lệ nhất định để cả hai cùng có lợi.
III. Thực trạng và điều kiện phát triển thị trường chứng khoán phái sinh
1. Thực trạng thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
a. Mức độ áp dụng công cụ phái sinh ở Việt Nam
Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi
tính biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài việc
tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyến hẳn hoặc san sẻ l phần rủi ro cho thị trường bằng các
công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp dụng các công cụ
phải sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiển cho rằng, xuất phát điểm nền kinh tế lạc
hậu chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chinh hiện đại. Nói cách khác, thói quen
và tập quán kinh doanh là những cán trớ lớn đối với quá trình phổ biển các công cụ tài chính
phái sinh ở Việt Nam.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt
Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được
thưc hiện trong hợp đồng mua bản USD và VND giữa ngân hàng thượng mại với doanh
nghiệp Xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của ngân hàng
nhà nước. Tuy nhiên, hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân
hàng ở Việt Nam chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc

phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của NHNN. Vì thể, các giao dịch kỳ hạn chỉ
chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13
ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của thống
đốc NHNN. Tuy nhiện đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận chiều giữa NHNN và
NHTM. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp các NHTM dư thừa ngoại tệ và khan hiếm
13
VND. Các công cụ phái sinh lãi xuất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở Việt Nam và được
các ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các NHTM nhằm theo kịp chuẩn mực hoạt
động ngân hàng quốc tế. NHNN đã cho phép các NHTM thực hiện một số nghiệp vụ phái
sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN
ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh
mục các NHTM và các TCTD, các DN được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán đổi lãi
suất được thục hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với DN vay vốn tại NH;
giũa NH với những DN vay vốn tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác, kể cả vay vốn nước
ngoài; giữa các NH trong nước với nhau và giữa các ngân hàng thương mại trong nước với
các TCTD nước ngoài. Trên cợ sở nới lỏng quản lý của NHNN, nhiều NHTM đã triển khai
cung cấp Hợp đồng hoán đối lãi suất cho các doanh nghiệp (DN), tìm kiếm đối tác là các
TCTD nước ngoài để ký kết hợp tác.
Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động
ngoại bang của NH do đó hướng dẫn hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này
đang được xem là điều kiện đủ để các NHTM đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách
hàng.
Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt
Nam (từ 1/2003), đã có một số ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất
trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất
giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có
quy định chính thức của ngân hàng nhà nước.
Cho tới lần đầu tiện, khi được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền
Ðồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam.

Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD tit khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa
USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất
cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc Vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không
chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND. Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng
phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại
Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay
ngoại tệ của khách hàng sử khi khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard
14
Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn
tương lai phát triển thị trường.
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi
suất cộng dồn, hoán đổi lăi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu
thưc hiện trong tương lai cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong
thời gian gần đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đối rủi ro tín dụng đã được thi điểm áp
dụng tại Việt Nam theo công Văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC chi
nhánh thành phố Hồ Chi Minh thưc hiện. Mặc dù là một loại hoán đối nhưng hoán đổi rủi ro
tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiểu
hoặc các khoản Vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiểu bị đánh giá
thấp hay các khoản Vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác,
khách hàng các khoản bù trừ lỗ. Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ
gắn với rủi ro tin dụng của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành
trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản Vay dài hạn của DN Việt Nam tại các tổ chức tín
dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các
tố chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC
ở nước ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này
cũng giống như thưc hiện một khoản đầu tư gián tiếp.
Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức
lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiện gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng
cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị

trường quốc tế. Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh
được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong
bối cảnh lãi suất và tỷ giá Vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi
suất. Các giao dịch quyền chọn lãi Suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và
đi Vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chi được thực hiện đối với
các doanh nghiệp hoạt động tại VN, các NHTM hoạt động Ở VN được NHNN cho phép và
các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần
cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này. Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn
15
ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB,
Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi
nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyển chọn này là các doanh nghiệp và cá
nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD Với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự
chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ủng cho cả nhà
nhập khẩu và nhà xuất khầu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền
chọn bán áp dụng cho nhà xuất khấu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Saconibank Và
Agribank thực hiện quyền chọn mua bán Vàng, ngày 10/ 12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiện
công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc
tế giá Vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của
thị trường đối với công cụ.
Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà nước cho phép thực
hiện các nghiệp Vụ Option. Ðặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã cho phép thực hiện các
Options tiền Ðồng tại BIDV, ngân hàng thượng mại cổ phần Á Chậu, ngân hàng cổ phần
thương mại quốc tế. Với nghiệp Vụ này, chắc chắn tượng lai sẽ được mở rộng bởi khi đó
VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chinh thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam
cũng qua đó mà tặng lện. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nện các ngân hàng này
bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ cấu sản
phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hon nữa, nhu cầu của khách hàng
đối với các giao dịch Options đang có xu hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến

hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này.
Điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở Việt Nam, dễ nhận
thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng
ngừa rủi ro. Thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các DN chưa thực sự có nhu cầu
phòng chống rủi ro? Phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa rủi ro của các DN
và các công cụ phái sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu biết của các DN đối với các công
cụ phái sinh, từ đó là những chính sách sử dụng nó còn yếu kém? Phải chăng điều kiện kinh
tế, đặc biệt là sư phát triển ở VN còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ
ngoại bảng này còn nhiều bất cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển
khai các dịch vụ phái sinh? Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt
động của các công cụ phải sinh? Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt
16
chẽ, các công cụ phải sinh, từ chỗ là công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm
họa khôn lường cho nền kinh tể.
b. Những thành quả và hạn chế
Với tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam thời gian
qua chúng ta có thể tổng kết được những thành tựu và hạn chế như sau:
 Những thành quả bước đầu
Nhận thức về công cụ phái sinh và sự vận dụng chúng vào trong hoạt động kinh
doanh ngày càng phổ biến và hiệu quả. Bằng việc đưa công cụ hoán đổi (swap), kì hạn
(forward), quyền lựa chọn (options) vào giao dịch trên thị trường,bước đầu ngân hàng đã tạo
được nhận thức cho khách hàng trong việc vận dụng chúng để vận dụng trong việc kinh
doanh,hạn chế rủi ro biến động tỉ giá.Trên cơ sở thành quả đạt được trên thị trường ngoại hối
hoạt động phái sinh được triển khai sang cả thị trường hàng hóa, cụ thể là sản phẩm cafe trên
thị trường London được ngân hàng Teachcombank áp dụng, ngân hàng ACB thực hiện quyền
lựa chọn mua bán vàng.
Cung cấp thêm các công cụ tài chính, góp phần làm phong phú và đa dạng sản phẩn
dịch vụ của các ngân hàng trên thị trường ngoại hối.Một số ngân hàng năng động giờ đây
không chỉ cung cấp những sản phẩm truyền thống mà còn hướng tới nghiên cứu triển khai
các sản phẩm phái sinh hiện đại

 Những hạn chế
Khối lượng giao dịch còn quá nhỏ so với nhu cầu thực tế. Các giao dịch kì hạn và giao
dịch hoán đổi được triển khai từ năm 1998 đến nay nhưng khối lượng các giao dịch ngày ở
các ngân hàng thương mại vẫn còn ít, vẫn chưa tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng.Điều
này xuất phát từ những nguyên nhân sau: Tỷ giá giữa USD/VNĐ được ngân hàng nhà nước
can thiệp khá ổn định với mục đích hỗ trợ cho xuất khẩu,nhận thức được về các công cụ phái
sinh nhưng mà chưa phổ biến,tính hiệu quả kém của thị trường, làm cho các giao dịch phái
sinh không phát huy hết được vai trò là công cụ dự báo trên những biến động ngẫu nhiên của
thị trường,để hạn chế rủi ro và tạo ra lợi nhuận.
Giao dịch chủ yếu trên thị trường ngoại hối còn các thị trường khác thì chưa hình
thành hoặc vẫn trong giai đoạn phôi thai. Điều này một phần xuất phát từ nguyên nhân khung
pháp lý điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý của ngần hàng nhà nước, còn trên các thị trường
khác vẫn chưa có văn bản pháp lý nào điều chỉnh hoạt động của các giao dịch này.
2. Những giải pháp vĩ mô
17
Thứ nhất: Quy định về giá mua và giá bán
Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra các mức giá cao quá hay quá
thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những quy định
nhằm kiểm soát (không ngăn cấm) các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp các chiến
lược phòng ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho phép các doanh
nghiệp Việt Nam kết hợp vừa phòng ngừa (tỷ giá) vừa tiến công khi có cơ hội (đặc biệt đối
với các định chế muốn tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiên là mặt trái của quyền chọn là đầu cơ rất
cao, các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và
bán.
Việc đầu cơ giá trên chọn hợp đồng quyền tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến động vượt
ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư
vào hệ thống tỷ giá mà chúng ta đã hoạch định. Mặc dù vậy, vẫn chưa có chứng cứ nào cho
thấy việc đầu cơ vào các hợp đồng quyền chọn hợp đồng tiền tệ dẫn tới sự sụp đổ hoặc
khủng hoảng tỷ giá ở các nước trên thế giới. Chế độ tỷ giá phụ thuộc chủ yếu vào sự ổn định
vĩ mô của nền kinh tế vĩ mô. Do đó, nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ sẽ

giảm đi rất nhiều. Chính vì thế chúng ta có thể triển khai các quyền chọn có điều kiện phù
hợp với điều kiện các nước như ở Việt Nam đã từng áp dụng và thành công.
Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức
tạp ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho
các doanh nghiệp và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền tệ như
một công cụ kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện đưa ra những quy định về các mức
tỷ giá trần (tối đa) và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá vượt qua các mức giá này thì quyền chọn sẽ
không còn có giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó giảm đi
đáng kể tính bất ổn do NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế nêu trên có
thể áp dụng cho toàn bộ các hàng hóa và tài sản trên thị trường Việt Nam.
Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh.
Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để đặt ra
những quy định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công ty có những
khó khăn về mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động rất tốt nhưng vẫn phải đưa ra
những khoản thế chấp hay các mức duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công công ty sẽ tuân thủ
hợp đồng mỗi khi có biến động cao trong giá. Mức duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà
khi tài khoản ký quỹ giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào.
18
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao có
thể lên tới 30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà môi
giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là ngân
hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dich phái sinh.Yêu cầu về vốn
rất quan trọng,vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ
về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà
môi giới.
Thứ ba: Yêu cầu về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế.
Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước
không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các
ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem bán
lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng hầu hết các nước phát triển, nhưng

trong điều kiện phát triển Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này
còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đển những yếu kém về vốn trong hệ thống ngân hàng
thương mại.
Ngoài ra Việt Nam cần xem xét khẩn trương tham gia vào các thỏa thuận giao dịch
hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái
bảo hiểm từ các giao dịch phái sinh trong nước.
Thứ tư: Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho các định chế triển khai các hợp đồng
phái sinh.
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện
nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay
là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế,
giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc
chắn sẽ cao hơn thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ
đẩy sang phía người mua gánh chịu. tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn
tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản long các nhà đầu tư,
hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia với giá canh bạc với cái
giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gạc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên thị trường bắt đầu
cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị
19
trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm
phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với nó là thiết lập khung quản lí chung cho các định chế này.
Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập báo cáo tài chính.
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả các thành
viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu biết về
nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau. Chẳng hạn như một số ngân hàng Việt Nam
đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua tương lai. Trong
trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thong tin rằng hiện nay ngân hàng
Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới
bán cho người từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này oai cũng phải có thông tin
lẫn nhau, để cuộc chơi thêm phầm minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.

Thứ sáu: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh
khoản của sản phẩm phái sinh.
Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ
hạn và tương lai phải giao dịch trên có sản nước ngoài như London hay NewYork. Còn lại là
giao dịch qua quầy, nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng như các loại rủi ro tín dụng.
Các hợp đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch trên thị trường ngoại hối và thị trường
tiền tệ. Nói chung, hiệu tại chúng vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hàng lang đảm bảo
các hoạt động được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao
chất lượng hàng hóa cho thị trường. Hàng hóa đây là các công cụ tài chính phái sinh, từ các
công cụ thuần nhất tới các công tụ lai tạp. Và vấn đề không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hóa các
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường. cẩn chú ý tới chất lượng hàng hóa.Ở đây, chính là
tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro của các công cụ phải
sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ phát triển của thị trường.
Đối với quyền chọn, các ngân hàng thương mại nên xác lập trong nội dung hợp đồng
quyền chọn quyền được chọn mua ngoại tệ khi doanh nghiệp không thực hiện quyền lựa
chon , do đối với các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền
chọn ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số
lượng ngoại tệ để đảm bảo có đủ số lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu
đến hạn.
20
Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp
đồng Optionsimages là một nghiệp vu kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa rủi ro
hối đoái của các doanh nhiệp không thược tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh doanh.
Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định chi phí giao dịch quyền chọn là một khoản chị phí hợp
lý, hợp lệ được tính vào chí phí khi tính vào chi phí khi các định thu nhập chịu thuế.
Ngoài ra đối với các Options chứng khoán, hiện nay chưa được áp dụng triển khai thì
đây là thời điểm chín muồi để triển khai Options chứng khoán vì tốc độ phát triển thời gian
khá nhanh, gia tăng – giảm đột biến, do nhu cầu về Options càng trở nên cấp bách, nếu có
công cụ Options, nhà đầu tư không bị hoảng loạn vì gần như họ đã mua “bảo hiểm” về giá
cho các chứng khoán của mình.

Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên có những
tiếp cận đối với các sản phẩm tạp lai. Các sảm phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả và
cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thới gian tới sẽ vẫn tiếp tục nâng
cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ sở. Từ đó, sẽ là cơ sở có thể định giá các sản
phẩm phái sinh hiệu quả nhất.
Thứ bảy: Cải tiến các phương pháp quảng bá thông tin về giao dịch chứng khoán
phái sinh đến khách hàng.
Các định chế tài chính chuyên nghiệp triển khai các giao dịch phái sinh như: ngân
hàng thương mại, công ty chứng khoán, triển khai quảng bá các công cụ phái sinh nhằm tạo
ra sự nhận thức và hiểu biết cho khách hàng, nhà phát hành và nhà hoạch định chính sách về
công dụng và cách thức sử dụn các công cụ tà chính phái sinh. Để thực hiện điều này, các
ngân hàng cần rút kinh nghiệm và thay đổi cách tiếp thị chào bán các sản phẩm phái sinh,
theo hướng là lựa chọn và huấn luyện kiến thức tiếp thị cho những nhân viên thật sự am hiểu
về sản phẩm để trực tiếp giới thiệu và chào bán cho khách hàng. Ngoài ra, về lâu dài cần lập
ra bộ phận chuyên tu vấn và hỗ trợ cho khách hàng tìm kiếm thông tin, cách thức sử dụng các
công cụ tài chính phái sinh cho cả hai mục tiêu kinh doanh và hạn chế rủi ro.
Thứ tám: Tăng cường công tác đào tạo nghiên cứu, thông tin tuyên truyền và hợp tác
quốc tế.
Nhân tố con người đóng vai trò then chốt trong mọi hoạt động. Do đó, việc đào tạo
phải đặt lên hàng đầu và được thực hiện thường xuyên. Thị trường chứng khoán nói chung và
thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh nói riêng là lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phải có
21
kiến thức, trình độ chuyên môn cao, nhưng hiện nay còn quá mới mẻ ở Việt Nam. Cho nên,
việc đào tạo phải gắn kết với hoạt động mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế đào tạo
nguồn nhân lực, tư vấn, xây dựng chính sách phát triển và quản lý trị trường.
Trên đây là một số giải pháp mang tính vi mô. Đó là những công việc mà nhà
nước, chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị
trường ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những lỗ lực của tất cả các
chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp
và sử dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể

tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể quản lý.
22

×