Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đánh giá tình trạng quần thể Vooc đen má trắng (Trachypithecus francoisi) tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa, Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.03 MB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG & MÔI TRƯỜNG
 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG QUẦN THỂ VOỌC ĐEN MÁ TRẮNG
(Trachypithecus francoisi) Ở KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
THẦN SA - PHƯỢNG HOÀNG - THÁI NGUYÊN
NGÀNH: QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG
MÃ SỐ : 302
Giáo viên hướng dẫn : TS. Đồng Thanh Hải
Sinh viên thực hiện : Lê Đình Duy
Khoá học : 2006 – 2010

Hà Nội, 2010
Chương I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thú Linh trưởng là nhóm động vật bậc cao và hầu hết các loài trong Bộ
đều được liệt kê trong sách đỏ thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay tình
trạng của các quần thể thú linh trưởng đang đứng trước các nguy cơ bị đe dọa
rất nghiêm trọng. Vooc đen má trắng (Trachypithecus francoisi) cũng là một
trong số đó.
Voọc đen má trắng đã được phát hiện cách đây đã khá lâu ở Việt Nam,
tuy nhiên tình trạng quần thể cũng như những đặc điểm về sinh thái và tập
tính của loài này vẫn chưa được đi sâu nghiên cứu. Hiện tại, số lượng Voọc
đen má trắng và phân bố của chúng vẫn là một câu hỏi đối với các nhà quản
lý và bảo tồn. Trước những năm 1973, Voọc đen má trắng được xác định là
có vùng phân bố khắp khu vực Đông Bắc, với số lượng cá thể tương đối lớn.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng của những quần thể Voọc đen má trắng đang bị
đe dọa và suy giảm một cách nghiêm trọng. Loài chỉ còn được bắt gặp ở một
số khu vực nhỏ của các tỉnh vùng Đông Bắc như: Hà Giang, Tuyên Quang,
Bắc Cạn, Thái Nguyên.


Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nằm trên địa bàn 6
xã và 1 thị trấn thuộc huyện Võ Nhai - tỉnh Thái Nguyên. Bao gồm: Thần Sa,
Thượng Nung, Sảng Mộc, Nghinh Tường, Vũ Trấn, Phú Thượng và thị trấn
Đình Cả, được thành lập ngày 01 tháng 12 năm 1999 với diện tích là 11.280
ha theo Quyết định số 3841/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
Theo thống kê sơ bộ
xác định ở đây có
295 loài động vật thuộc 93 họ, 30 bộ,
5 lớp động vật có xương sống, trong đó có 47 loài quý hiếm trong danh sách
đỏ Việt Nam cần được bảo tồn. Nhóm Linh trưởng ghi nhận có 7 loài gồm:
Cu li lớn (Nycticebus bengalensis), Khỉ Vàng (Macaca mulatta), Khỉ mốc
(Macaca assamensis), Khỉ mặt đỏ (Macaca arctoides), Voọc đen má trắng
2
(Trachypithecus francoisi), Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus), Vượn
đen (Nomascus hainanus).
Nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về loài Vooc đen má trắng nói
chung và những thông tin và số liệu về tình trạng quần thể Voọc đen má trắng
tại KBTTN Thần Sa- Phường Hoàng, để phục vụ cho công tác bảo tồn đề tài
đã được chúng tôi thực hiện.
3
Chương II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Phân loại học loài Voọc đen má trắng
Cũng giống như hệ thống phân loại Linh trưởng trên thế giới, phân loại
linh trưởng ở Viêt Nam có nhiều thay đổi theo thời gian và quan điểm của
người phân loại (Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Tổng kết về phân loại thú Linh trưởng ở Việt Nam theo
thời gian
Năm Họ Số loài và phân loài Nguồn thông tin
2001 3 24 Groves (2001)

2002 3 25 Phạm Nhật (2002)
2004 3 24 Roos (2004)
2004 3 24 Groves (2004)
Qua bảng 2.1 có nhận xét, mặc dù có sự khác nhau về quan điểm, các
tác giả đều cơ bản thống nhất rằng Linh trưởng Việt Nam có 3 họ chính: Họ
Cu li ( Loridae ), họ khỉ (Cercopithecidae), họ Vượn (Hylobatidae); Số loài và
phân loài dao động từ 24 đến 25.
Tuy nhiên, có một điểm đáng lưu ý trong hệ thống phân loại mới hiện
nay là một số loài trước đây được xếp ở mức độ phân loài nay để thành loài
riêng biệt (Groves, 2004; Roos, 2004). Groves (2004) đã đưa ra hệ thống phân
mới cho Linh trưởng Việt Nam (bảng 2.2).
4
Bảng 2.2: Phân loại khu hệ thú Linh trưởng Việt Nam
(Nguồn: Grove, 2004)
TT
Tên loài
Phổ thông Khoa học
1 Cu li lớn Nycticebus bengalensis
2 Cu li nhỏ Nycticebus pygmaeus
3 Khỉ cộc Macaca arctoides
4 Khỉ mốc Macaca assamensis
5 Khỉ đuôi lợn Macaca leonine
6 Khỉ vàng Macaca mulatta
7 Khỉ đuôi dài Macaca fascicularis
8 Voọc xám Trachypithecus crepusculus
9 Voọc bạc Trachypithecus obscurus
10 Voọc gec manh Trachypithecus germaini
11 Voọc đen má trắng Trachypithecus francoisi
12 Voọc đầu trắng Trachypithecus poliocephalus
13 Voọc gáy trắng Trachypithecus hatinhensis

14 Voọc đen tuyền Trachypithecus ebenus
15 Voọc mông trắng Trachypithecus delacouri
16 Chà vá chân nâu Pygathrix nemaeus
17 Chà vá chân đen Pygathrix nigripes
18 Chà vá chân xám Pygathrix cinerea
19 Voọc mũi hếch Rhinopithecus avunculus
20 Vượn đen tuyền Nomascus concolor
21 Vượn đen Hải Nam Nomascus nasutus
22 Vượn đen má trắng Nomascus leucogenys
23 Vượn siki Nomascus siki
24 Vượn má hung Nomascus gabriellae
(Nguồn: Grove, 2004)
Theo hệ thống phân loại của Phạm Nhật (2002) Voọc đen má trắng
được xem là một loài phụ (Trachypithecus francosi francosi), trong hệ thống
phân loại mới Grove (2004) cho rằng Voọc đen má trắng được xem là một
loài riêng và có tên khoa học là Trachypithecus francosi.
Trong luận văn này, việc sử dụng hệ thống phân loại thú Linh trưởng sẽ
theo hệ thống phân loại của Groves (2004), vì đây là hệ thống phân loại phản
5
ánh đầy đủ phân loại học của thú Linh trưởng Việt Nam và được các nhà khoa
học đang sử dụng rộng rãi.
2.2. Đặc điểm hình thái ngoài, sinh thái và tập tính của Voọc đen má
trắng (Trachypithecus francoisi)
Tên khác: Vượn đen đuôi dài, càng đen (Việt), Tù càng (Tày).
2.2.1. Đặc điểm nhận biết: Voọc đen má trắng có bộ lông tương đối dày, sợi
lông dài và thô, màu đen tuyền. Lông hai má trắng, đám trắng khá rộng và
vượt ra khỏi chỏm vành tai. Đầu luôn có mào lông đen. Lông đuôi không xù,
màu đen.
Kích thước: Dài đầu và thân 506 - 610mm, dài đuôi 775 - 900mm, dài
bàn chân sau160 - 175mm, cao tai 29 - 42mm, trọng lượng 5 - 7,2kg.

Dài sọ 92- 110,4mm, dài khẩu cái 28,2 - 34mm rộng gò má 66,5-
82mm.
2.2.2. Sinh thái và tập tính
Nơi sống điển hình của Voọc đen má trắng là rừng giàu, nhiều cây gỗ
lớn trên núi đá vôi. Tuy nhiên, cũng đã gặp Voọc đen má trắng sinh hoạt kiếm
ăn cả trong một số kiểu rừng khác như rừng kín thường xanh, rừng kín nửa
rụng lá nhưng nằm kề với rừng trên núi đá vôi.
Khu vực sống của Voọc đen má trắng thường ổn định qua nhiều năm
nếu không bị săn bắn hoặc chặt phá. Trong khu vực sống Voọc đen má trắng
có ít nhất là 2 chỗ ngủ. Chỗ ngủ của Voọc đen má trắng là các vách núi đá
dựng đứng, nơi có nhiều hang.
Voọc má trắng sống từng đàn. Trước đây đàn Voọc thường rất đông, 20
- 30 con (Lê Hiền Hào, 1973). Khảo sát thực địa ở Phong Quang - Hà Giang,
Ba Bể, Chợ Đồn, Na Rì trong những năm gần đây cho thấy, Đàn Voọc đen
má trắng có số lượng thay đổi phổ biến từ 5 - 15 con (Phạm Nhật,2000). Về
cấu trúc đàn, theo một số thợ săn thì mỗi đàn có một con đầu đàn và đó là một
con đực nhanh nhẹn. Tuy nhiên, cầu trúc của đàn Voọc đen má trắng hình như
không chặt chẽ và vai trò của con đầu đàn không rõ nét.
6
Hoạt động kiếm ăn của Voọc đen má trắng diễn ra ngày 2 buổi, sáng và
chiều , trưa nghỉ. Cường độ kiếm ăn của voọc đen má trắng diễn ra mạnh và 2
thời điểm đầu buổi sáng đến khoảng 10 giờ và từ 14 giờ đến 16 giờ 30.
Thời gian hoạt động trong ngày có khác nhau. Mùa nóng, Voọc rời chỗ
ngủ sớm, về hang muộn và thời gian nghỉ trưa khá dài. Về mùa lạnh, chúng đi
kiếm ăn muộn và về hang sớm.
Hoạt động của đàn Voọc ít ồn ào, chúng chỉ phát ra những âm thanh
nhỏ nhẹ "oọc, oọc ". Âm thanh của Voọc đen má trắng phát ra rất giống với
âm thanh của Voọc mông trắng, Voọc gáy trắng và Voọc đầu trắng.
Mùa nóng, Voọc đen má trắng thường ngủ trên các gờ đá hoặc các cây
gỗ trước cửa hang, ngược lại mùa đông chúng ngủ trong hang.

Đã có một vài nghiên cứu về Voọc đen má trắng và kết quả cho thấy
chúng ăn lá, chồi non và quả cây rừng, không ăn động vật. Bước đầu đã ghi
nhận được 47 loài thuộc 24 họ thực vật được Voọc đen má trắng dùng làm
thức ăn. Họ có nhiều loài được thích ăn nhất là Dâu tằm (Moraceae), Ba mảnh
vỏ (Euphrbiaceae), Cau dừa (Arecaceae). (Phạm Nhật, 2002).
Các số liệu nghiên cứu cho thấy Voọc đen má trắng ăn rất nhiều loại
quả song trong khẩu phần thức ăn khối lượng lá, đặc biệt là cuống lá lại chiếm
tỷ lệ nhiều hơn các loại thức ăn quả và thân.
Dẫn liệu sinh sản của Voọc đen má trắng thiếu. Lê Hiền Hào (1973)
cho biết các mẫu vật con cái thu được có phôi nhiều vào tháng 9 đến tháng 3,
và đẻ từ tháng 3 đến tháng 6. Theo nhận định từ nhiều nguồn thông tin mùa
sinh sản của Voọc đen má trắng kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7. Mỗi con mẹ
thường chỉ đẻ một con non. Các nghiên cứu ở Trung quốc cho thấy trọng
lượng con sơ sinh khoảng 300 - 320 gram (Lê Hiền Hào, 1973). Con non mới
đẻ có bộ lông màu vàng.
2.3. Phân bố của Vooc đen má trắng
7
Phạm vi phân bố của Voọc đen má trắng rất hẹp, trên thế giới chỉ có ở
Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vùng phân bố của chúng đang
ngày bị thu hẹp dần do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Việt Nam: Trong những năm trước 1973, mẫu vật Voọc đen má trắng
đã thu được ở nhiều tỉnh Đông Bắc Việt Nam như: Lạng Sơn, Cao Bằng,Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang và Lào Cai. Theo khảo sát từ
những năm 1990 trở lại đây chỉ còn gặp ở Hữu Lũng( Lạng Sơn);Vị Xuyên,
Phú Linh (Hà Giang); Ba Bể, Chợ Đồn, Na Rì (Bắc Cạn); Na Hang (Tuyên
Quang). (Phạm Nhật, 2002; Sách đỏ Việt Nam, 2007).
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Thần Sa - Phượng Hoàng – Thái
Nguyên thuộc vùng Đông Bắc là nơi phân bố của 7 loài Linh trưởng. Gồm có:
Cu li lớn, Khỉ Vàng, Khỉ móc, Khỉ mặt đỏ, Voọc đen má trắng, Voọc mũi
hếch, Vượn đen. Trong đó có loài Voọc đen má trắng mới được phát hiện tại

khu vực. (Báo cáo khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa – Phượng Hoàng). Tuy
nhiên hiên trạng của các loài Linh trưởng tại khu vực vẫn còn thiếu. Chưa có
công trình nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu các loài Linh trưởng tại khu
vực. Trong khi đó các mối đe doạ đối với đa dạng sinh học nói chung và đối
với các loài Linh trưởng nói riêng thì ngày một tăng lên. Vì vậy, những thông
tin về tình trạng quần thể, phân bố và các mối đe dọa đối với loài và sinh cảnh
của chúng là rất cần thiết phục vụ cho công tác quản lý và bảo tồn lâu dài.
2.4. Hiện trạng bảo tồn
Trước năm 1973, vùng phân bố của Voọc đen má trắng rất rộng và có
thể gần như trên khắp miền Đông Bắc.
Từ năm 1980 đến nay, vùng phân bố của Voọc đen má trắng bị thu hẹp
nhanh chóng do diện tích rừng trên núi đá giảm và do áp lực săn bắn.
Sách đỏ Việt Nam (1992) và (2000) xếp vào mức sắp nguy cấp (V).
Hội nghị bảo tồn thú Linh trưởng Việt Nam tháng 10 năm 1998 xếp Voọc đen
má trắng vào mức nguy cấp (EN). Sách đỏ thế giới (IUCN) 2009 xếp Voọc
8
má trắng vào nhóm nguy cấp (EN). Sách đỏ Việt Nam (2007) Xếp Voọc đen
má trắng vào cấp EN. A1c,d C2a.
Voọc đen má trắng đã được phát hiện khá lâu, được xem là một loài
quý hiếm. Tuy nhiên, những nghiên cứu về loài là chưa nhiều và công tác bảo
tồn đối với loài cũng chưa đạt kết quả cao. Hiện trạng của loài đang bị đe dọa
ngày một nghiêm trọng do tình trạng săn bắt và mất nơi sống. Trong những
năm trước năm 2000 Voọc đen má trắng được xếp vào cấp sắp nguy cấp,
nhưng hiện nay nó đã bị xếp vào cấp nguy cấp. Điều đó có nghĩa là công tác
bảo tồn của chúng ta đã không đạt kết quả cao, mức độ bị đe dọa của chúng
không những không được giảm mà còn tăng lên trong những năm qua.
Loài Voọc đen má trắng đã được bảo tồn tại vườn quốc gia (VQG) Ba
Bể, KBTTN Na Hang, KBTTN Nà Rì, KBTTN Phong Quang, KBTTN Hữu
Liên. Đây là những khu bảo vệ còn đủ các điều kiện sinh thái cần thiết cho
loài này và biện pháp bảo tồn nội vi vẫn được xem là biện pháp tốt nhất.

(Phạm Nhật, 2002 ).
2.5. Tình hình nghiên cứu Linh trưởng ở Việt Nam
Tình hình nghiên cứu linh trưởng ở Việt Nam được bắt đầu rất sớm và
phát triển rất nhanh theo từng thời kỳ song song với những nghiên cứu về đa
dạng sinh học nói chung và nhóm thú nói riêng. Những nghiên cứu đó được
bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và chủ yếu do các tác giả nước
ngoài thực hiện. Các nhà khoa học Việt Nam bắt đầu nghiện cứu đa dạng sinh
học trong đó có linh trưởng từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây. Nói
chung hầu hết các nghiên cứu về linh trưởng ở Việt Nam đều tập trung và
nghiên cứu thành phần loài, số lượng và phân bố.
Thú linh trưởng việt Nam đa dạng về thành phần loài (25 loài và phân
loài, thuộc 3 họ) và có nhiều yếu tố đặc hữu (Voọc mũi hếch, Voọc đầu vàng,
Voọc mông trắng), (Phạm Nhật, 2002). Phạm Nhật được xem là một trong
những người đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về Linh trưởng và cũng là
chuyên gia hàng đầu về linh trưởng của Việt Nam. Nghiên cứu của ông là
9
nghiên cứu thể hiện một cách đầy đủ và chính xách nhất về các loài Linh
trưởng. Ông đã mô tả được đặc điểm hình thái, sinh thái và tập tính của các
loài linh trưởng ở Việt Nam. Chỉ ra được các mối đe dọa và các phương pháp
bảo tồn đối với Linh trưởng. Tuy nhiên nghiên cứu của ông chưa đi sâu vào
một loài nào cụ thể.
Một số nghiên cứu về linh trưởng của Việt Nam trong những năm gần
đây:
Phạm Nhật, 2002 mô tả đặc điểm hình thái, sinh học sinh thái và tập
tính của 25 loài thú linh trưởng Việt Nam.
Geissmann, Nguyễn Xuân Đặng, Lomée., and Momberg, (2002) đã đưa
ra đặc điểm hình thái, sinh thái, tập tính, phân bố cũng như tình trạng và các
mối đe dọa đối với các loài vượn ở Việt Nam.
Nalder, Nguyễn Xuân Đặng, Lomée, and Momberg,(2003) đã đưa ra
đặc điểm hình thái, sinh thái, tập tính phân bố cũng như tình trạng và các mối

đe dọa đối với loài khỉ ăn lá của Việt Nam.
Phạm Nhật và Nguyễn Xuân Đặng, 2000 cho ra cuốn sổ tay ngoại
nghiệp nhận diện thú khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng giúp cho cán bộ kiểm
lâm khu vực thực hiện các chương trình điều tra giám sát thú đuợc thuận lợi
hơn. Trong số đó có 10 loài linh trưởng được thống kê (Cu li nhỏ, cu li lớn,
khỉ cọc, khỉ mốc, khỉ đuôi lợn, khỉ vàng, chà vá chân nâu, voọc hà tĩnh, voọc
đen tuyền, vượn đen má trắng).
Nguyễn Vũ Khôi 2005 tập hợp các tài liệu và cho ra cuốn hướng dẫn
điều tra ngoại nghiệp thú linh trưởng. Đây là tài liệu giúp cho tra cứu nhanh
các loài trong bộ linh trưởng về đặc điểm nhận biết, phân bố, tình trạng trong
sách đỏ thế giới và Việt nam giúp cán bộ kiểm lâm và nhân viên hải quan dễ
dàng trong việc kiểm soát và ngăn chặn nạn buôn bán trái phép động vật
hoang dã.
Hầu hết các nghiên cứu trên về linh trưởng Việt Nam trước đây chủ
yếu tập trung vào điều tra khu hệ,thành phần loài, số lượng, phân bố, sinh thái
10
là chính. Chưa có hoặc ít có những công trình đi sâu và nghiên cứu tập tính
của từng loài. Đây là một hạn chế trong công tác quản lý và bảo tồn loài ở
Việt Nam.
2.6. Các mối đe dọa đối với thú Linh trưởng
Mất nơi sống và áp lực săn bắt là hai mối đe dọa chính đối với thú Linh
trưởng ở Việt Nam hiện nay (Phạm Nhật, 2002; Tilo, Đồng Thanh Hải,2009).
Mất nơi sống, các quần thể Linh trưởng giảm khả năng tăng trưởng và
phát triển. Mặt khác, mất rừng buộc các quần thể thú Linh trưởng phải co cụm
lại và chính điều này tạo thuận lợi cho các thợ săn tiêu diệt chúng một cách dễ
dàng và nhanh chóng hơn, và Voọc đen má trắng cũng không phải là ngoại lệ
trong số đó. Mất sinh cảnh sống do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là
do phá rừng lấy gỗ, đốt nương làm rẫy, khai thác các loại lâm sản khác, do
xây dựng các công trình, cháy rừng và có thể do thiên tai. (Phạm Nhật, 2002).
Bên cạnh việc mất sinh cảnh sống thì việc săn bắt bừa bãi cũng là một

mối đe doạ nghiêm trọng đối với thú Linh trưởng nói chung và đối với Voọc
đen má trắng nói riêng. Con người ngày càng phát triển, nhu cầu của con
người ngày càng tăng. Linh trưởng là một nhóm thú có giá trị rất lớn về kinh
tế, thực phẩm, và là nguồn dược liệu có giá trị. Chính vì vậy, thú linh trưởng
luôn là một đối tượng săn bắn chủ yếu của con người. Cũng như những loài
linh trưởng khác, do có kích thước,trọng lượng cơ thể lớn, lại có gi trị về mặt
thực phẩm và dược liệu. Voọc đen má trắng lại là loài quý hiếm, có giá trị
kinh tế cao. Nên chúng luôn bị đe dọa săn băn. Con người sử dụng rất nhiều
hình thức khác nhau để săn bắt các loài Linh trưởng như:
Bẫy cần giật, bẫy lồng sập, bẫy kẹp, súng kíp đến; các phương tiện hiện đại
như súng săn hai nòng bắn đạn ghép, súng liên thanh quân dụng.
Hàng năm có rất nhiều thú Linh trưởng bị săn bắt, mặc cho tất cả các
loài linh trưởng ở Việt Nam đều đang ở trong tình trạng nguy cấp và rất nguy
cấp. Có nhiều loài đặc hữu đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Theo
Phạm Nhật (2002), năm 1985 ở địa bàn 3 xã của huyện Hương Sơn (Hà
11
Tĩnh), có ít nhất 35 Chà vá và 70 Khỉ cộc bị bắn chết. Hai tháng cuối năm
1991 và 3 tháng đầu năm 1992, ít nhất có 16 con Voọc mũi hếch bị bắn chết ở
Na Hang. Trong những năm 1980 - 1991, vùng Phong Nha Kẻ Bàng đã rất
phát triển nghề "khỉ ép". Sau khi Khỉ, Voọc bị bắn, thợ săn mổ bỏ nội quan,
sấy và ép con vật và mang về bán cho lái buôn. Thời kỳ đó hàng năm ít nhất
không dưới 10 tấn thú Linh trưởng khô (tương đương với khoảng 1500 con
Khỉ Voọc) bị khai thác (Phạm Nhật, 2002). Từ năm 1991 đến nay hoạt động
săn bắt thú Linh trưởng ở vùng Phong Nha Kẻ Bàng tuy cường độ giảm vì
súng quân dụng đã bị Ban Chỉ huy quân sự tỉnh thu hồi (1991) nhưng vẫn còn
tiếp tục và hàng năm không dưới 1 tấn Khỉ ép được khai thác (Phạm Nhật,
2002).
2.7. Phương pháp điều tra thú Linh trưởng
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Linh trưởng ở Việt
Nam. Hầu hết các tác giả sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu chính là điều tra

theo tuyến và phỏng vấn người dân để giải quyết các vấn đề của nội dung
nghiên cứu. Có thể nói, đây là những phương pháp phù hợp và được áp dụng
rộng rãi. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của điều tra thú Linh trưởng là
các thông tin có được chủ yếu từ phỏng vấn, quan sát trực tiếp còn hạn chế.
Do linh trưởng là loài có số lượng rất ít, chúng lại phân bố rải rác, sinh cảnh
sống của chúng thường là các khu rừng già núi sâu.
Ngoài ra, hạn chế của tuyến điều tra là chưa đi hết các dạng sinh cảnh.
Đối với điều tra thú Linh trưởng thường tuyến điều tra phải dài nên rất khó
thực hiện do các điều kiện về địa hình và ngoại cảnh là rất phức tạp. Việc lập
tuyến điều tra như thế nào, vị trí tuyến, số lượng tuyến và chiều dài tuyến như
thế nào không được quy định rõ. Nhưng thực tế là không có cách nào khác là
chúng ta phải thực hiện, do vậy để khắc phục những nhược điểm này ta cần
đầu tư nhiều nhân lực để có thể tiến hành điều tra một cách tỉ mỉ và chi tiết.
Phương pháp phỏng vấn cũng chưa có những quy tắc cụ thể, chủ yếu
là dựa và kinh nghiệm của những người điều tra. Để khắc phục những nhược
12
điểm của phương pháp này thì cần phải tham khảo các ý kiến của các chuyên
gia và đề tài cần được thực hiên trong một thời gian dài.
13
CHƯƠNG III
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ XÃ HỘI
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng cách thành phố Thái
Nguyên 40 km về phía Bắc, nằm trên địa bàn 6 xã và 1 thị trấn thuộc huyện
Võ Nhai - tỉnh Thái Nguyên. Bao gồm: Thần Sa, Thượng Nung, Sảng Mộc,
Nghinh Tường, Vũ Trấn, Phú Thượng và thị trấn Đình Cả.
Khu bảo tồn có ranh giới địa lý là:
105
0

51
'
05
''
đến 106
0
08
'
38
''
kinh độ Đông;
21
0
45
'
12
''
đến 21
0
56
'
30
''
vĩ độ Bắc.
Có ranh giới giáp với:
Phía Đông: Giáp rừng phòng hộ và rừng sản xuất của xã Nghinh Tường
và giáp huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Phía Tây giáp huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Phía Nam giáp các xã còn lại của huyện Võ Nhai.
Phía Bắc: Một số diện tích giáp rừng phòng hộ và rừng sản xuất của xã

Thần Sa và xã Sảng Mộc và giáp huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn.
Tổng diện tích khu bảo tồn là 48.913,66 ha.
3.1.2. Địa hình, địa chất và thổ nhưỡng
3.1.2.1. Địa hình
Khu bảo tồn thuộc vùng núi cao nằm phía đông nam của tỉnh Thái
Nguyên, địa hình chia cắt hiểm trở, núi đá chiếm gần 87 % diện tích đất. Khu
vực thuộc phần cuối cùng phía nam của dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn.
Độ cao tuyệt đối trung bình khoảng 700m.
3.1.2.2. Địa chất và thổ nhưỡng
a. Địa chất
14
Khu bảo tồn có lịch sử kiến tạo địa chất vào kỷ Đệ Tam, dưới tác dụng
của nhiệt độ, nước, sinh vật và áp suất cùng với sự vận động của vỏ trái đất
các sản phẩm phong hóa phân dị thành 2 dạng đá trầm tích:
- Trầm tích hóa học: Đá Phinít phân bố rải rác, diện tích nhỏ.
- Trầm tích cơ học: Đá sa thạch chiếm tỷ lệ lớn.
b. Thổ nhưỡng
Trong khu vực có các loại đất chính sau:
- Đất phù sa không được bồi hàng năm: phân bố dọc các triền sông. Tầng
dày > 100 cm, đây là diện tích trồng cây lương thực và hoa màu hàng
năm chủ yếu trong khu vực.
- Đất phù sa ngoài suối: Phân bố ở ngoài các con suối. Là những dải đất
có diện tích hẹp có thành phần cơ giới nhẹ, đất chua , hàm lượng mùn
nghèo, được sử dụng để trồng lúa hai vụ và hoa màu khác.
- Đất dốc tụ thung thũng: Phân bố rải rác dưới chân địa hình đồi núi, độ
dốc địa hình nhỏ. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, có lẫn nhiều mảnh đá
dăm. Phần lớn diện tích đất này được sử dụng để canh tác chè, cây ăn
quả và hoa màu.
- Đất feralit: Bao gồm các loài đất feralit bị biến đổi do trồng lúa nước,
đất feralit nâu đỏ trên đá macma trung tính và bazo, đất feralit đỏ vàng

trên đá macma a xít và đất feralit trên đá sét.
3.1.2.3. Khí hậu thủy văn
a. Khí hậu:
Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và
mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1.
Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 34 °C) với tháng
lạnh nhất (tháng 1: 13,2 °C) là 20,8 °C. Tổng số giờ nắng trong năm dao động
từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm.
15
b. Thủy văn
Mật độ sông suối ở đây khá thưa, chủ yếu là các suối nhỏ.
+ Lượng nước thất thường theo mùa.
+ Do kiểu địa hình núi cao, khí hậu mát mẻ, sự thay đổi của thời tiết
thúc đẩy quá trình phong hóa mạnh, vì vậy thực vật ở đây sinh trưởng phát
triển khá phong phú.
3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
3.2.1. Dân số lao động
Theo thống kê dân số tính đến hết năm 2007, dân số trong vùng là
20.411 nhân khẩu, sinh sống tại 4.446 hộ gia đình, trên địa bàn 66 thôn bản,
thuộc 6 xã và 1 thị trấn, Mật độ dân số trong vùng bình quân là: 42người/km
2
,
mật độ đông nhất là xã Phú Thượng (90 người /km
2
), thấp nhất là xã Thần Sa
(23 người / km
2
). Thành phần dân tộc ở đây chủ yếu là Kinh, Tày, Nùng,
Dao, H'mông và một số dân tộc khác. Trong đó chiếm tỷ lệ đông nhất là dân

tộc Tày với 8720 người (chiếm 42,4%), sau đó đến dân tộc Dao 4816 người
(chiếm 23,4%). Phân bố dân cư không đều, đa số các thôn bản tập trung ở
thung lũng, gần sông suối, có khả năng làm ruộng nước và dọc theo các trục
đường giao thông.
Tổng số lao động trong vùng là 9.101 lao động chiếm 44,6% dân số,
trong đó lao động nông nghiệp là chủ yếu: chiếm 85,7%; lao động thuộc các
ngành nghề khác bao gồm cán bộ chủ chốt xã, huyện, cán bộ y tế, giáo dục.
3.2.2. Giao thông
Giao thông trong vùng chưa phát triển. Toàn bộ hệ thống giao thông chỉ
có gần 150 km đường ô tô. Trong đó chỉ có 13 km đường nhựa, còn lại là đường
cấp phối và đường đất. Tất cả các xã trong vùng đều đã có đường ô tô đến được
trung tâm xã. Tuy nhiên chất lượng đường rất xấu nên việc đi lại rất khó khăn,
đặc biệt là trong mùa mưa lũ. Ngoài ra còn hàng trăm km đường mòn dân sinh
trong các xã, thôn bản, mặt đường nhỏ hẹp, chất lượng xấu.
16
3.2.3. Y tế
Các xã trong khu vực đều đã xây dựng trạm y tế đặt ở trung tâm xã.
Tại các trạm y tế các xã có 10 bác sỹ, 14 y sỹ, 7 y tá hoạt động khám chữa
bệnh cho nhân dân trong vùng. Ngoài ra còn có 70 cộng tác viên tham gia y tế
cộng đồng, 9 y sỹ hoạt động y tế học đường. Tuy lực lượng cán bộ y tế đã
được tăng cường nhưng do đội ngũ cán bộ y tế chưa đồng đều, trình độ
chuyên môn chưa cao, cơ sở vật chất và thuốc men còn thiếu nên công tác
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng như công tác tuyên truyền phòng
chống dịch bệnh trong nhân dân còn hạn chế.
3.2.4. Giáo dục
Toàn bộ khu vực có 27 trường, 275 lớp với 4 cấp học: Mầm non, tiểu
học, phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. Các trường ở thị trấn và ở trung
tâm các xã được xây dựng khá khang trang nên điều kiện học tập đã cơ bản
đảm bảo việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Còn lại một số trường ở
các thôn bản, nhất là các lớp tiểu học chưa được xây dựng kiên cố. Cơ sở vật

chất rất thiếu thốn. Việc dạy và học của giáo viên và học sinh ở đây còn gặp
nhiều khó khăn.
3.2.5. Văn hóa - xã hội
Các xã đều có trụ sở UBND xã, 90% các thôn xóm đều đã có nhà văn
hóa. Tuy nhiên hoạt động văn hóa tại thôn bản không có gì đặc biệt. Trong
khu vực có hai điểm họp chợ là chợ Cúc Dường và chợ La Hiên nhưng ở đây
chủ yếu buôn bán những mặt hàng thực phẩm phục vụ nhu cầu sinh hoạt của
người dân trong khu vực là chính. Nhìn chung trình độ văn hóa của người dân
trong khu vực là chưa cao.
17
3.2.6. Cơ sở hạ tầng khác
Thủy lợi
Do địa hình trong khu vực phức tạp, chủ yếu là núi đá, bị chia cắt
mạnh nên đa phần các thửa ruộng nằm trong các thung lũng, diện tích nhỏ,
việc đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi tưới tiêu rất khó khăn.
Theo số liệu điều tra khảo sát các xã trong vùng, hệ thống kênh mương
đã xây dựng được 17.610m, trong đó có 9.110m kênh mương cứng và 8.500m
kênh mương đất. Hiện nay, một số đoạn kênh mương đã xuống cấp và hiệu
suất sử dụng các công trình này chưa cao. Vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu
của sản xuất. Thời gian tới cần kiểm tra, tu sửa, nâng cấp và xây dựng thêm
hệ thống kênh mương để phục vụ sản xuất lương thực được hiệu quả.
Điện nước sinh hoạt
Tất cả các xã trong khu vực đã có hệ thống điện lưới quốc gia. Tuy
nhiên, đường điện mới chỉ được kéo đến các trung tâm xã và một số thôn bản
nằm ven đường giao thông chính của xã. Các bản nằm xa trục đường chính
vẫn chưa được sử dụng điện. Hiện tại, một số hộ sử dụng máy thủy điện nhỏ
và máy nổ để phát điện sử dụng trong gia đình.
Do điều kiện địa hình núi đá rất phức tạp nên chương trình nước sinh
hoạt nông thôn đã được đầu tư xây dựng nhưng vẫn ở phạm vi hẹp. Nhiều hộ
gia đình vẫn phải tìm nguồn nước tự nhiên từ trong núi để phục vụ sinh hoạt

hàng ngày.
18
Chương IV
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Cung cấp số liệu về tình trạng, phân bố của quần thể Voọc đen má
trắng phục vụ công tác quản lý và bảo tồn loài và sinh cảnh tại khu vực
nghiên cứu.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Loài Voọc đen má trắng (Trachypithecus francoisi) và sinh cảnh của
chúng.
4.3. Thời gian, địa điểm nghiên cứu
Luận văn được thực hiện từ ngày 3 tháng 03 năm 2010 đến ngày 14
tháng 05 năm 2010 tại khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng –
Thái Nguyên. Nội dung công việc được chia thành các giai đoạn.
STT Nội dung công việc Thời gian
1
Thu thập, phân tích tài liệu và hoàn thiện đề cương
nghiên cứu
05/01/2010-
30/01/2010
2
Điều tra thực địa tại khu bảo tồn thiên nhiên Thần
Sa – Phượng Hoàng, đợt 1.
12/03/2010-
27/03/2010
3
Điều tra thực địa tại khu bảo tồn thiên nhiên Thần
Sa – Phượng Hoàng, đợt 2
10/04/2010-

22/04/2010
4
Xử lý số liệu, hoàn thiện luận văn 23/04/2010
14/05/2010
4.4. Nội dung nghiên cứu
4.4.1. Đánh giá tình trạng quần thể voọc đen má trắng tại KBTTN Thần - Sa
Phượng Hoàng - Thái Nguyên
4.4.2. Xác định phân bố của Voọc đen má trắng tại khu vực nghiên cứu
4.4.3. Đánh giá các mối đe doạ đối với Voọc đen má trắng tại khu vực nghiên
cứu
19
4.4.4. Xác định nơi ngủ của quần thể voọc đen má trắng tại khu vực nghiên
cứu
4.4.5. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn quần thể Voọc đen má trắng
4.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.5.1. Công tác chuẩn bị
- Thu thập và khảo sát các tài liệu có liên quan.
- Chuẩn bị dụng cụ cần thiết phục vụ cho công tác nghiên cứu.
+ Bản đồ địa hình khu vực nghiên cứu.
+ Sổ tay ghi chép
+ Đồng hồ đeo tay (điện tử)
+ Giấy can bản đồ (1m
2
).
+ Địa bàn, GPS, ống nhòm, máy ảnh, thước dây, lều trại.
+ Kim chỉ, đèn pin, túi đựng.
+ Các bảng biểu cần thiết và trang bị đi rừng.
+ Thuốc men cần thiết.
- Sơ bộ nghiên cứu khu vực điều tra thông qua bản bản đồ địa hình và
bản đồ hiện trạng của khu vực nghiên cứu.

4.5.2. Công tác ngoại nghiệp
4.5.2.1. Phương pháp phỏng vấn
Đối tượng phỏng vấn là cán bộ kiểm lâm, cán bộ khu bảo tồn, người
dân địa phương và đặc biệt là các thợ săn ở trong vùng. Trong số đối tượng
phỏng vấn này sẽ được chia ra các nhóm khác nhau. Nhóm về giới tính, tuổi,
dân tộc và nghề nghiệp. Việc phỏng vấn sẽ được áp dụng bằng cách phỏng
vấn trược tiếp bằng các câu hỏi phỏng vấn (câu hỏi đóng và câu hỏi mở) và
phát phiếu phỏng vấn cho người dân. Trong quá trình phỏng vấn có sử dụng
ảnh về loài cho người dân quan sát. Câu hỏi phỏng vấn được thiết kế theo
từng bộ câu hỏi tùy thuộc vào nội dung điều tra dự kiến như sau:
Bộ câu hỏi 1: Điều tra về sự có mặt và phân bố của Voọc đen má trắng
1. Anh/chị biết bao nhiêu loài Linh trưởng ở đây?
20
2. Anh/ chị có thể kể tên những loài đã biết?
3. Anh/chị có biết loài VDMT không?
4. Nếu có. Anh/chị gặp nó ở đâu và khi nào?
5. Lần gặp gần đây nhất vào khi nào (ngày, tháng nào)?
5. Anh/chị gặp đàn có nhiều không?
6. Anh/chị có thể mô tả bộ lông của nó?
7. Anh/chị đã bao giờ nhìn thấy nơi ngủ của VDMT chưa?
8. Anh/chị thấy nó ngủ ở đâu ? Mô tả nơi ngủ
9. Anh/chị cho biết những mối đe dọa đối với quần thể Voọc đen má trắng?
10. Theo anh/chị mối đe dọa nào là lớn nhất? Tại sao?
11. Ở đây ngươi dân thường sử dụng biện pháp gì để săn bắt Vooc?
12. VDMT sử dụng làm gì ? Ăn thịt, nấu cao, bán ra thị trường
13. Chúng ta đã tiến hành những biện pháp gì để bảo tồn quần thể Voọc ở
đây?
Bộ câu hỏi 2: Xác định hang ngủ
1. Các Bác thường gặp loài Vooc này ở đâu?
2. Đã bao giờ các Bác gặp chúng vào ban đêm chưa? Ở đâu?

3. Thế các Bác có biết chúng thường ngủ ở đâu không?
4. Khu vực này có nhiều vách đá hang đá không? Ở đâu?
Kết quả phỏng vấn được tổng hợp và ghi vào mẫu biểu 4.1:
Mẫu biểu 4.1 Kết quả phỏng vấn
21
STT
Ngày
nhìn
thấy
Khu vực
nhìn thấy
Toạ độ
kích cở
nhóm
Dấu
hiệu
Nguồn
thông tin
4.5.2.2. Phương pháp điều tra theo tuyến
Để điều tra hiện trạng và phân bố của quần thể Voọc đen má trắng,
chúng tôi tiến hành lập các tuyến điều tra trong khu vực nghiên cứu
Nguyên tắc lập tuyến: Tuyến điều tra được lập dựa trên bản đồ địa
hình, phân bố thảm thực vật, khảo sát thực tế. Tuyến thẳng và đi qua tất cả
các sinh cảnh có trong khu vực nghiên cứu. Tuyến thường bắt đầu từ đường
mòn.
Lập tuyến điều tra.
Dựa vào bản đồ hiện trạng và qua kết quả khảo sát sơ bộ khu vực điều
tra chúng tôi đã lập tuyến điều tra tại hai khu vực thuộc 2 xã là Thần Sa và
Thượng Nung với 6 tuyến điều tra sẽ được lập trong khu vực điều tra. Trong
đó tuyến 01, 02, 03, 04 thuộc xã Thượng Nung, tuyến 05, 06 thuộc xã Thần

Sa. Độ dài mỗi tuyến khoảng từ 3- 5 km. Tuyến điều tra được chọn cần phải
đi qua tất cả các sinh cảnh, đặc biệt là các nơi phân bố thức ăn và nơi ở của
chúng. Lập tuyến điều tra cần xác định thực địa và trên bản đồ, dùng máy
định vị GPS xác định toạ độ điểm đầu và điểm cuối của tuyến điều tra. Trên
mỗi tuyến, cứ 200m định vị một lần để xác định tọa độ của tuyến điều tra.
Trên tuyến điều tra chính có thể tiến hành lập một số tuyến phụ nhằm điều tra
bổ xung các thông tin liên quan đến nội dung nghiên cứu. Tuyến phụ được lập
vuông góc với tuyến chình, chiều dài tuyến phụ khoảng 500m. Cách 1km lại
lập một tuyến phụ.
Bảng 4.3: Tổng hợp tuyến điều tra
22
Tuyến số
Toạ độ điểm đầu,
điểm cuối
chiều dài
tuyến
Dạng sinh cảnh
01
0601476/2413429
0599748/2413000
2.5 km
Rừng thứ sinh trên núi
đá và rừng nguyên sinh
trên núi đá
02
0598513/2413817
0598715/2413599
5 km
Rừng thứ sinh trên núi
đá

03
0602718/2413486
0603813/2413772
4 km
Rừng thứ sinh trên núi
đá và rừng nguyên sinh
trên núi đá
04
0602888/2416237
0602498/2415874
4.5 km
Rừng thứ sinh trên núi
đá
05
0592758/2410797
0592198/2410322
4.5 km
Rừng thứ sinh trên núi
đá
06
0593567/2412473
0594663/2411482
4 km Rừng thứ sinh trên núi
đá
Quan sát và ghi chép trên tuyến
Dựa trên tập tính của loài, chúng tôi tiến hành quan sát và thu thập số
liệu về loài vào hai thời điểm trong ngày: Buổi sáng từ 6h đến 10h và buổi
chiểu từ 14h đến 18h,cho đến khi Voọc vào nơi ngủ.
Trên các tuyến đã lập sẵn, chúng tôi tiến hành đi trên tuyến với tốc độ
1,5 km/h. Quan sát một cách kỹ lưỡng về tất cả các phía trên tuyến. Cứ 15-20

phút, người quan sát sẽ nghỉ 10 phút để quan sát điểm.
Khi bắt gặp trực tiếp đối tượng điều tra những thông tin sau đây sẽ
được thu thập: Thời gian bắt gặp, đàn số, số lượng cá thể trong đàn, tỷ lệ tuổi
và giới tính, hoạt động của đàn lúc bắt gặp, vị trí bắt gặp (GPS), khoảng cách
từ người quan sát đến đối tượng điều tra.
Kết quả điều tra được ghi vào biểu sau: (Biểu 01)
23
Mẫu biểu 01: Tình trạng, phân bố của Vooc má trắng
Ngày điều tra………………………….Thời gian bắt đầu………………
Người điều tra…………………………Thời gian kết thúc……………
Tuyến điều tra……………………………
Thời tiết ngày điều tra……………………
Khu vực điều tra:………………………………
Đàn
số
Thời
gian
Địa điểm
( GPS )
Sinh
cảnh
Số lượng
các thể
Hoạt động Ghi
chú
24
Ngoài quan sát trực tiếp, những thông tin gián tiếp về loài cũng sẽ được
ghi nhận: Thức ăn để lại, phân, tiếng kêu, di vật còn lại trong nhà dân (da,
lông, sọ, xương), các thể bị nhốt hoặc giết chết.
Phân chia sinh cảnh

Sinh cảnh chính trong khu vực điều tra sẽ được phân chia dựa trên bản
đồ phân bố thảm thực vật và quan sát thực địa. Những thay đổi ngoài thực địa
so với bản đồ có sẵn sẽ được điều chỉnh theo hiện trạng hiện tại.
Bản đồ 01: Tuyến điều tra tại khu vực
25

×