Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Chuyên đề về tiền tệ và chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.51 KB, 36 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
I. KHÁI QUÁT CHUNG
Kinh tế học vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc
điểm, cấu trúc và hành vi của cả một nền kinh tế nói chung. Kinh tế học vĩ mô và kinh tế
học vi mô là hai lĩnh vực chung nhất của kinh tế học. Trong khi kinh tế học vi mô chủ yếu
nghiên cứu về hành vi của các cá thể đơn lẻ, như công ty và cá nhân người tiêu dùng, kinh
tế học vĩ mô lại nghiên cứu các chỉ tiêu cộng hưởng như GDP, tỉ lệ thất nghiệp, và các chỉ
số giá cả để hiểu cách hoạt động của cả nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô là một lĩnh vực tổng quát nhưng có hai khu vực nghiên cứu điển
hình:
• Nghiên cứu nguyên nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập quốc
gia (còn gọi là chu kỳ kinh tế).
• Nghiên cứu những yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Các chuyên gia kinh tế học vĩ mô phát triển các mô hình để giải thích mối quan hệ
giữa các yếu tố như thu nhập quốc gia, sản lượng, tiêu dùng, thất nghiệp, lạm phát, tiết
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kiệm, đầu tư, buôn bán đa quốc gia và tài chính đa quốc gia, các chính sách ổn định kinh tế
vĩ mô của chính phủ. Các mô hình này và các dự báo do chúng đưa ra được cả chính phủ
lẫn các tập đoàn lớn sử dụng để giúp họ phát triển và đánh giá các chính sách kinh tế và các
chiến lược quản trị.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không
thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các nền kinh
tế thị trường nguyên thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đơn có thể hoạt động một
cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, vì nền kinh tế tăng
trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất
hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Trong các
nền kinh tế thị trường đã Phát triển, Nhà nước có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp,
quản lý và điều hoà phúc lợi. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song sự điều tiết của
Nhà nước vẫn là một trong các hoạt động của nền kinh tế thị trường. Theo đó, thị trường tự


do với đúng nghĩa của nó không thể tồn tại, ngoại trừ trong các lý thuyết kinh tế.
Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực như: ổn định
kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ.
- Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà
nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng
trưởng liên tục của nền kinh tế.
- Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân
hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu
thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp
thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị
trường ngoại hối.
Sau đây em xin trình bày những vấn đề chính của chính sách tiền tệ. Mục tiêu là
tìm hiểu về thị trường tiền tệ; Tìm hiểu chính sách tiền tệ mà chính phủ đã sử dụng để điều
tiết nền kinh tế vĩ mô.
II. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tìm hiểu khái quát về tiền tệ
- Các hình thái tiền tệ
- Các chức năng của tiền tệ
- Cung tiền tệ
- Cầu tiền tệ
- Tác động của tiền tệ đối với hoạt động kinh tế
- Cân bằng trên thị trường tiền tệ
- Tìm hiểu khái quát về ngân hàng
- Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
- Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính
- Chính sách tiền tệ năm 2010
1. Tìm hiểu khái quát về tiền tệ

a) Tính chất và nguồn gốc của tiền tệ
 Tính chất của tiền tệ
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, tiền tệ (hay tiền trong lưu thông)
phải có các tính chất cơ bản sau đây:
• Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ, người
dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ không được coi là tiền
nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành cũng sẽ mất đi bản chất của
nó khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát, người ta không chấp nhận nó như là một phương
tiện trao đổi.
• Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết, người ta
có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng. Chính vì thế những tờ giấy bạc do
ngân hàng trung ương phát hành được in ấn trông không giống bất cứ một tờ giấy chất
lượng cao nào khác.
• Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao cho
người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán bằng một loại
tiền có mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền tệ khắc
phục được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng: nếu một người mang một con bò đi
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đổi gạo thì anh ta phải nhận về số gạo nhiều hơn mức anh ta cần trong khi lại không có
được những thứ khác cũng cần thiết không kém.
• Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ giá trị
cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để làm tiền, chính vì
vậy những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng cao còn tiền xu thì được làm
bằng kim loại bền chắc.
• Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang theo,
tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và những đồng xu có kích
thước, trọng lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không được in khổ rộng ví dụ như khổ A4.
• Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm vì
nếu có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa trong việc cất trữ

giá trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì thế trong lịch sử những kim loại
hiếm như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay ngân hàng trung ương chỉ phát hành
một lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.
• Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau không
phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm ra cách đây 2 năm
cũng có giá trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa vào lưu thông. Có như vậy tiền
tệ mới thực hiện chức năng là đơn vị tính toán một cách dễ dàng và thuận tiện trong trao
đổi
 Nguồn gốc tiền tệ
Từ rất sớm trong lịch sử loài người đã xuất hiện nhu cầu phải có một hình thức tiền
tệ làm trung gian trao đổi.
Ngày nay, chúng ta sử dụng cả tiền xu và tiền giấy, nhưng thực tế không phải lúc
nào cũng vậy. Trước khi những đồng tiền kim loại và tiền giấy có mặt, con người đã sử
dụng nhiều thứ khác thường để mua thứ họ cần, Chẳng hạn, ở một nơi nọ trên thế giới,
người ta sử dụng răng cá mập như là tiền. Ở nhiều nơi khác, tiền có thể là những chiếc
lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sò quý hiếm. Có nơi người ta còn dùng cộng lông cứng
trên đuôi voi để làm tiền. Lông chim là loại tiền nhẹ nhất từ trước đến nay. Chúng được sử
dụng trên đảo Santa Cruz. Đá là loại tiền nặng nhất từ trước đền giờ. Chúng được sử dụng
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trên đảo Yap ở Thái Bình Dương. Có hòn nặng trên £500 (1£ = 0,4536 kg). Loại tiền nhỏ
nhất từ trước đến nay được phát hiện ở Hy Lạp. Tiền được làm bằng kim loại, nhưng có
kích thước nhỏ hơn hạt táo. Không ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới
những hình thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những đồng
tiền kim loại có từ năm 600 trước công nguyên, vì thế ta biết chúng đã được lưu hành trong
suốt một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những kim loại quý như vàng và bạc để
chế tiền xu. Họ in hình người hoặc (con) thú trên mỗi đồng tiền để xác định giá trị của nó.
Trong những năm 1200, người Trung Quốc đúc những đồng tiền bằng sắt. Những đồng
tiền này giá trị chẳng là bao, cho nên người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua
hàng. Do đó rất bất tiện khi phải mang một số lượng lớn những đồng tiền sắt nặng nề nên

chính phủ đã cho in những giấy biên nhận. Người ta mang các biên nhận này đến ngân
hàng để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có được về việc phát hành và sử dụng tiền
giấy. Ngày nay, hầu hết các nước đều sử dụng cả tiền xu lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại tiền
giấy đều có cùng kích cỡ và màu sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đô la có cùng kích cỡ và
màu sắc y như tờ một trăm đô la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy được in dưới nhiều kích
cỡ và màu sắc khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp hơn. Việc này tạo
điều kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thoáng qua là có thể xác định được giá trị của chúng.
Tất cả những sự kiện này khiến lịch sử tiền tệ trở thành một công cuộc nghiên cứu lý thú.
b. Khái niệm tiền tệ
Tiền tệ là bất cứ một phương tiện nào được thừa nhận chung để thanh toán cho việc
giai hàng hoặc để thanh toán nợ nần.
Tiền tệ là tiền khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện thanh toán, là đồng tiền được
luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền
kinh tế. Vì định nghĩa như vậy, tiền tệ còn được gọi là "tiền lưu thông". Tiền tệ có thể
mang hình thức tiền giấy hoặc tiền kim loại (tiền xu) do Nhà nước (ngân hàng trung
ương, Bộ Tài chính, v.v...) phát hành.
Khi phân biệt tiền tệ của quốc gia này với tiền tệ của quốc gia khác, người ta dùng
cụm từ "đơn vị tiền tệ". Đơn vị tiền tệ của nhiều quốc gia có thể có cùng một tên gọi (ví dụ:
dollar, franc...) và để phân biệt các đơn vị tiền tệ đó người ta thường phải gọi kèm tên
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quốc gia sử dụng đồng tiền (ví dụ: dollar Úc). Với sự hình thành của các khu vực tiền tệ
thống nhất, ngày nay có nhiều quốc gia dùng chung một đơn vị tiền tệ như đồng EUR. Đơn
vị tiền tệ của Việt nam được gọi là đồng, ký hiệu dùng trong nước là "đ", ký hiệu quốc tế
là VND, đơn vị nhỏ hơn của đồng là hào (10 hào = 1 đồng) và xu (10 xu = 1 hào). Tiền tệ
là phương tiện thanh toán pháp quy nghĩa là luật pháp quy định người ta bắt buộc phải
chấp nhận nó khi được dùng để thanh toán cho một khoản nợ được xác lập bằng đơn vị tiền
tệ ấy. Một tờ séc có thể bị từ chối khi được dùng để thanh toán nợ nhưng tiền giấy và tiền
kim loại thì không. Tuy nhiên tiền kim loại có thể là phương tiện thanh toán pháp quy bị
luật pháp của một quốc gia giới hạn không vượt quá một số lượng đơn vị tiền tệ nào đó tuỳ

theo mệnh giá của những đồng tiền kim loại ấy. Theo luật pháp của Việt nam, tiền giấy và
tiền kim loại là phương tiện thanh toán pháp quy không giới hạn.
Ngoài ra trong kinh tế học còn có một số khái niệm về tiền:
• Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại. Có khả năng thanh toan
cao nhất.
• Tiền gửi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng thương mại
nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng tiền mặt. Chúng có thể dễ dàng chuyển
thành tiền mặt.
• Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn như trái
phiếu, kỳ phiéu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ.
2. Các hình thái tiền tệ
Nghiên cứa lịch sử phát sinh và phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã trải qua
nhiều hình thái. Sau đây là các hình thái cơ bản của tiền tệ.
a. Hóa tệ
Một hàng hóa nào đó giữ vai trò làm vật trung gian trao đổi được gọi là hóa tệ. Hóa
tệ bao gồm: Hóa tệ không kim loại và hóa tệ bằng kim loại
 Hóa tệ không kim loại
Sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Sự trao đổi không còn ngẫu
nhiên, không còn trên cơ sở của định giá giản đơn. Trao đổi đã vượt khỏi cái khung nhỏ
hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng nhiều hơn
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đó giữa các hàng hoá đòi hỏi phải có một hàng hoá có tính đồng nhất, tiện dụng trong vai
trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi, và bảo tồn giá trị. Những
hình thái tiền tệ đầu tiên có vẻ lạ lùng, nhưng nói chung là những vật trang sức hay những
vật có thể ăn. Thổ dân ở các bờ biển Châu Á, Châu Phi, trước đây đã dùng vỏ sò, vỏ ốc làm
tiền. Lúa mì và đại mạch được sử dụng ở vùng Lưỡng Hà, gạo được dùng ở quần đảo
Philippines. Trước Công nguyên, ở Trung Quốc kê và lụa được sử dụng làm tiền…
Tiền tệ bằng hàng hoá có những bất tiện nhất định của nó trong quá trình phục vụ
trao đổi như không được mọi người mọi nơi chấp nhận, dễ hư hỏng, không đồng nhất …

do đó dẫn đến việc sử dụng hoá tệ bằng kim loại.
 Hóa tệ bằng kim loại
Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển kèm theo sự mở rộng phân công lao
động xã hội, đồng thời với sự xuất hiện của Nhà nước và giao dịch quốc tế thường xuyên,
kim loại ngày càng có những ưu điểm nổi bậc trong vcai trò của vật ngan giá bởi những
thuộc tính bền, gọn, có giá trị phổ biến, Những đồng tiền bằng kim loại: đồng, chì, kẽm,
thiếc, bạc, vàng…xuất hiện thay thế cho các hóa tệ không kim loại.
- Lịch sử phát triển của tiền kim loại quý đã trải qua ba biến cố chủ yếu, quyết
định đến việc sử dụng phổ biến tiền bằng kim loại quý.
- Sự gia tăng dân số và phát triển đô thị ở các nước Châu Âu từ thế kỷ XIII đưa
đến sự gia tăng nhu cầu trao đổi.
- Các mỏ vàng ở Châu Âu không đủ cung ứng.
- Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bạch kim loại bị mất giá, trong thời gian dài
vàng, bạc song song được sử dụng làm tiền; các nước Châu Âu sử dụng cả vàng lẫn bạc.
Chỉ các nước Châu Á mới sử dụng bạc (do không đủ vàng) đến cuối thế kỷ XIX bạc ngày
càng mất giá do vậy các nước Châu Âu và cả Hoa Kỳ quyết định và sử dụng vàng, các
nước Chấu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa do lệ thuộc sự nhập cảng nguyên liệu máy
móc… từ Phương Tây nên cũng bãi bỏ bạc sử dụng vàng. Ở Đông Dương, bạc được sử
dụng làm tiền từ 1885 đến 1931. Đến năm 1931 đồng bạc Đông Dương từ bản vị bạc sang
bản vị vàng, có thể cho rằng, khoảng từ 1935 chỉ còn một kim loại quý được tất cả các
nước chấp nhận làm tiền trên thế giới là vàng.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b. Tín tệ
Tín tệ được hiểu là thứ tiền tự nó không có giá trị nhưng do sự tín nhiệm của mọi
người mà nó được lưu dụng. Tín tệ có thể bao gồm tiền bằng kim loại và tiền giấy.
- Tiền bằng kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với kim loại tiền tệ thuộc hình thái
hoá tệ. Ở hình thái này giá trị nội tại của kim loại thường không phù hợp với giá trị danh
nghĩa.
- Tiền giấy bao gồm tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.

- Tiền giấy khả hoán là thứ tiền được lưu hành thay cho tiền vàng hay tiền bạc ký
thác ở ngân hàng. Bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền giấy khả hoán đó đổi lấy
vàng hay bạc có giá trị tương đương với giá trị được ghi trên tiền giấy khả hoán đó.
Ở Trung Hoa từ đời Tống đã xuất hiện tiền giấy. Vì những nhu cầu mua bán, các
thương gia hình thành từng thương hội có nhiều chi nhánh ở khắp các thị trấn lớn. Các
thương gia ký thác vàng hay bạc vào hội sở của thương hội rồi nhận giấy chứng nhận của
hội sở thương hội, với giấy chứng nhận này các thương gia có thể mua hàng ở các thị trấn
khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài loại giấy chứng nhận trên triều đình nhà
Tống còn phát hành tiền giấy và được dân chúng chấp nhận.
Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy.
Nhân dân ai cũng phải nộp tiền đồng vào cho Nhà nước, cứ 1 quan tiền đồng đổi được 2
quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật đổ, dân
chưa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền đồng và tiền giấy
(bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn).
Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các nước
Châu Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung cấp cho những
thân chủ gởi vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ.Khi cần, có
thể đem những tờ nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng.Trong thanh toán cho người
khác các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận.Sau đó một ngân hàng Thụy Điển tên
Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay.Từ đó ngân hàng Palmstruch có
khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có.Với nhiều loại tiền giấy được phát hành, lưu thông
tiền tệ bị rối loại vì nhiều nhà ngân hàng lạm dụng gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đó, vua chúa các nước phải can thiệp vì cho rằng việc đúc tiền từ xưa là vương quyền và
mặt khác việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to lớn. Vương quyền các nước Châu Âu
thừa nhận một ngân hàng tự có quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định:
+ Điều kiện khả hoán: có thể đổi lấy bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành.
+ Điều kiện dự trữ vàng là đảm bảo: ban đầu là 100%, sau còn 40%.
+ Điều kiện phải cho Nhà nước vai không tính lãi khi cần thiết.

- Tiền giấy bất khả hoán là thứ tiền giấy bắt buộc lưu hành, mọi người không thể
đem tiền giấy này đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc.
Nguồn gốc của tiền bất khả hoán là bởi những nguyên nhân sau:
+ Thế chiến thứ nhất đã làm cho các quốc gia tham chiến không còn đủ vàng để đổi
cho dân chúng.Nước Anh từ năm 1931 đã cưỡng bức lưu hành tiền giấy bất khả hoán, nước
Pháp năm 1936.
+ Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 dẫn đến ở nước Đức mọi người đua nhau
rút tiền, do đó Ngân hàng Trung ương Đức đã phải dùng vàng trả nợ nước ngoài và do đó
số trữ kim gần như không còn.Tiến sĩ Schacht (1933 – 1936) đã áp dụng chính sách tiền tài
trợ bằng cách phát hành trái phiếu, để tài trợ sản xuất và những chương trình kinh tế, xã hội
lớn.Biện pháp này làm giảm 50% thất nghiệp, sản xuất tăng 41% (1934).Từ đó, nhiều nhà
kinh tế cho rằng giá trị tiền tệ không phải dựa vào dự trữ vàng như các quan điểm trước
đây.
c. Bút tệ
Bút tệ là một hình thái tiền tệ được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế
toán của Ngân hàng.Bút tệ xuất hiện lần đầu tại nước Anh,vào giữa thế kỷ XIX. Để tránh
những quy định chặt chẽ trong việc phát hành giấy bạc, các nhà ngân hàng Anh đã sáng chế
ra hệ thống thanh toán qua sổ sách ngân hàng.Bút tệ ngày càng có vai trò quan trọng, ở
những quốc gia có nền kinh tế phát triển và hệ thống ngân hàng phát triển, người dân có
thói quen sử dụng bút tệ.
d. Tiền điện tử
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có nhiều tên gọi cho thứ tiền này: tiền nhựa, tiền thông minh…Đây có phải là một
hình thái tiền tệ không là vấn đề chưa thống nhất. Một số quan điểm cho rằng đây chỉ là
“phương tiện chi trả mới”, sự “chuyển dịch vốn bằng điện tử”
3. Các chức năng của tiền tệ
a. Chức năng phương tiện trao đổi
Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trong việc
trao đổi các hàng hóa, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lí do tại

sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa.
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai dịch vụ
bán và mua với một người khác. Điều đó sẽ đơn giản trong trường hợp chỉ có ít người tham
gia trao đổi, nhưng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí để tìm liếm như vậy là
quá cao. Vì vậy, người ta cần sử dụng tiền làm môi giớitrong quá trình này, tức là người ta
trước hết sẽ đổi hàng hóa của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua thứ hàng hóa mình cần.
Rõ ràng việc thực hiện lần lược các giao dịch bán và mua với hai người sẽ đễ dàng hơn
nhiều so với việc thực hiện đồng thời hai giao dịch đối với cùng một người.
Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất
định:
- Được chấp nhận rộng rải: nó phải được con người chấp nhận rộng rải trong lưa
thông, bởi vì chỉ khi mọi người cùng chấp nhận nó thì người có hàng hóa mới đồng ý đổi
hàng lấy tiền;
- Có thể chia nhỏ được: để tạo thuận lợi cho việc trao đổi giữa các hàng hóa có giá
trị khác nhau;
- Dễ vận chuyển;
- Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng;
- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng: để số lượng của nó đủ dùng trong trao
đổi;
- Có tính đồng nhất: các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngan nhau.
b. Chức năng đơn vị đánh giá
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chức năng thứ hai của tiền là đơn vị đánh giá, tức là tiền tệ được sử dụng làm đơn
vị để đo giá trị của hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Trong chức năng này giá trị của các
hàng hóa được biểu hiện nằmg tiền. Nhờ đó mà việc trao đổi hàng hóa được diển ra thuận
lợi hơn.
Là một đơn vị đánh giá, nó tạo ra cơ sở thuận lợi cho việc sữ dụng tiền làm phương
tiện trao đổi. Nhưng củng chính trong quá trình trao đổi, sử dụng tiền làm trung giang, các
tỉ lệ trao đổi được hình thành theo tập quán tức là ngay từ khi mới ra đời, việc sử dụng tiền

làm phương tiện trao đổi đã dẩn tới việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá. Đầu tiên những
phương tiện được sử dụng làm tiền để biểu hiện giá trị hàng hóa củng có giá trị như các
hàng hóa khác. Cơ sở cho việc tiền biểu hiện giá trị các hàng hóa khác chính là tiền củng có
giá trị sử dụng như các hàng hóa khác (theo phân tích của C.Mác về sự phát triển của các
hình thái biểu hiện giá trị hàng hóa: giá trị hàng hóa được biểu hiện ở giá trị sử dụng của
hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá, vật ngang giá chung). Vì vậy, trong thời đại ngày nay,
mặc dù các phương tiện được sử dụng là tiền không có giá trị như các hàng hóa khác nhưng
nó được mọi người chấp nhận trong lưa thông (có giá trị sử dụng đặc biệt), do đó vẩn được
sử dụng để đánh giá giá trị các hàng hóa. Trong bất kể nền kinh tế tiền tệ nào, việc sử dụng
tiền làm đơn vị đo lường giá trị điều mang tính chất trừu tượng, vừa mang tính pháp lí, vừa
có tính quy ước.
c. Chức năng phương tiện dự trữ giá trị
Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi
người ta nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có điều kiện để chi tiêu
ngay, tiền là một phương tiện dùng cho việc cất giữ sức mua trong các trường hợp này hoặc
có thể người ta giữ tiền chỉ đơn thuần là việc để lại của cải.
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tùy thuộc
vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối lượng hàng
hóa mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi và ngược lại.
Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít muốn giữ nó, điều này thường xảy
ra khi lạm phát cao. Vì vậy, để tiền thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền
phải ổn định.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
d. Phương tiện thanh toán
Trong một nền kinh tế không có một chuẩn mực đo giá trị chung (thí dụ như là tiền)
thì một giao dịch thành công giữa 2 vật trong kinh tế đòi hỏi các nhu cầu trao đổi phải phù
hợp với nhau. Một thí dụ: Một người nông dân muốn bán ngũ cốc và cần dụng cụ. Một thợ
thủ công muốn đổi dụng cụ để lấy thịt. Giữa 2 người này sẽ không bao giờ có một cuộc
mua bán trao đổi vì ý định bán của người nông dân không phù hợp với ý định mua của

người thợ thủ công. Cả hai người có thể phải tìm kiếm rất lâu cho đến khi gặp được một
người có ý định giao dịch phù hợp. Cùng với tiền quá trình này được đơn giản hóa đi rất
nhiều: Người nông dân có thể bán ngũ cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được dể
đổi lấy dụng cụ tại người thợ thủ công. Người thợ thủ công có thể dùng tiền thu được mua
thịt tại một người thứ tư.
e. Tiền tệ thế giới
Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình
thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện
mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã
hội.
Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với
nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
4. Cầu tiền tệ
Việc nghiên cứa cầu tiền tệ luôn được nhà kinh tế quan tâm, và nó có thể cho những
gợi ý về hoạch định chính sách của những người chịu trách nhiệm điều hành nền kinh tế.
a. Các loại tài sản tài chính
- Tài sản giao dịch (thanh khoản) không tạo ra thu nhập, nhưng được dùng để
thanh toán khi mua hàng hóa và dịch vụ…
- Các tài sản tài chính khác tạo ra thu nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết kiệm…)
nhưng không thể dùng trực tiếp để mua hàng hóa.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hầu hết các hộ gia đình và doanh nghiệp giữ của cải của họ dưới dạng kết hợp cà 2
loại tài sản này. Trong phần này, mọi tài sản giao dịch được gọi là tiền và mọi tài sản khác
có thu nhập được gọi chung là trái phiếu.
b. Mức cầu về tiền
Khối lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu tiêu dùng cá
nhân và kinh doanh sản xuất…gọi là mức cầu về tiền (giao dịch).

Khi giá cả tăng lên, mức cầu về tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua
đủ khối lượng hàng hóa cần thiết đã dự định, như vậy, thực chất của mức cầu tiền tệ là cầu
về cán cân tiền tệ thực tế.
Mứa cầu tềin thực tế phụ thuộc vào hai nhân tố:
- Thu nhập thực tế: con người giữ một phần tài sản ở dạng tiền để có thể mua được
hàng hóa, dịch vụ. Khi thu nhập tăng, tiêu dùng cũng sẽ tăng và theo đó cầu tiền củng tăng
lên.
- Lãi suất: chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền và thu nhập từ lãi suất mà các tài sản
có thể tạo ra nếu như để chúng dưới dạng trái phiếu. Lãi suất chính là chi phí cơ hội củ việc
giữ tiền.
Quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền được gọi là hàm cầu về tiền
(hàm ưa thích tiền thanh khoản).
Hàm này có dạng:
LP = kY – hi
Trong đó:
LP: mức cầu về tiền thực tế
Y: thu nhập
i : lãi suất
k,h : các hệ số phản ánh dộ nhạy cảm của mưc cầu tiền đối với thu nhập và lãi
suất.
c. Mức cầu tài sản
Mức cầu về tài sản là mức cầu các loại tài sản chính có sinh lợi dưới dạng trái phiếu.
Các loại trái phiếu tuy sinh lợi nhưng chịu nhiều rủi ro, vì giá cả của chúng được quyết
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định trên thị trường, khó dự báo trước. Giữ tiền không tạo ra lãi, nhưng không bị rủi ro trừ
trường hợp gặp lạm phát. Nhiều người chỉ định giảm mức rủi ro của họ bằng cách đa dạng
hóa các dạng tài sản vừa để tài sản ở dạng tiền, vừa để ở dạng trái phiếu. Vì vậy, trong thực
tế có thể có sự chuyển hóa mức cầu từ trái phiếu sang tiền hoặc ngược lại.
5. Mức cung tiền tệ

Để cung ứng cho nhu cầu sử dụng tiền tệ trong nền kinh tế, một số tổ chức như
NHTƯ, các ngân hàng thương mại cung ứng tiền ra lưa thông.
a. Cung ứng tiền của Ngân hàng Trung ương
NHTƯ phát hành tiền mặt chủ yếu dưới hình thức giấy bạc ngân hàng. Quá trình
này được thực hiện khi NHTƯ cho vay đối với các tổ chức tín dụng, cho vay đối với kho
bạc Nhà nước, mua vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối hoặc mua chính khoáng trong
nghiệp vụ thị trường mở khối lượng tiền phát hành của NHTƯ được gọi là tiền mặt hay cơ
số tiền (M
B
) bao gồm hai bộ phận: tiền mặt trong lưa hành (C) và tiền dự trữ của các ngân
hàng kinh doanh (R) trong đó chỉ có bộ phận tiền mặt ngoài ngân hàng mới được sữ dụng,
đáp ứng cho nhu cầu về tiền.
b. Cung ứng tiền của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác tạo tiền chuyển khoản (D)
theo cơ chế tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Khối lượng tiền do các tổ chức này
cung ứng được tạo ra trên cơ sở lượng tiền dự trữ nhận từ NHTƯ và các hoạt động nhận
tiền gửi cho vay và thanh toán không dùng tiền mặt của hệ thống ngân hàng. Khi NHTƯ
phát hành tiền đưa vào hệ thống ngân hàng, các ngân hàng thương mại sử dụng số tiền dự
trữ này để cho vay. Khi các doanh nghiệp hoặc dân cư vay khoản tiền đó nó được sử dụng
để thanh toán chi trả và có thể một phần hoặc toàn bộ được kí gửi trở vào một ngân hàng
với hinh thức tiền gửi không kì hạn,ngân hàng lại tiếp tục có vốn để cho vay. Như vậy, từ
lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống ngân hàng thông qua các hoạt động của mình có thể
làm hình thành lượng tiền gửi không kì hạn rất lớn. số tiền này được các doanh nghiệp, dân
cư sữ dụng để thanh toán qua ngân hàng, vì vậy nó được tính là một bộ phận của khối tiền
giao dịch trong nền kinh tế, được sữ dụng để đáp ứng nhu cầu về tiền.
c. Mức cung tiền tệ
14

×