Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BÃO, LŨ LỤT, HẠN HÁN ĐẾN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.45 KB, 44 trang )

VIỆN KHOA HỌC KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRUNG TÂM TƯ VẤN KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG
NHIỆM VỤ “XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG ỨNG PHÓ BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU TỈNH HÀ TĨNH”
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
TÊN CHUYÊN ĐỀ
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BÃO, LŨ LỤT, HẠN
HÁN ĐẾN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ
HỘI TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 – 2020
(CHUYÊN ĐỀ SỐ 10 – HĐ SỐ ?)
HÀ NỘI, THÁNG 12/2010
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH SÁCH CÁC BẢNG iii
DANH SÁCH CÁC HÌNH iv
MỞ ĐẦU v
CHƯƠNG 1.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH 6
1.1.ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 6
1.1.1.Vị trí địa lý 6
1.1.2.Địa hình, địa chất 7
1.1.1.Khí hậu 8
1.1.2.Thủy văn, tài nguyên nước 8
1.2.ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI 9
1.1.3.Dân số và lao động 9
1.1.4.Kinh tế xã hội 9
1.1.5.Điều kiện xã hội 15
CHƯƠNG 2.
ĐẶC ĐIỂM THIÊN TAI KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN XẢY RA TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ TĨNH VÀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2010 -
2020 18


1.3.ĐẶC ĐIỂM MỘT CỦA THIÊN TAI BÃO, LŨ LỤT VÀ HẠN HÁN TẠI HÀ
TĨNH 18
1.3.1.Bão 18
2.1.1.Lũ lụt 20
2.1.2.Hạn hán 24
1.4.NHỮNG NÉT TỔNG QUAN VỀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ
HỘI TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 – 2020 26
2.1.3.Định hướng chung 26
2.1.4.Những chỉ tiêu cơ bản 26
2.1.5.Định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực 29
CHƯƠNG 3.ẢNH HƯỞNG CỦA THIÊN TAI DO BÃO, LŨ, LỤT, HẠN HÁN ĐẾN
CÁC QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2011 – 2020 35
1.5.ẢNH HƯỞNG CỦA BÃO, LŨ LỤT, HẠN HÁN ĐẾN QUY HOẠCH PHÁT
TRIỂN NÔNG LÂM NGƯ NGHIỆP CỦA TỈNH HÀ TĨNH 35
3.1.1.Ảnh hưởng đến cây trồng và sản xuất nông nghiệp 35
3.1.2.Ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng 36
3.1.3.Ảnh hưởng đến nguồn lợi hải sản và cá 37
1.6.ẢNH HƯỞNG CỦA BÃO, LŨ LỤT, HẠN HÁN LÊN CÁC QUY HOẠCH
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP, NĂNG LƯỢNG, GIAO THÔNG VẬN TẢI, XÂY
DỰNG CỦA TỈNH HÀ TĨNH 38
i
3.1.4.Ảnh hưởng đến các đô thị và công trình 38
3.1.5.Ảnh hưởng đến ngành năng lượng và giao thông vận tải 38
1.7.ẢNH HƯỞNG CỦA BÃO, LŨ LỤT, HẠN HÁN LÊN CÁC QUY HOẠCH
PHÁT TRIỂN HỆ SINH THÁI, ĐA DẠNG SINH HỌC, TÀI NGUYÊN NƯỚC,
SỨC KHỎE CON NGƯỜI 39
3.1.6.Ảnh hưởng đến các hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học 39
3.1.7.Ảnh hưởng đến tài nguyên nước 39
3.1.8.Ảnh hưởng đến y tế và sức khỏe con người 39
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 41

ii
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê tần suất bão và ATNĐ tại khu vực từ Nghệ An – Quảng Bình
(1961 – 2010) 18
Bảng 2.2. Phân loại chỉ số hạn hán 24
Bảng 2.3. Mạng lưới chợ tỉnh Hà Tĩnh 33
iii
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Hà Tĩnh 6
Hình 2.2. Thống kê các cơn bão đổ bộ vào khu vực Hà Tĩnh (1961 – 2010) 19
Hình 3.3. Gió bão làm đổ lúa 35
Hình 3.4. Ngập lụt do lũ 36
Hình 3.5. Hạn hán ảnh hưởng đến đất trồng nông nghiệp 36
Hình 3.6. Lũ lụt ảnh hưởng tới nguồn lợi thủy hải sản 37
iv
MỞ ĐẦU
Thiên tai thường gây ra nhiều tác động có hại lên môi trường sống của con
người và tài nguyên môi trường. Tuy vậy cho đến nay khi nói về thiệt hại do thiên tai
gây ra người ta thường chỉ nghĩ đến những thiệt hại về tài sản và tính mạng của con
người mà còn chưa chú ý đầy đủ đến những thiệt hại do thiên tai gây ra cho tài nguyên
môi trường. Những thiệt hại do thiên tai gây ra đối với tài nguyên môi trường có quan
hệ chặt chẽ với tính mạng và sức khỏe của người dân, có ảnh hưởng sâu sắc đến sản
xuất và có tác động to lớn đến an sinh xã hội.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đối gió mùa, ở vị trí là một trong 5 ổ bão của khu
vực Châu Á Thái Bình Dương, nơi thường xuyên phải đối mặt với nhiều loại hình
thiên tai khác nhau, đặc biệt là các trận bão, lũ lụt, hạn hán Trong những năm vừa
qua, thiên tai đã xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước và đã gây ra nhiều thiệt hại to
lớn về người, về tài sản của nhà nước và nhân dân. Thiên tai cũng gây ra nhiều tổn thất
cho các kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và đã có những tác động sâu sắc đến tài nguyên
môi trường của nhiều vùng.

Vì vậy, trước tình hình nghiêm trọng do ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là
thiên tai biển, việc đánh giá tổng hợp diễn biến của thiên tai liên quan tới KTTV tại
các vùng trọng điển là hết sức cần thiết.
Hà Tĩnh là một vùng đất nằm trên dải đất miền Trung thiên nhiên không mấy
ưu đãi, nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển
tiếp của miền Bắc và miền Nam nên có khí hậu khắc nghiệt, cùng với đó là sự biến đổi
khí hậu có tác động không nhỏ tới các hoạt động của con người đặc biệt là tác động tới
các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Nhận thức rõ ảnh hưởng đó và nhằm đưa ra những nhận định, cảnh báo thiết
thực nhất cho tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, chuyên đề “đánh giá ảnh hưởng của các hiện
tượng như bão, lũ lụt, hạn hán đến quy hoạch phát triển kinh tế tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn
2011 – 2020” được trình bày những nét chung nhất về tình hình thiên tai bão, lũ lụt,
hạn hán ảnh hưởng tới quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh. Nội dung
chính của chuyên đề bao gồm:
Chương 1: đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh
Chương 2: đặc điểm thiên tai khí tượng thủy văn xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020.
Chương 3: đánh giá ảnh hưởng của thiên tai bão, lũ lụt, hạn hán đến quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2011 – 2020.
v
CHƯƠNG 1.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Hà tĩnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, diện tích tự nhiên 602649,96 ha, tọa độ địa
lý 17
0
54

– 18

0
38

vĩ độ Bắc, 105
0
11

– 106
0
36

kinh độ Đông. Ranh giới phía Bắc giáp
với tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp với tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp với tỉnh
Boolikhamxay và KhămMuộn của Lào (với 170km biên giới Quốc gia) và phía Đông
giáp với biển Đông với chiều dài bờ biển hơn 137km.
Hà Tĩnh có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với cả nước, mà còn với nước
bạn Lào và vùng Đông Bắc của Thái Lan. Trong tương lai, Hà Tĩnh có điều kiện trở
thành cầu nối của hai miền Nam, Bắc và là nút giao thông quan trọng trên trục hành
lang Đông, Tây của khu vực, với các tuyến giao thông huyết mạch đi qua: Quốc lộ 1A,
đường sắt, đường Hồ Chí Minh, đường biển (trục giao thông Bắc, Nam); Quốc lộ 8 với
cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo và Quốc lộ 12 với cửa khẩu Cha Lo Quảng Bình (trục
hành lang Đông Tây), nối với hệ thống cảng biển nước sâu Vũng Áng đã và đang đầu
tư xây dựng.
Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện với 262 phường xã, thị trấn, gồm
10 đơn vị huyện, 2 thị xã. Thị xã Hà Tĩnh là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá
của tỉnh nằm cách Hà Nội 341 km và cách thành phố Vinh 50 km về phía Nam theo
Quốc lộ 1A.
6
Xét về vị trí địa lý cho thấy tỉnh Hà Tĩnh có điều kiện thuận lợi để phát triển

kinh tế, giao lưu vận chuyển hàng hoá, vì có lợi thế nằm tiếp giáp với các đô thị lớn và
cửa khẩu Quốc tế quan trọng, có nhiều thế mạnh cả về giao thông đường thuỷ và
đường bộ.
1.1.2. Địa hình, địa chất
1.1.1.1. Vùng núi cao
Địa hình vựng núi cao thuộc phía Đông của dãy Trường Sơn bao gồm các xã
phía Tây của các huyện Hương Sơn, Hương Khờ, Kỳ Anh. Địa hình dốc bị chia cắt
mạnh, hình thành các thung lũng nhỏ hẹp chạy dọc theo các triền sông lớn của hệ
thống sông Ngàn Phố, Ngàn Sừu, Rào Trổ. Các thung lũng này cũng là vùng sinh sống
của cư dân các dân tộc. Sản xuất của dân cư trong vùng là hỗn hợp nông lâm nghiệp
theo phương thức khai thác tận dụng tự nhiên do vậy năng suất cây trồng và năng suất
lao động thấp. Mức thu nhập của dân thấp do chưa được đầu tư thích đáng, cơ sở vật
chất nghèo nàn, hạ tầng cơ sở yếu kém. Vùng này có tiềm năng phát triển cây công
nghiệp ngắn, dài ngày, cây ăn quả, nghề rừng và chăn nuôi gia súc.
1.1.1.2. Vùng trung du và bán sơn địa
Đây là vùng chuyển tiếp từ vùng núi cao xuống vùng đồng bằng. Vùng này
chạy dọc phía Tây Nam đường Hồ Chí Minh bao gồm các xã vùng thấp của huyện
Hương Sơn, các xã thượng Đức Thọ, thượng Can Lộc ven Trà Sơn, của các huyện
Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình có dạng xen lẫn giữa các đồi trung bình và
thấp với đất ruộng. Đất đai không bằng phẳng, hệ thực vật chủ yếu là cây lùm bụi, cây
công nghiệp, rừng trồng và trảng cỏ. Sản xuất nông nghiệp chính là cây lúa nước, cây
màu, cây công nghiệp ngắn, dài ngày và chăn nuôi gia súc, trồng cây lâm nghiệp.
Trong vùng bước đầu đã có sự đầu tư trong sản xuất các loại cây như lạc, đỗ, chố, cây
ăn quả. Các sản phẩm chăn nuôi như trâu, bò, lợn, dê, hươu. Đây là vùng có tiềm năng
đất đai cho phép sản xuất nhiều sản phẩm nông sản hàng hóa tập trung có thể đầu tư
xây dựng các trang trại thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh.
1.1.1.3. Vùng đồng bằng
Là vùng chạy dọc giữa đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 1A theo chân núi Trà
Sơn và vùng ven biển bao gồm các xã vùng giữa của huyện Đức Thọ, Can Lộc, thị xã
Hồng Lĩnh, Thạch Hà, TP. Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. Địa hình toàn vùng

tương đối bằng phẳng do quá trình bồi tụ phù sa của các sông phù sa biển trên các vỏ
phong hoá Feranit hay trầm tích biển. Đây là vùng dân cư đông đúc, sản xuất chủ yếu
là cây lúa nước, lạc, đậu, đỗ, khoai lang, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra còn có
các nghề phụ như dệt chiếu, dệt vải, đan lát, làm mộc.
1.1.1.4. Vùng ven biển
Nằm ở phía Đông đường QL1A chạy dọc theo bờ biển gồm các xã của huyện
Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình được tạo bởi những
đụn cát, các vùng trũng được lấp đầy trầm tích đầm phá hay phù sa được hình thành do
các dãy đụn cát chạy dài ngăn cách bãi biển. Ngoài ra trong vùng còn xuất hiện các
dãy đồi núi sót chạy dọc ven biển do kiến tạo của dãy Trường Sơn Bắc. Do nhiều cửa
7
sông, lạch tạo nên nhiều bãi ngập mặn. Dân cư trong vùng có mật độ lớn sản xuất bằng
nghề nông, đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, làm muối. Đây là vùng có tiềm năng phát
triển nghề biển mạnh, sản xuất lúa vùng này cho năng suất thấp do thiếu nguồn nước
ngọt, đất đai bị nhiễm mặn, chua nhiều, mùa mưa thường bị ngập lụt. Hướng chuyển
đổi về cơ cấu canh tác có thể chuyển dần vùng đất lúa đang canh tác có sản lượng thấp
sang nuôi trồng thuỷ sản.
1.1.1. Khí hậu
1.1.1.5. Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm đạt 23,8
0
C. Nhiệt độ trung bình tháng nhỏ nhất đạt
17
0
C. Các tháng chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng, nhiệt độ trung bình tháng đạt
28,7 ÷ 29,8
0
C vào tháng VII.
1.1.1.6. Độ ẩm tương đối
Độ ẩm tương đối trung bình năm đạt 85%. Độ ẩm thấp nhất xảy ra vào các

tháng có gió Tây khô nóng tháng VII và đạt 70%. Độ ẩm cao nhất xảy ra vào các
tháng cuối mùa đông, khi có mưa phùn hoặc các tháng mùa mưa và đạt 90 ÷ 92%.
1.1.1.7. Bốc hơi
Bốc hơi Piche trung bình năm đạt 800mm. Lượng bốc hơi lớn xảy ra vào tháng
VII với lượng bốc hơi trung bình tháng đạt từ 180 ÷ 200mm. Tháng II có lượng bốc
hơi nhỏ nhất đạt từ 27 ÷ 34mm.
1.1.1.8. Số giờ nắng
Số giờ nắng đạt từ 1.400 ÷ 1.600 giờ.
1.1.1.9. Tốc độ gió
Tốc độ gió trung bình năm 1,7 m/s - 2,3 m/s. Tốc độ gió lớn nhất khi có bão đạt
>40 m/s. Hướng gió mùa đông là hướng Đông Bắc, mùa khô thịnh hành gió Tây Nam
hoặc gió Đông Nam.
1.1.1.10. Chế độ mưa
Hà Tĩnh có lượng mưa năm khá phong phú, trung bình năm đạt từ 2.300 ÷
3.000mm. Những vùng mưa lớn như Kỳ Lạc (Kỳ Anh) lượng mưa đạt 3.220mm.
Những tâm mưa lớn thượng nguồn sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Rào Trổ, Hoành Sơn có
năm lượng mưa năm đạt 4.586 mm năm 1978 ở Bàu Nước, 4.386mm tại Kỳ Anh năm
1990, 4.450 mm năm 1990 tại Kỳ Lạc.
Mùa mưa bắt đầu từ thỏng VIII tới tháng XI. Tuy nhiên tháng V, VI có mưa
Tiểu Mãn gây ra lũ Tiểu Mãn. Lượng mưa mùa mưa đạt 65 - 70% lượng mưa năm,
còn lại là mùa khô.
1.1.2. Thủy văn, tài nguyên nước
Hà Tĩnh có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, nhưng có đặc điểm chung là chiều
dài ngắn, lưu vực nhỏ, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn, nhất là về mùa mưa lũ.
Sự phân bố dòng chảy đối với các sông suối ở Hà Tĩnh theo mùa rõ rệt, hầu hết
các con sông chịu ảnh hưởng của mưa lũ ở thượng nguồn, những vùng thấp trũng ở hạ
8
lưu đất thường bị nhiễm mặn do chế độ thuỷ triều ảnh hưởng xấu đến sản xuất, tuy
nhiên có thể tận dụng đặc điểm này để quy hoạch phát triển vùng nuôi trồng thuỷ sản
nước lợ.

Hà Tĩnh có nguồn nước mặt phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá dày
đặc. Theo số liệu của chi cục Quản lý nước và Công trình thuỷ lợi: Hà Tĩnh có 266 hồ
chứa có dung tích trữ trên 600.10
6
m
3
, 282 trạm bơm có tổng lưu lượng 338.000m
3
/s,
15 đập dâng tổng lưu lượng cơ bản 6,9m
3
/s với trữ lượng này hiện tại Hà Tĩnh đã phục
vụ tưới được 47.737 ha/vụ. Tuy nhiên việc sử dụng nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp và sinh hoạt còn bị hạn chế do bị nhiễm mặn ở hạ lưu vào mùa khô và lũ lụt
mùa mưa.
Nước ngầm ở Hà Tĩnh tuy chưa có số liệu điều tra toàn diện nhưng qua các số
liệu đã thu thập được cho thấy mức độ nông sâu thay đổi phụ thuộc địa hình và lượng
mưa trong mùa. Thông thường vùng đồng bằng ven biển có mực nước ngầm nông,
miền trung du và miền núi nước ngầm thường sâu và dễ bị cạn kiệt vào mùa khô, ảnh
hưởng không nhỏ đến sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Về chất lượng nước ở Hà
Tĩnh nhìn chung khá tốt, thích hợp với sinh trưởng và phát triển của cây trồng cũng
như sinh hoạt. Riêng đối với vùng đồng bằng ven biển thường bị nhiễm mặn do thuỷ
triều, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân, vì vậy cần kiểm tra độ mặn
nước sông trước khi bơm tưới cho cây trồng. Đặc biệt, Hà Tĩnh có mỏ nước khoáng ở
Sơn Kim huyện Hương Sơn, vị trí thuận lợi cạnh đường Quốc lộ 8 và gần cửa khẩu
Quốc tế Cầu Treo rất có điều kiện để phát triển thành một khu du lịch dưỡng bệnh.
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI
1.1.3. Dân số và lao động
Dân số tỉnh Hà Tĩnh tính đến 31/12/2005 có 1.289.058 người, chiếm 1,7% dân
số cả nước, trong đó dân số nông thôn chiếm 89,03%, (cả nước là 74%). Mật độ dân

số trung bình là 214 người/km
2
, cao hơn trung bình toàn vùng Bắc Trung bộ (203
người/km
2
), nhưng thấp hơn trung bình cả nước (246 người / km
2
).
Dân số gia tăng đã làm cho nhu cầu về đất ở, đất xây dựng, đất canh tác cây
lương thực, thực phẩm tăng theo tạo nên sức ép rất mạnh đến tài nguyên đất vốn đã
hạn hẹp của tỉnh. Dân cư phân bố không đồng đều: tập trung cao ở khu vực đồng bằng
phía Đông Bắc tỉnh, còn dọc đường Hồ Chí Minh dân cư thưa thớt. TP. Hà Tĩnh có
mật độ dân số 1389 người/ km
2
, trong khi huyện Hương Khê mật độ dân số chỉ có 83
người trên km
2
, Vũ Quang 52 người trên km
2
Lao động trong độ tuổi khoảng 702 nghìn người, chiếm 51,0% dân số. Lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 511,5 ngàn người, trong đó nông lâm
nghiệp chiếm gần 83%; công nghiệp xây dựng 7%, còn lại khoảng 10,0% làm việc
trong khu vực dịch vụ. Năm 2005 tỷ lệ lao động thành thị không có việc làm 3,74%.
Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp. Năm 2004 tỷ lệ lao
động qua đào tạo dưới mọi hình thức chỉ khoảng 20%, thấp hơn so trong bình cả nước
(25%).
1.1.4. Kinh tế xã hội
9
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn 2000 - 2005, Hà Tĩnh đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức

nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra.
Tốc độ tăng GDP khá cao, nông nghiệp phát triển vững chắc. Cơ cấu kinh tế dịch
chuyển theo hướng công nghiệp hóa, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch
vụ. Văn hóa xã hội phát triển mạnh, an ninh trật tự được giữ vững. Đời sống nhân dân
được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần.
Năm 2005, GDP tính theo giá hiện hành đạt 5.990,7 tỷ đồng, bằng 0,72% GDP
cả nước. (Tính theo giá 94, GDP năm 2005 đạt 4.063,5 tỷ đồng). Tăng trưởng kinh tế
ổn định, giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước, cao hơn trung bình cả nước, nhưng
còn thấp hơn so với các tỉnh lân cận và vùng Bắc Trung bộ.
Nhịp độ tăng GDP nông nghiệp khá cao và ổn định ở mức 45%. Trong thời kỳ
20002005, tổng sản phẩm ngành nông lâm nghiệp thuỷ sản tăng, bình quân 4,70%/
năm, cao hơn so với trung bình cả nước (4,0%).
Công nghiệp và xây dựng có nhịp độ tăng khá cao, đạt 14,74%/năm, nhưng do
quy mô của khu vực này còn nhỏ bé, nên đóng góp vào tăng GDP còn bị hạn chế.
Khu vực dịch vụ tăng khá ổn định, cao hơn trung bình vùng Bắc Trung bộ và
cả nước. Trong giai đoạn 2000 - 2005, nhịp độ tăng dịch vụ đạt 9,32%/năm.
1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong suốt thời kỳ 2001 - 2005, cơ cấu kinh tế của tỉnh theo GDP có sự chuyển
dịch đúng hướng, phù hợp với xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế chung của cả nước,
theo xu thế tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ
trọng khu vực nông lâm thủy sản, được thể hiện như sau (bảng 2):
Bảng 2: Cơ cấu các ngành kinh tế qua một số năm
Chỉ tiêu
Đơn
vị tính
Năm
2000
Năm
2001
Năm

2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Cơ cấu GDP % 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
1. Nông lâm thủy sản %
51,31 49,89 49,1 48,02 47,02 43,13
2. Công nghiệp xây dựng %
13,45 14,05 15,46 18,05 19,84 22,45
3. Dịch vụ %
35,24 36,06 35,44 33,93 33,14 34,42
Khu vực thủy sản nông lâm có tỷ trọng giảm đều trong cơ cấu GDP của tỉnh từ
51,31% năm 2000 xuống còn 43,13% năm 2005. Ngược lại tỷ trọng của khu vực công
nghiệp xây dựng và khu vực dịch vụ trong GDP tăng dần, tương ứng tăng từ 13,45%
và 35,24% năm 2000 lên 22,45% và 34,42% năm 2005.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa và thay đổi đều ở cả ba khu vực theo hướng dần từng bước hình thành nên cơ cấu
Dịch vụ Công nghiệp Nông lâm thủy sản. Tuy nhiên mức độ chuyển dịch kinh tế hiện
nay diễn ra còn chậm, chưa có bước đột phá.
1.1.1.3. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
a. Nông – lâm – ngư – diêm nghiệp
10
• Nông nghiệp
Trong những năm qua nông nghiệp là ngành sản xuất chính, góp phần ổn định
đời sống nhân dân trong tỉnh. Năm 2005, GDP nông nghiệp là 2032 tỷ đồng, chiếm
45,9% tổng GDP cả tỉnh, gấp 2,32 lần năm 1995, nhưng còn thấp hơn so với chỉ tiêu
này của cả nước (3,11 lần)

Tăng sản lượng một số cây trồng vật nuôi chính:
Trong giai đoạn 2001 - 2005, sản lượng lương thực tăng trên 10%, do tăng diện
tích gieo trồng (tăng vụ) và tăng năng suất cây trồng. Trong đó tăng sản lượng xấp xỉ
5%. Trong cùng thời kỳ, sản lượng cây công nghiệp tăng khá cao, nhưng chủ yếu do
tăng diện tích gieo trồng.
Để đảm bảo tăng giá trị sản xuất ổn định như thời gian qua, cần xây dựng một
số hồ chứa nước đa tác dụng, đồng thời cần áp dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật sinh
học vào trồng trọt và chăn nuôi trên diện rộng.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp:
Năm 2005, nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) chiếm 81,98%, lâm nghiệp:
7,14% và thuỷ sản chiếm 10,88% tổng giá trị sản xuất.
Trồng trọt
Trong những năm qua ngành trồng trọt đã có những thành công căn bản, năng
suất cây trồng tăng cao, nhất là lúa. Cơ cấu cây trồng được bố trí hợp lý hơn, tỷ trọng
cây lâu năm tăng dần. Tỷ lệ các loại giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt được
sử dụng tăng dần. Tuy vậy, ứng dụng các loại giống cây mới vào sản xuất còn hạn chế,
nhân ra diện rộng còn chậm.
Chăn nuôi
Quy mô và chất lượng đàn gia súc, gia cầm tăng dần, nhưng đóng góp của chăn
nuôi vào thu nhập của người dân tăng chậm.
Giá trị sản xuất chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất khu vực nông nghiệp có xu
hướng tăng, năm 2001 chiếm 29,73% tăng lên 31,38% năm 2005.
Tuy vậy, trong suốt thời kỳ 1996 - 2005, số trâu bò bình quân trên hộ nông
nghiệp hầu như không tăng, bình quân 1,1 con / hộ.
Tổng đàn lợn năm 2005 có 453 nghìn con, tốc độ tăng bình quân 1996 - 2005 là
3,73%. Hình thức chăn nuôi hộ gia đình có quy mô ngày càng lớn. Đàn lợn tăng khá
nhanh trong giai đoạn 2001 - 2005, do lương thực bình quân đầu người tăng, từ 264kg
năm 1995 lên 378kg/ người năm 2005, và thị trường thức ăn gia súc khá phát triển,
nhưng hiện nay, thị trường tiêu thụ thịt lợn còn nhỏ, do quy mô dân số nhỏ và thu nhập
bình quân đầu người còn thấp, nhất là khu vực nông thôn.

Thuỷ sản
Hà Tĩnh là tỉnh có ngư trường rộng với 137 km bờ biển, có điều kiện khá thuận
lợi cho phát triển thuỷ sản trong những năm gần đây. Nhưng có những hạn chế như
bão, lũ, nguồn lợi hải sản ven bờ cạn kiệt, suất đầu tư cho nuôi trồng và đánh bắt xa bờ
lớn.
11
Nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh phát triển khá cân đối từ nâng cấp cơ sở hạ tầng
nuôi trồng như hồ ao, đến phát triển các cơ sở cung cấp con giống.
Diện tích nuôi trồng năm 2004 là 5.400 ha, trong đó nước ngọt 2630 ha; nước
lợ 2.770 ha.
Hiện có 3 trại giống cá cấp 1 và nhiều trại giống cấp 2, 5 trại giống tôm. Năm
2005 chế biến xuất khẩu thuỷ sản đạt 3.600 tấn. Ngoài ra còn có các cơ sở chế biến
nước mắm phục vụ tiêu dùng nội địa.
• Lâm nghiệp
Hà Tĩnh là tỉnh có tiềm năng phát triển lâm nghiệp, trên cơ sở tái trồng rừng ở
những nơi đã khai thác gỗ chỉ còn trảng cỏ và cây bụi. Trong những năm qua, các dự
án trồng rừng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến được thực hiện tốt, góp phần đưa
độ che phủ của rừng tăng nhanh từ 38% năm 2001 lên 43,5% năm 2005, nhưng đóng
góp của ngành vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2005
đạt 183,4 tỷ đồng, trong đó dịch vụ lâm nghiệp là 37,6 tỷ đồng, trồng và nuôi rừng:
29,7 tỷ đồng, khai thác gỗ và lâm sản đạt gần 15 tỷ đồng.
Kinh tế trang trại nông lâm kết hợp: Hiện nay đã có hơn 1.300 trang trại với
tổng diện tích 12.000 ha chủ yếu là trồng, khoanh nuôi rừng, trồng cây ăn quả và chăn
nuôi. Doanh thu từ trang trại chưa nhiều, đạt khoảng 910 tỷ đồng, thu hút được 8.700
lao động nhưng còn thấp so với tiềm năng. Số trang trại hoạt động có hiệu quả còn ít.
Hiện chỉ có 23 trang trại đạt tiêu chuẩn theo quy định của bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn.
Chế biến lâm sản: Bao gồm khai thác chế biến nhựa thông và các cơ sở chế
biến lâm sản. Rừng thông cấp tuổi V và IV vào khoảng hơn 9.000 ha, hàng năm cho
hơn 4.000 tấn nhựa. Có khoảng 200 cơ sở chế biến lâm sản, chủ yếu là xẻ gỗ xây dựng

và đóng đồ mộc dân dụng. Các ngành này tăng trưởng chậm do thiếu nguyên liệu
(nguồn nguyên liệu chủ yếu là gỗ lậu).
• Diêm nghiệp
Diêm nghiệp là ngành truyền thống của tỉnh, nhưng hiệu quả sản xuất kinh
doanh thấp. Diêm nghiệp được tập trung sản xuất ở 4 huyện: Thạch Hà, Cẩm Xuyên,
Kỳ Anh và Nghi Xuân với sản lượng muối hàng năm đạt 26.000 tấn, trong đó muối i
ốt 13.000 tấn. Có 4.000 hộ với hơn 8.000 lao động làm diêm nghiệp. Do làm muối thủ
công năng suất thấp, đời sống của người làm muối còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ đói
nghèo của vùng làm muối chiếm 17% (theo tiêu chuẩn cũ), cao hơn mức trung bình
của tỉnh.
b. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh có hai đặc điểm nổi bật:
(1) Công nghiệp và TTCN của tỉnh còn nhỏ bé đang trong giai đoạn bắt đầu
phát triển. Năm 2005, trên địa bàn của tỉnh có 12.122 cơ sở sản công nghiệp, giải
quyết việc làm thường xuyên cho 28,5 nghìn lao động, bằng 3,9% tổng số lao động
đang làm việc trong các ngành kinh tế cả tỉnh.
12
(2) Trong thời kỳ 1996 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp tăng khá cao, đạt 14,7%/năm theo xu hướng tăng dần.
Nhờ sự nỗ lực của ngành, trong những năm qua công nghiệp đã có nhiều khởi
sắc, là do:
Công nghiệp và TTCN của tỉnh phát triển đúng hướng, dựa trên các thế mạnh
về tài nguyên và lao động. Tỉnh đã khai thác quặng Titan, khai thác vàng, chế biến
dăm gỗ, sản xuất vật liệu xây dựng cho xuất khẩu và để sử dụng trong nước.
So với 10 năm trước, thiết bị và công nghệ được nâng cấp, trong đó thiết bị khai
thác quặng Titan được đánh giá vào loại hiện đại.
Một số cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản có quy mô khá đã đi vào hoạt
động. Từ năm 1997 đến nay, trên địa bàn Hà Tĩnh đã có ba doanh nghiệp có quy mô
khá đi vào hoạt động là: nhà máy thủy sản đông lạnh, chế biến dăm gỗ xuất khẩu và
chế biến hoa quả,

Cơ cấu theo ngành: Công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản
xuất CNTTCN trên địa bàn Hà Tĩnh, nhưng có xu hướng giảm. Công nghiệp khai thác
mới được phát triển, có tỷ trọng ngày càng tăng. Công nghiệp sản xuất và phân phối
điện nước chưa phát triển, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp toàn tỉnh.
Năm 2005 giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến đạt 1081 tỷ đồng, trong
đó sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm 34,3%, sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản
chiếm 16,9%, sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại chiếm 16,4%, sản xuất đồ gia
dụng và bàn ghế chiếm 10,9%, các sản phẩm khác chiếm tỷ trọng nhỏ.
Về mạng lưới công nghiệp tiểu thủ công nghiệp của tỉnh bố trí khá hợp lý, đảm
bảo chi phí quy đổi thấp, trên cơ sở khai thác lợi thế về tài nguyên, gần nguồn nguyên
liệu, gần nơi tiêu thụ, và ở những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, như nhà máy gạch
Tuynen đã bố trí ở khu mỏ đất sét. Tuy vậy bố trí không gian còn bộc lộ một số hạn
chế: Sản xuất tiểu thủ công nghiệp xen kẽ trong dân vừa gây ô nhiễm môi trường vừa
khó quản lý về chất lượng và tài chính. Vì vậy trong các năm tới, cần xem xét bố trí
nhà máy trong các khu công nghiệp đã được hình thành.
c. Thương mại và du lịch
• Thương mại
Thương mại đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, mặc dù sản
xuất hàng hoá chậm phát triển và sức mua của dân cư còn thấp, số cơ sở và lao động
tham gia làm dịch vụ ngày một tăng, nhưng chủ yếu ở thị xã, thị trấn và một số xã
vùng ven đô thị.
Các trung tâm thương mại của tỉnh đang trong quá trình hình thành, mạng lưới
chợ nông thôn khá phát triển, đảm bảo được nhu cầu trao đổi hàng hóa của người dân.
Năm 2000 có 16.548 lao động làm thương mại dịch vụ, bằng 2,86% tổng số lao động
toàn tỉnh. Năm 2005 có khoảng 31.542 lao động, bằng 5,56% tổng số lao động đang
làm việc trong các ngành kinh tế.
13
Năm 2005, trong tổng mức bán lẻ hàng hoá của các cơ sở nhà nước chiếm
11,8%, còn lại 88,2% là do thành phần kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể thực hiện.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, lĩnh vực thương nghiệp còn bộc lộ một số
hạn chế chủ yếu như:
Thiếu chiến lược thị trường, đồng thời còn thiếu các sản phẩm dịch vụ mang
bản sắc riêng, khả năng cạnh tranh còn yếu, chất lượng dịch vụ chưa tương xứng với
giá cả;
Số lượng doanh nghiệp làm thương nghiệp tuy nhiều nhưng chủ yếu là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, vòng quay vốn còn thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao.
• Du lịch
Trên địa bàn Hà Tĩnh đã hình thành một số điểm du lịch có ý nghĩa Quốc gia và
Quốc tế như khu lưu niệm Nguyễn Du, khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang và nhiều
điểm du lịch khác có ý nghĩa vùng và địa phương.
Cơ sở hạ tầng du lịch ngày càng được hoàn thiện, số nhà nghỉ, khách sạn, nhà
hàng ở các khu du lịch tăng về số lượng và chất lượng. Tuy vậy, công tác đảm bảo vệ
sinh môi trường, trật tự an toàn tại các khu du lịch còn nhiền bất cập. Đặc biệt là hệ
thống thu gom, chứa và xử lý sơ bộ chất thải tại các điểm du lịch còn chưa đảm bảo
yêu cầu vệ sinh sạch sẽ, nhiều nơi còn thiếu.
Hiện tại, chưa có những sản phẩm du lịch đặc trưng, hấp dẫn đối với khách du
lịch nên ngày lưu trú của khách còn thấp. Du lịch mang tính mùa vụ, khách du lịch đến
Hà Tĩnh chủ yếu vào các dịp lễ hội, kỳ nghỉ hè. Doanh thu du lịch từ khách Quốc tế
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số doanh thu. Trong hoạt động lữ hành, việc nối các
tour du lịch với các tỉnh và cả nước còn nhiều hạn chế. Hệ thống khách sạn có quy mô
vừa và nhỏ, trang thiết bị thiếu đồng bộ. Sử dụng nhà nghỉ, khách sạn tại các khu du
lịch biển còn thấp, mới đạt 2530% tổng số buồng phòng. Tỷ lệ lao động và cán bộ có
trình độ nghiệp vụ du lịch còn thấp.
1.1.1.4. Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn
Thực trạng phát triển đô thị:
Hiện nay toàn tỉnh có 14 đô thị, trong đó 1 thị xã loại IV, TP. Hà Tĩnh đã được
công nhận là đô thị loại III, còn 12 thị trấn đô thị loại V. Hầu hết các đô thị là trung
tâm hành chính, y tế, giáo dục, quản lý nhà nước và thương mại. Dân số đô thị năm
2005 chiếm 10% tổng số dân. Dự báo đến 2020, dân đô thị chiếm 30% tổng số dân,

gấp 3 lần hiện nay. Điều kiện sống của người dân đô thị khá tốt. Bình quân đất ở đô thị
từ 150 - 250 m
2
/hộ. Tầng cao bình quân của các công trình kiến trúc là 2,2 tầng.
Về cơ sở hạ tầng: có 8/14 đô thị có công trình cấp nước công nghiệp, tổng công
suất 32.000 m
3
/ ngày đêm. Hệ thống giao thông chính có khoảng 36 km, trong đó
80% đã được nhựa hóa. Tất cả các đô thị đều được cấp điện cho sinh hoạt và sản xuất
tốt. Dịch vụ bưu chính viễn thông ở các đô thị thuận lợi.
Thực trạng phát triển khu dân cư nông thôn:
Cũng như các vùng nông thôn khác ở miền Bắc Việt Nam, dân cư nông thôn
tỉnh Hà Tĩnh đã được hình thành từ rất lâu đời, đến nay đã định hình thành khu quần
14
cư là các làng, bản, thôn xóm. Đơn vị quản lý của các thôn bản là các hộ gia định, mỗi
hộ đều có diện tích nhà ở, sân, công trình phụ, chuồng trại gia súc, giếng nước, vườn
cây, ao cá.
Bình quân đất ở nông thôn toàn tỉnh là 53,52 m
2
/người, 231,6 m
2
/hộ.
Đặc điểm phân bố của các khu dân cư nông thôn như sau :
Ở vùng đồi núi khu dân cư thường phân bố ở địa hình ven chân đồi hoặc các
đồi thấp thoải có độ dốc dưới 15
o
.
Ở vùng đồng bằng ven biển, dân cư được phân bố trên các dải cồn cát cao nằm
song song với bờ biển xen kẽ các khu vực sản xuất nông nghiệp, hoặc phân bố dọc
theo các trục đường giao thông chính và ven các con sông lớn của tỉnh.

Do đặc điểm sản xuất của vùng nông thôn nên việc phát triển mở rộng khu dân
cư nông thôn thường gắn chặt với đặc điểm điều kiện tự nhiên của từng địa phương,
thông thường là mở rộng vào đất nông nghiệp xung quanh làng bản.
Trong những năm gần đây cùng với việc phát triển của cơ chế thị trường,
hướng mở rộng khu dân cư có nhiều thay đổi. Đất ở nông thôn được mở rộng theo các
trục giao thông thôn, xã. Vừa giải quyết đất ở gắn với hệ thống dịch vụ.
1.1.5. Điều kiện xã hội
1.1.1.5. Giao thông
Đường bộ:
Hà Tĩnh có 4 đường Quốc lộ chạy qua và 27 tuyến đường tỉnh lộ với tổng chiều
dài 387 km. Nếu tính cả giao thông nông thôn, tổng chiều dài đường bộ trên địa bàn
tỉnh là 2.917 km.
Tuy đạt được những thành tựu nêu trên, nhưng hiện nay 80% đường bộ được
đánh giá vào loại xấu và rất xấu, nhiều đoạn đường bị ngập trong mùa mưa. Hệ thống
cầu, ngầm còn thiếu về số lượng và kém về chất lượng.
Đường sắt:
Đường sắt đi qua địa phận Hà Tĩnh dài 70 km (qua Đức Thọ, Vũ Quang,
Hương Khê). Trên tuyến đường sắt có 11 ga, trong đó cá hai ga hàng hóa là Hương
Phố và Phúc Trạch, góp phần trao đổi hàng hóa thuận lợi cho các điểm dân cư lân cận.
1.1.1.6. Thủy lợi
Các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được chú trọng đầu tư
xây dựng, đang bước vào thời kỳ phát huy tác dụng. Tuy vậy, do điều kiện địa hình
chia cắt, đất dốc, thuỷ lợi chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước trong nông
nghiệp, thiếu nước khá trầm trọng vào các tháng gió Tây nam hoạt động mạnh ảnh
hưởng đến năng suất cây trồng.
1.1.1.7. Giáo dục và đào tạo
Hà Tĩnh là một trong các tỉnh có hệ thống giáo dục phổ thông phát triển nếu so
với cùng mặt bằng mức sống. Hệ thống giáo dục đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
học tập trong tỉnh. Đến năm 2005 tỉnh có 1 trường cao đẳng sư phạm, 4 trường trung
học chuyên nghiệp, 1 trường dân tộc nội trú.

15
Số học sinh trên 1 vạn dân tăng liên tiếp, năm sau cao hơn năm trước. Năm học
1994 - 1995, bình quân toàn tỉnh có 2.434 học sinh / vạn dân tăng lên 2.706 học sinh /
vạn dân năm học 2004 - 2005.
Ngành giáo dục đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Hà Tĩnh là tỉnh sớm
đạt tiêu chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ so với cả nước,
ngay từ năm 1999, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở năm 2003.
Về chất lượng giáo dục: Tỷ lệ học sinh đi học ở các cấp học đều cao hơn trung
bình cả nước. Tỷ lệ giáo viên trên lớp tính chung cho cả tỉnh năm học 2004 - 2005, ở
tiểu học là 1,28 (quy định là 1,15); ở trung học cơ sở là 1,94 (quy định là 1,85); ở
trung học phổ thông là 1,83 (quy định là 2,1). Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học
đạt tỷ lệ cao.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, giáo dục đào tạo vẫn
còn một số khó khăn như:
Chương trình và trang thiết bị đào tạo còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế về lao động kỹ thuật có tay nghề cao.
Mạng lưới trường cần mở rộng để đáp ứng cho nhu cầu học tập ngày càng tăng.
Đối với địa hình các xã vùng núi, khoảng cách đến trường của học sinh còn xa,
cần xem xét lại quy mô, địa điểm trường lớp cho phù hợp.
1.1.1.8. Y tế
Mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe phát triển khá hoàn chỉnh, từ tỉnh xuống xã,
đáp ứng được nhu cầu chữa trị bệnh cho nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ y tế được
tăng cường, năm 2005 bình quân 4,29 bác sỹ/1 vạn dân. Hiện nay, 34,8% số xã có bác
sỹ, với trên 700 cán bộ y tế đang công tác tại các thôn bản.
Cơ sở vật chất ngành y tế được củng cố. Toàn tỉnh có 3.521 giường bệnh, trong
đó số giường bệnh viện là 1890 giường, bằng 53,6% tổng số giường. Bệnh viện đa
khoa tỉnh được xây dựng mới với 450 giường bệnh, có đầy đủ các khoa từ lâm sàng
đến cận lâm sàng, trang thiết bị ngày một đầy đủ và hiện đại hơn.
Công tác KHHGĐ được triển khai, thực hiện tốt. Bằng nhiều hình thức, biện
pháp giáo dục, tăng cường truyền thông, và dịch vụ phù hợp đã tạo nhiều chuyển biến

về nhận thức trong mọi tầng lớp nhân dân, góp phần hạn chế các cặp vợ chồng sinh
con thứ 3 trở lên.
Từ năm 1995 đến nay công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng được chú ý mở
rộng về quy mô và nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo chữa các bệnh thông thường,
chủ động phòng chống và kịp thời dập tắt các dịch bệnh xã hội có khả năng lây lan cho
nhân dân. Nhiều chương trình Quốc gia về y tế được quan tâm sát sao, thực hiện có
hiệu quả.
Tuy vậy, ngành y tế tỉnh cần phải nâng cấp các cơ sở vật chất phục vụ nhu cầu
khám chữa bệnh đang xuống cấp, đầu tư máy móc, thuốc men, đào tạo dược sỹ, bác sỹ
(cấp một) giỏi của một số chuyên khoa thiếu như sản, chụp cắt lớp.
1.1.1.9. Văn hóa xã hội, thể dục thể thao
16
Công tác văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, xây dựng làng văn hóa được triển
khai trên diện rộng và đạt kết quả tốt. Phục vụ tốt, kịp thời các ngày lễ lớn của dân tộc
và lễ hội truyền thống ở các địa phương. Đến năm 2005 đã có 78% gia đình văn hóa,
tăng 30% so với năm 2000.
Công tác tôn tạo, bảo quản và giữ gìn các di tích lịch sử, văn hoá được chú
trọng, các thiết chế văn hoá từ huyện đến cơ sở được tăng cường.
Lĩnh vực thông tin, phát thanh và truyền hình đã thực hiện tốt vai trò làm công
cụ tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đến nay
100% số xã thị trấn được nghe phát thanh và xem truyền hình.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của ngành văn hóa còn thiếu về số lượng và kém về
chất lượng chưa tương xứng với tên gọi của nó. Hiện nay cả tỉnh có 1 trung tâm văn
hóa cấp tỉnh và 11 trung tâm văn hóa huyện, thị nhưng đã xuống cấp, một số trung tâm
còn ở nhà tạm. Vùng sâu, vùng xa đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân còn kém,
thiếu thông tin, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế. Vì vậy để đem tri thức đến với dân,
công tác văn hoá, thông tin và thể dục thể thao cần được tiếp tục đẩy mạnh trong các
năm tới.
1.1.1.10. Bưu chính viễn thông
Bưu chính viễn thông trong thời kỳ 1996 - 2005 đã có bước phát triển tích cực,

tăng cả về số lượng và chất lượng dịch vụ. Năm 2004 số máy điện thoại là 3,2
máy/100 dân, cao hơn 10 lần so với năm 1995. Số bưu cục bình quân km2 là 1,1 cao
hơn trung bình toàn vùng. Đây là sự phát triển tích cực, tuy nhiên, mật độ sử dụng điện
thoại trên toàn tỉnh vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn vùng Bắc Trung bộ và phân
bố không đồng đều.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đã đạt được nhiều thành tựu, song còn bộc lộ một số
hạn chế chủ yếu như: Đầu tư xây dựng còn dàn trải. Huy động nội lực trong dân còn
hạn chế do thu nhập của nhân dân còn thấp. Với cơ chế đầu tư như hiện nay, tỉnh thiếu
chủ động. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước còn thấp. Các dự án đầu tư nhỏ, thiếu
các dự án đầu tư lớn có đủ khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
17
CHƯƠNG 2.
ĐẶC ĐIỂM THIÊN TAI KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN XẢY RA TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH VÀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
1.3. ĐẶC ĐIỂM MỘT CỦA THIÊN TAI BÃO, LŨ LỤT VÀ HẠN HÁN TẠI HÀ
TĨNH
1.3.1. Bão
Bão là hiện tượng đặc biệt nguy hiểm, gây ra gió rất mạnh, có thể đánh đắm tàu
thuyền, làm đổ nhà cửa; mưa rất lớn, gây lũ lụt nghiêm trọng, có khi trở thành thảm
hoạ. Ở nước ta mùa bão hàng năm vào tháng 6 - 11, nhiều nhất vào tháng 7 - 10.
Hà Tĩnh nằm trong khu vực Bắc Trung Bộ nên chế độ bão cũng như chế độ áp
thấp nhiệt đới trong vùng cũng tương tự như chế độ bão và áp thấp nhiệt đới khu vực
Bắc Trung Bộ.
Hàng năm số cơn bão đổ bộ vào vùng biển Hà Tĩnh chiếm khoảng 32% tổng số
bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ và ảnh hưởng đến nước ta, trung bình có khoảng 0.7
cơn/10 vĩ tuyến. Hầu hết những cơn bão đổ bộ vào vùng này có hướng vuông góc với
bờ, trừ những cơn diễn biến phức tạp chuyển động dọc theo bờ từ nam lên bắc và
ngược lại cũng có cơn vào gần bờ chuyển hướng và đi từ bắc xuống nam. Bão thường
đạt cấp 10 và 11, nhiều khi trên cấp 12, tốc độ gió có thể đạt tới 40 - 50m/s, kèm theo

mưa và gây ra sức phá hủy mạnh mẽ với độ cao sóng lớn nhất trong bão đạt 5m.
Theo số liệu thống kê bão từ năm 1961 đến năm 2010 thì ở vùng biển tỉnh Hà
Tĩnh có tới 43 cơn bão và ATNĐ, chủ yếu tập trung vào các tháng 7, 8, 9 và 10.
Bảng 2.1. Thống kê tần suất bão và ATNĐ tại khu vực từ Nghệ An – Quảng Bình (1961
– 2010)
Vùng bờ biển T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
Nghệ An - Quảng Bình 0 0 0.02 0.08 0.24
0.3
1 0.22 0 0
Trong đó thì cơn bão có tên quốc tế là ROSE đổ bộ vào vùng ven biển vào
tháng 8 năm 1968 là một cơn bão mạnh nhất (cấp 13). Ngoài ra có 4 cơn bão mạnh cấp
12, có tên quốc tế là KIM (7/ 1971), ANITA (7/1973), BRIAN (10/ 1989) và BECKY
(8/1990). Hình 3.1 thống kê các cơn bão đổ bộ vào vùng biển Hà Tĩnh từ năm 1961
đến năm 2010.
18
Hình 2.2. Thống kê các cơn bão đổ bộ vào khu vực Hà Tĩnh (1961 – 2010)
Nguồn:[ TT KTTV QG, ]
Bão đổ bộ vào gây thiệt hại rất lớn cho tỉnh Hà Tĩnh điển hình là cơn bão số 5
năm 2007 hay còn có tên là bão Lekina.
Cơn bão số 5 (có tên là bão Lekina) được hình thành ngày 29 tháng 9 từ một
vùng Áp thấp Nhiệt đới trên khu vực đảo Lu Dông (Philipin). Sáng sớm ngày 30 tháng
9 mạnh lên thành bão và đổ bộ vào đèo Ngang khu vực giữa vùng biển tỉnh Hà Tĩnh
Quảng Bĩnh vào 19h tối ngày 3/10 với sức gió cấp 12, giật trên cấp 12. Đây là cơn bão
mạnh, hướng và tốc độ di chuyển thay đổi nhiều lần, khi vào gần bờ cường độ bão
đã không suy yếu mà còn mạnh lên cấp 12, giật trên cấp 12, gây mưa lũ lớn cho các
tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
19
Do mưa to nhiều ngày liền cùng với địa hình đồi núi đã hình thành đợt lũ quét
lớn và được cho là đợt lũ lịch sử tại các tỉnh miền Trung trong vài chục năm gần đây.
Theo Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương, mưa lũ đã làm 37 người chết, 24

người mất tích và hơn 100.000 ha lúa, hoa màu hư hại.
Tỉnh Hà Tĩnh: Tại 4 vùng (Thị xã Hà Tĩnh, các huyện Kỳ Anh, Hương Sơn và
Hương Khê) lượng mưa trong thời gian bị ảnh hưởng của bão (29/910/10/2007) dao
động trong khoảng 290.3 – 554.4 mm; trong và sau bão (29/95/10/2007): 209.1 –
442.1 mm, trong đó có 5 ngày có lượng mưa > 100.0 mm. Nơi có lượng mưa lớn nhất
trong thời gian bị ảnh hưởng của bão là huyện Hương Sơn (554.4 mm), nơi có lượng
mưa lớn nhất trong thời gian trong và sau bão là huyện Kỳ Anh (442.1 mm). Trong 4
vùng nói trên, Thị xã Hà Tĩnh và các huyện lân cận là nơi có lượng mưa ít nhất trong
thời gian bị ảnh hưởng của bão (290.3 mm) và cả trong thời gian trong và sau bão
(209.1 mm).
2.1.1. Lũ lụt
1.1.1.11. Lũ lụt và nguy hại do lũ lụt
Trong mùa mưa, những trận mưa lớn trên lưu vực sông thường gây nên những
trận lũ trên sông suối. Khi lũ lớn từ thượng nguồn dồn về hạ lưu, nước lũ có thể tràn
bờ sông, bờ đê khi lòng sông không đủ khả năng tải nước lũ, gây nên hiện tượng ngập
lụt các vùng trũng ven sông và vùng đồng bằng rộng lớn ở hạ lưu các dòng sông. Lũ
đặc biệt lớn có thể gây vỡ đập, vỡ đê. Nước ta với địa hình dốc, đặc biệt là trên dải đất
miền Trung, nhiều con sông suối nhỏ khi có mưa cường độ lớn đều có nguy cơ sinh lũ
lụt cao. Nếu có mưa lớn dài ngày tại những nơi có độ dốc lớn và nền đất yếu, ẩm ướt
thì khả năng sinh ra lũ quét với sức tàn phá ác liệt là rất cao.
Lũ lớn trên sông diễn biến chậm và thường xảy ra trên diện rộng và kéo dài,
còn lũ quét là một hiện tượng thiên tai có tính chất và đặc điểm khác biệt là lũ diễn
biến nhanh, mang tính bất thần và khốc liệt, mỗi trận xảy ra trên một diện hẹp và phạm
vi tác động cũng hẹp hơn lũ sông. Nếu mưa lớn, nước mưa lại bị tích luỹ bởi các
trướng ngại vật như đất đá, cây cối cho đến khi lượng nước vượt quá sức chịu đựng
của vật chắn, phá vỡ vật chắn, ào xuống cấp tập (rất nhanh), cuốn theo đất đá, cây cối
và quét đi mọi vật có thể quét theo dòng chảy thì được gọi là lũ quét (hay lũ ống),
thường diễn ra rất nhanh, khoảng 36 giờ. Lũ quét xảy ra bất ngờ, nhanh, có sức tàn phá
lớn ở các lưu vực nhỏ.
Lũ lụt là hiện tương thuỷ văn đặc biệt nguy hiểm, nhất là lũ quét. Trong một số

trường hợp nó có sức tàn phá khủng khiếp và trở thành thảm hoạ tự nhiên, như trận lũ
quét năm 1998 ở thị xã Lai châu (cũ) đã xoá sổ cả bản Mường Lay và khu vực thị xã.
Lũ thường xảy ra ở vùng núi, nơi có địa hình đồi núi cao xen kẽ với thung lũng và
sông suối thấp.
Lũ quét tạm thời có thể phân chia làm 3 loại:
+ Lũ gây ra do mưa địa phương, tập trung lớn ở các lưu vực tự nhiên (hầu như
chưa có tác động của con người).
20
+ Lũ gây ra do mưa lớn trên các lưu vực đã chịu tác động mạnh của các hoạt
động kinh tế của con người làm mất ổn định hay phá vỡ cân bằng sinh thái lưu vực
(thay đổi lớp phủ, chế độ dòng chảy, lượng trữ hay các đặc tính lưu vực…).
+ Lũ gây ra do tháo, vỡ thình lình một lượng nước tích do vỡ đập chắn hay các
đập giữ nước, các đập băng
Lũ quét thường xảy ra vào đầu mùa lũ: tháng VI, VII ở Bắc Bộ và tháng X ở
Trung Bộ. Lũ quét thường xảy ra trên các sông suối vừa và nhỏ ở miền núi và trung du
trong phạm vi cả nước, nhưng thường tập trung ở 2 vùng là miền núi và trung du Bắc
Bộ, vùng ven biển Trung Bộ.
Lũ quét thường gây hoạ cho các sông nhỏ và vừa nhưng ít đối với sông lớn. ở
các lưu vực sông suối nhỏ miền núi, nới có điều kiện thuận lợi để hình thành lũ quét
như: địa hình chia cắt, độ dốc lưu vực và độ dốc long sông/suối lớn, độ ổn định của
lớp đất trên bề mặt lưu vực yếu do quá trình phong hóa mạnh, lớp phủ thực vật bị tàn
phá… ở những nơi này, khi xẩy ra mưa lớn, tập trung trong một thời gian ngắn thì dễ
xảy ra lũ quét.
1.1.1.12. Tình trạng lũ lụt tại Hà Tĩnh
Ngập lụt trong mùa mưa bão:Vùng Kỳ Anh Thường xuyên bị ngập lụt trong
mùa mưa bão là các khu vực có địa hình thấp dọc theo sông Quyền, sông Cái và sông
Vinh.
Trong mùa mưa bão, đa phần khu vực đồng bằng địa hình thấp phía đông bắc
vùng nghiên cứu (theo QL.1A) đều bị ngập, khu vực xã Kỳ Thọ, Kỳ Ninh, Kỳ Văn, Kỳ
Trinh, Kỳ Hưng Kỳ Thịnh, Kỳ Lợi ,chỉ các nơi tập trung dân cư có địa hình cao là ít

bị ngập nước. Khu vực cánh đồng thấp ngập sâu 1 1,5m, đoạn đường QL.1A chạy qua
địa phận xã Kỳ Thư bị ngập 0,5m, khu dân cư bị nước tràn vào nhà 0,3 - 0,5m.
Khu vực phía tây nam do có địa hình cao nên không bị ngập nước, nước mưa
chỉ chảy qua dạng chảy tràn theo các suối, sau khi mưa tạnh thì nước rút hết. Ngoài ra,
khu vực xóm Hòa Lộc (xã Kỳ Trinh) do có hệ thống đê ngăn nước tốt nên không bị
ngập
Nguyên nhân vùng thường xuyên bị ngập lụt vào mùa mưa:
 Về mặt địa hình
Đây là vùng có địa hình tương đối phức tạp, có mặt khá đầy đủ các dạng địa
hình núi cao, núi trung bình, núi thấp, đồi và đồng bằng ven biển.
Địa hình núi cao và trung bình với độ cao tới gần 1000m có dải núi thuộc sườn
phía bắc núi Hoành Sơn nổi tiếng nằm ở phía nam vùng nghiên cứu, kéo dài theo
phương á vĩ tuyến. ở khu vực phía đông bắc vùng các núi đá phun trào có độ cao vừa
phải và thấp (50m - 350m), nằm sát bờ biển tạo nên các vũng biển kín thuận lợi cho
việc xây dựng cảng (Vũng áng, Vũng Ná ).
Vùng Kỳ Anh là vùng có địa hình phân dị từ miền núi, đồi thoải đến đồng bằng.
Địa hình có độ dốc nhìn chung nghiêng về phía đồng bằng ven biển
21
Khu vực đồng bằng ven biển trên vùng nghiên cứu có diện tích lớn, chiếm đa số
diện tích vùng nghiên cứu. Khu vực này có địa hình thấp, dễ bị úng ngập vào mùa
mưa.
Dãy núi Cao Vọng núi Bò Càn đỉnh Cây Cơ nằm sát biển và các dải cồn cát
dọc biển như một hệ thống đê tự nhiên vững chắc ngăn cản sự thoát nước vào mùa
mưa. Cửa Khẩu là vị trí thoát nước duy nhất chỉ có bề rộng dao động từ 250m đến
500m, trung bình là 300m.
 Về mặt địa mạo
Theo mặt cắt địa mạo từ phía TN lên phía ĐB ta thấy vùng Kỳ Anh là một vùng
trũng, vùng đồng bằng ven biển và chuyển tiếp từ địa hình núi đến đồng bằng với các
bề mặt địa mạo đa dạng và xen kẽ nhau: sườn bóc mòn tổng hợp, sườn rửa trôi bề mặt,
sườn xâm thực và các bề mặt tích tụ nguồn sông biển, biển, biển gió, sườn tích, lũ

tích, sông và sông lũ. Giữa các bề mặt tích tụ có một số khối núi sót của sườn bóc
mòn tổng hợp, sườn rửa trôi bề mặt. Các bề mặt tích tụ biển gió và các núi sót là các
yếu tố địa mạo cản trở cho việc thoát nước.
 Về mặt thủy văn và cấu trúc lưu vực sông
Hà Tĩnh nói chung và vùng Kỳ Anh nói riêng là khu vực có lượng mưa nhiều ở
miền Bắc Việt Nam với lượng mưa bình quân hàng năm đều trên 2000mm, cá biệt có
năm trên 3000mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm. Tổng lượng mưa trong
vùng dao động trong khoảng 2000 - 3000mm. Lượng mưa này duy trì được một thảm
thực vật khá dày trên các vùng núi, nhiều rừng còn giữ được các vạt rừng nguyên thủy,
trong đó phải kể đến rừng ở phía nam vùng.
Trong cơn bão số 5, năm 2007 vừa qua vùng Kỳ Anh bị ngập nước, trụ sở
UBND huyện và nhiều nhà dân bị ngập đến 1,0m - 1,5m, đa số các xã trong huyện bị
mất thông tin liên lạc, hàng nghìn căn nhà bị ngập và nước cuốn trôi.
Mạng lưới sông suối trong vùng ở mức trung bình và thưa với các sông chính là
Sông Vinh, Sông Trí, Sông Quyền, Sông Cầu Rạc, Suối Thông Đa số chúng là các
sông nhỏ, lưu vực hẹp, bắt nguồn từ sườn bắc dãy núi Hoành Sơn, dòng chảy dốc với
hướng dòng chảy chủ yếu từ nam lên phía Bắc. Tuy là các sông nhỏ nhưng vào mùa
mưa lũ với các đợt mưa cường độ mạnh, dài ngày, nước sông Quyền và sông Vinh các
sông nhỏ khác chảy dồn rất nhanh vào vùng đồng bằng, nước thoát chậm, gây ngập
lụt, ứ đọng. Đường đi của sông Vinh và sông Quyền gấp khúc và đổi hướng liên tục.
Với đường đi như vậy thì sự thoát nước chậm vào mùa mưa bão là hiển nhiên.
Bề ngang sông Quyền thay đổi, có chỗ bị thu hẹp lại, có chỗ phình to hơn và
dao động từ 100m đến 200m. Tại Cửa Khẩu bề rộng trung bình hiện tại là 300m (bề
rộng tại đây năm 1968 là 600m).
Tại khu vực xã Kỳ Thọ, Kỳ Ninh, Kỳ Hưng và Kỳ Thịnh có di tích dòng chảy
cổ. Sông Quyền và sông Vinh có xu hướng chuyển dòng khá phức tạp.
 Về mặt cấu trúc thạch học
Vùng nghiên cứu có cấu trúc địa chất phức tạp. Theo tài liệu đo vẽ, nghiên cứu
địa chất Miền Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 (ĐojikovA.E và nnk., 1965) thì vùng
thuộc phạm vi của đới Hoành Sơn.

22
Nền địa chất gốc của vùng có thành phần khá đa dạng gồm các đá lục nguyên
(cát kết, bột kết, đá phiến sericit ), lục nguyên màu đỏ, đá vôi quét, phun trào axit,
xâm nhập axit có tuổi từ Ordovic đến Jura.
Trầm tích Đệ tứ vùng Kỳ Anh bao gồm các thành tạo cát, sét, bột, sỏi, sạn
nguồn gốc sông, sông lũ, sườn tích, biển, sông biển, biển gió, sông biển đầm lầy
thuộc Pleistocen thượng, Holocen hạ trung, Holocen thượng và Đệ tứ không phân
chia với tổng bề dày đạt trên 70m. Dọc sông Quyền, sông Vinh là các thành tạo sét,
cát, vôi nguồn gốc sông biển đầm lầy tuổi Holocen muộn. Chiều dày trầm tích 2 -
22m. Chúng là tầng đất yếu về mặt cơ lý. Các thân đê ngăn nước của đa số hệ thống đê
lại được định vị trong diện phân bố của tầng đất yếu này nên rất dễ xảy ra hiện tượng
sụt lún thân đê, nứt thân đê, thậm chí vỡ thân đê, nhất là trong mùa mưa bão.
Các thành tạo đá gốc gắn kết ở xung quanh đồng bằng tạo nên các dạng địa
hình dương là các bức tường thành tự nhiên cản trở cho việc thoát nước của vùng
trũng vào mùa mưa, nhất là các khối núi đá nằm kề sát bờ sông và bờ biển.
Trong vùng có một đứt gãy kiến tạo đang hoạt động và nhiều đứt gãy kiến tạo
nhỏ khác chạy theo phương TB - ĐN, ĐB - TN và á vĩ tuyến. Một số đứt gãy kiến tạo
đóng vai trò đặt lòng cho dòng chảy của các sông suối hiện đại.
 Về mặt tân kiến tạo
Nhìn tổng thể, vùng đồng bằng ven biển Kỳ Anh trùng với khu vực sụt tân kiến
tạo tương đối mạnh so với khu vực nâng tân kiến tạo ở phía nam. Độ chênh cao địa
hình giữa chúng dao động từ vài chục mét tới gần 1000m. Xu hướng sụt và nâng vẫn
đang và sẽ tiếp diễn. Như vậy về mặt tân kiến tạo thì trong tương lai vùng đồng bằng
ven biển Kỳ Anh này vẫn tiếp tục sụt và địa hình sẽ lại càng trũng hơn. Ngoài ra trong
vùng còn có nhiều khối nâng địa phương và khối sụt địa phương, đặc biệt khu vực xã
Kỳ Trinh, Kỳ Hưng, Kỳ Hà trùng với diện phân bố của một cấu trúc sụt địa phương
lớn nên thường bị ngập lụt nặng.
Trong vùng có một đứt gãy tân kiến tạo đang hoạt động trùng chạy theo phương
TB ĐN với cơ chế chưa rõ. Nhiều đứt gãy đóng vai trò đặt lòng cho dòng chảy của
các sông suối hiện đại.

 Các hoạt động nhân sinh
Cũng như các vùng khác, nếu so sánh các bản đồ địa hình tỷ lệ 1:50.000 in năm
1975, 2001, 2005 và qua khảo sát tại thực địa thì các công trình dân sinh ngày càng
tăng theo thời gian và có rất nhiều công trình nhân sinh mới xuất hiện. Đó là hệ thống
đê điều, các công trình thủy lợi (kênh mương dẫn nước, tưới tiêu, các trạm bơm, các
đập nước, các hồ nước nhân tạo), các khu dân cư mới, các khu công nghiệp, đường
giao thông, cảng biển, các công trường khai thác đá Mật độ khá dày của các công
trình kể trên đã góp một phần không nhỏ vào việc cản trở các dòng chảy, làm chậm tốc
độ dòng chảy. Một hoạt động nhân sinh gián tiếp nhưng rất quan trọng làm ngày càng
gia tăng nguy cơ ngập lụt cho các vùng nghiên cứu là hiện tượng phá rừng để lấy đất
canh tác ở các vùng núi và sự khai thác tài nguyên và sự can thiệp quá mức của con
người tới thiên nhiên, gây mất cân bằng sinh thái.
23
Xếp theo mức độ quan trọng thì nguyên nhân ngập lụt của vùng nghiên cứu là:
thủy văn, cấu trúc lưu vực sông -> tân kiến tạo -> địa hình -> địa mạo -> hoạt động
nhân sinh -> cấu trúc thạch học.
2.1.2. Hạn hán
1.1.1.13. Định nghĩa và các chỉ số phân hạng
Hạn hán là hiện tượng lượng mưa thiếu hụt nghiêm trọng, kéo dài, làm giảm
hàm lượng ẩm trong không khí và hàm lượng nước trong đất, làm suy kiệt dòng chảy
sông suối, hạ thấp mực nước ao hồ, mực nước trong các tầng chứa nước ngầm dưới đất
v.v
Để đánh giá mức độ hạn hán người ta dùng chỉ số khô hạn. Chỉ số khô hạn
tháng là tỉ lệ giữa lượng bốc hơi tháng trên lượng mưa tháng. Chỉ số khô hạn năm là
lượng bốc hơi năm trên lượng mưa năm.
Người ta dùng chỉ số khô hạn tháng để phân định mùa khô, mùa ẩm cho từng
khu vực và chỉ số khô hạn năm để phân vùng khô hạn theo lãnh thổ.
Tại vùng biển và ven biển Việt Nam chỉ số khô hạn phổ biến là 0.2 - 0.8. Những
nơi có chỉ số khô hạn dưới 0,2 là các rốn mưa Trà My (0.17). Những nơi có chỉ số khô
hạn trên 1.0 là Nha Hố (2.44), Cam Ranh (1.54), Phan Thiết (1.27), Nha Trang (1.04).

Đây là các địa điểm có lượng mưa ít và quanh năm nắng nóng.
Theo chỉ số khô hạn tháng, hạn hán được phân loại như sau:
Bảng 2.2. Phân loại chỉ số hạn hán
Loại Mức độ khô hạn Chỉ số khô hạn tháng phổ biến
A
B
C
D
E
Rất ẩm
Ẩm
Hơi khô
Khô
Rất khô
<0.5
0.51.0
1.02.0
2.04.0
>4.0
Trong phạm vi các vùng ven biển, các khu vực được phân loại hạn vào các mùa
như sau:
1. Đông Bắc: Hạn trong mùa đông.
2. Đồng bằng Bắc Bộ: Hạn trong mùa đông
3. Bắc Trung Bộ: Hạn vào giữa cuối mùa đông và giữa mùa hè
4. Nam Trung Bộ: Hạn từ cuối mùa đông và kéo dài đến hết mùa hè.
5. Cực Nam Trung Bộ: Hạn nặng trong cả mùa đông và mùa xuân.
6. Nam Bộ: Hạn nặng trong cả mùa đông và mùa xuân.
Hạn hán thiếu nước gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc
và nuôi trồng thủy sản. Hạn hán thiếu nước ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt của
người dân. Hạn hán gây bệnh tật cho người và gia súc. Hạn hán làm cạn kiệt dòng

chảy môi trường, gây khó khăn cho giao thông đường thủy, ảnh hưởng đến nơi sinh
sản và sống của các loài động vật thủy sinh làm giảm nguồn lợi thủy sản. Hạn hán cạn
kiệt dòng chảy làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, gây xâm nhập mặn tại các
24

×