Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Đánh giá môi trường chiến lược đối với Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (768.96 KB, 137 trang )

MỞ ĐẦU
Mặc dù trong những năm qua Luật BVMT năm 1993 đã được thực hiện
nghiêm túc và có hiệu quả đối với các công trình cụ thể nhưng môi trường vẫn
ngày càng bị ô nhiễm hơn, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị suy thoái hơn,
một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng trên là do đánh giá tác
động môi trường đối với các dự án công trình cụ thể chỉ có khả năng ngăn ngừa
và giảm thiểu tác động tiêu cực của từng công trình cụ thể, chưa xem xét đánh
giá tác động môi trường tổng hợp, tích luỹ và tương hỗ trong mối liên quan tổng
thể của tất cả các dự án công trình, các chương trình và các dự án hoạt động của
các dự án chiến lược, quy hoạch hay kế hoạch phát triển. Vì vậy đã nảy sinh nhu
cầu cần có thêm công cụ quản lý môi trường, có tính tổng hợp hơn, đó là “Đánh
giá môi trường chiến lược”.
Luật BVMT năm 2005 và Nghị định 175/CP của chính phủ đã quy định
các “quy hoạch tổng thể phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, tỉnh, thành
phố thuộc Trung ương, các quy hoạch đô thị và khu dân cư” phải thực hiện đánh
giá tác động môi trường chiến lược.
Đánh giá môi trường chiến lược nhằm mục đích cung cấp các thông tin về
các hậu quả môi trường của các quyết định về các chính sách, chiến lược, quy
hoạch và các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, cũng như lựa chọn các
phương án và giải pháp có tính chiến lược nhằm giảm thiểu tác động gây ô
nhiễm môi trường và suy thoái tài nguyên.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài bảo vệ Luận văn thạc sỹ
“Đánh giá môi trường chiến lược đối với Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
giai đoạn 2006 – 2010”.
* Mục tiêu của luận văn:
- Xuất phát từ phương pháp luận đánh giá môi trường chiến lược để đánh
giá các tác động môi trường của Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An.
- Từ đó tìm các giải pháp có tính chiến lược chắc chắn để lựa chọn các
phương án thay thế thích hợp để bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
* Ý nghĩa của đề tài
1


- Về mặt khoa học
Đánh giá, phát hiện những tác động, ảnh hưởng môi trường của quy hoạch
phát triển tổng thể kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An đến 2010, tầm nhìn đến 2020.
- Về mặt thực tiễn
Đánh giá và đề xuất các giải pháp có tính chiến lược cho quy hoạch phát
triển tổng thể kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An đến 2010, tầm nhìn 2020, nhằm
phát triển hài hoà giữa kinh tế, xã hội và môi trường, thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững.
* Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 chương (chưa bao gồm phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và phụ
lục).
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Dự báo tác động môi trường xảy ra khi thực hiện quy hoạch
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm chung về đánh giá môi trường chiến lược trong các dự
án quy hoạch
1.1.1. Định nghĩa về đánh giá môi trường chiến lược
Khái niệm “Đánh giá tác động môi trường chiến lược” (ĐMC) (thuật ngữ
quốc tế: Strategic Environmental Assessment - SEA) được sử dụng rộng rãi trên
thế giới và được quan niệm là một quá trình phân tích và đánh giá mang tính hệ
thống các tác động ảnh hưởng tới môi trường từ các chính sách, chương trình và
kế hoạch. Quá trình đánh giá và phân tích này được thực hiện trước khi ra một
quyết định và khi đã có những phương án thay thế khác. ĐMC cũng có thể mở
rộng và áp dụng xem xét trong các vấn đề liên quan đến kinh tế và xã hội.
Trên thực tế có rất nhiều cách hiểu về ĐMC. Khái niệm cơ bản và đầu
tiên về ĐMC được hiểu là sự mở rộng việc đánh giá tác động môi trường (ĐTM)
của một dự án ở tầm chiến lược, tập trung vào các tác động môi trường của các
dự án đã được trình duyệt. ĐMC bao gồm cả các yếu tố xã hội, và cả yếu tố kinh

tế, hay nói một cách khác ĐMC được xem như là một công cụ chính cho phát
triển bền vững (Clayton và Sadler, 2005).
Hiện tại trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về ĐMC tuỳ theo những
nhận thức khác nhau về việc mục đích của việc đánh giá môi trường. Dưới đây
nêu ra ba định nghĩa phổ biến về đánh giá môi trường chiến lược:
- Định nghĩa 1: Sadler và Verheem (1996) định nghĩa: “Đánh giá tác động
môi trường chiến lược là một quá trình có tính hệ thống để đánh giá những hậu
quả môi trường của các chính sách, chương trình và kế hoạch được đề xuất
nhằm đảm bảo những đánh giá này được đưa vào ở giai đoạn sớm nhất của quá
trình ra quyết định ngang hàng với các xem xét về kinh tế và xã hội”
- Định nghĩa 2: Therivel et al (1992) và Therivel Partidario (1996) định
nghĩa: “Đánh giá môi trường chiến lược là một quá trình chính thức mang tính
hệ thống và toàn diện để đánh giá các tác động môi trường của các chính sách,
chương trình và kế hoạch và các phương án thay thế cùng với việc chuẩn bị các
3
báo cáo về những kết qủa đánh giá (phát hiện) và việc sử dụng các kết qủa trong
qúa trình gia quyết định.
- Định nghĩa 3: Theo Ngân hàng Thế giới: “Đánh giá tác động môi trường
chiến lược là phương pháp đánh giá ngược lại các vấn đề môi trường và xã hội
ảnh hưởng từ các quy hoạch phát triển, quá trình ra quyết định và qúa trình thực
hiện ở mức chiến lược” (Mercier, 1994).
Tóm lại có thể khái quát “Đánh giá tác động môi trường chiến lược” (ĐMC)
là một quá trình khoa học mang tính hệ thống đánh giá các hậu qủa môi trường của
các chính sách, kế hoạch và chương trình nhằm đảm bảo lồng ghép một cách đầy
đủ các xem xét môi trường một cách sớm nhất và ngang bằng với các xem xét về
kinh tế và xã hội vào trong quá trình hoạch định các chính sách, chương trình, kế
hoạch đó. Chính vì vậy ĐMC được sử dụng như là một công cụ giống như đánh giá
tác động môi trường (ĐTM) ở cấp độ chiến lược và được chấp nhận như là một
biện pháp không thể thiếu trong việc cung cấp các thông tin môi trường làm căn cứ
cho những quyết định phê duyệt các dự án phát triển.

Đánh giá môi trường chiến lược đã được định nghĩa trong Luật Bảo vệ môi
trường (2005) là: ĐMC là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của
dự án Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm đảm
bảo phát triển bền vững.
ĐMC liên quan đến các thuật ngữ chính sách, kế hoạch, chương trình và
chúng được phân biệt như sau:
- Chính sách là một quá trình hành động tổng quát theo một phương
hướng tổng thể được đề xuất mà Chính phủ hay cấp chính quyền sẽ theo đuổi và
hướng dẫn quá trình ra quyết định đang diễn ra.
- Chương trình được thiết lập để thực hiện một mục tiêu cụ thể, bao gồm
các mốc thời gian thực hiện, hoàn thành, các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện
cụ thể. Có thể gồm một hay nhiều các dự án với các mục tiêu đã xác định.
- Kế hoạch là một chiến lược hay một thiết kế có chủ đích và hướng về
phía trước thường đề ra các thứ tự ưu tiên, các giải pháp lựa chọn và các biện
pháp, được soạn thảo tỉ mỉ và thực hiện chủ trương.
4
- Ở nước ngoài ĐMC được thực hiện đối với 3P (chính sách, kế hoạch,
chương trình), ở nước ta quy trình xây dựng các dự án phát triển như sau: từ
đường lối, định hướng phát triển chung sẽ tiến hành xây dựng các chiến lược
phát triển, từ chiến lược phát triển tiến hành xây dựng các quy hoạch, kế hoạch
phát triển. Như vậy, ở đây từ “chiến lược” của nước ta tương đương với “policy”
và từ “Quy hoạch, kế hoạch” tương đương với từ “plan” theo tài liệu về ĐMC
của nước ngoài. Do đó luật bảo vệ môi trường ở nước ta quy định ĐMC đối với
“Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch” tương ứng với quốc tế là ĐMC đối với
“Chính sách, kế hoạch và chương trình”.
1.1.2. Lợi ích và tồn tại của ĐMC
1. Lợi ích
- Đề cập đến nguyên nhân gây ra tác động môi trường nhiều hơn là đề cập
đến việc xử lý đơn thuần các nhân tố làm huỷ hoại môi trường
- Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cho ĐTM bằng cách: Đề cập đến hàng

loạt các phương án, đến các hoạt động tích luỹ thông qua việc xác định các giới
hạn biến đổi có thể chấp nhận được đối với một vùng hoặc một lĩnh vực cụ thể.
Tạo thuận lợi cho việc duy trì và củng cố mức chất lượng môi trường đã lựa
chọn đáp ứng yêu cầu cho việc xác định phạm vi tiến hành ĐTM.
- Có sự tham gia của công chúng, của các tổ chức phi Chính phủ và các
cơ quan khác ở giai đoạn rất sớm. Sự liên quan nhiều phía này sẽ tạo thuận lợi
để tham gia tăng sự chấp nhận của công chúng đối với chính sách, kế hoạch
hoặc chương trình.
2. Tồn tại
- Các quy hoạch, dự án, chương trình thường được phê duyệt với những
quyết định mang tính chủ quan và không theo một khuôn mẫu rõ ràng.
- Vấn đề trong ranh giới hệ thống giữa các cấp: nếu có càng nhiều các
quyết định thực hiện ở các cấp cao nhất, sẽ có càng nhiều cách khai triển, thực
hiện cho một chính sách hay chương trình, kế hoạch cụ thể ở các cấp thấp hơn.
Điều này khiến cho việc theo dõi, đánh giá và phân tích trở nên khó khăn hơn.
5
- Khi không có đầy đủ thông tin về điều kiện môi trường của các dự án
hiện tại cũng như của các dự án trong tương lai, quy mô, vị trí của những khu có
tiềm năng phát triển trong tương lai do vậy việc dự báo các tác động sẽ kém
chính xác.
- Có rất nhiều những phương án thay thế được đưa ra cân nhắc trong
những bước khác nhau của quá trình ra quyết định. Mỗi phương án có một ưu,
nhược điểm riêng, do vậy việc cân nhắc chọn lựa giữa các phương án rất khó và
phức tạp.
- Thiếu thông tin chia sẻ về ĐMC ở cấp độ chiến lược, cũng như kinh
nghiệm thực tế đặc biệt là các chính sách.
- Tính không chắc chắn về sự tham gia của cộng đồng trong quá trình ra
quyết định.
- Những vấn đề chính trị trong quá trình ra quyết định.
1.1.3. Các nguyên tắc chính của đánh giá môi trường chiến lược

1.1.3.1. Theo Sadler (1998) [7], Tonk và Verheem (1998) [7]
ĐMC cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Đạt được mục đích, đồng thời phải xây dựng để có thể áp dụng ở cấp
chiến lược, kế hoạch hoặc chương trình;
- Đảm bảo trung thực và hiệu quả có thể áp dụng vào mục tiêu và đIều
kiện đặt ra;
- Tập trung vào việc cung cấp các thông tin cần thiết cho việc ra quyết
định, hướng tới những vấn đề mấu chốt.
- Tuân theo những nguyên tắc của PTBV (Tính đến các vấn đề môi
trường, kinh tế, xã hội);
- Được lồng ghép với các tính toán kinh tế, xã hội và trong quá trình lập
quy hoạch cũng như đánh giá khác;
- Liên hệ với ĐTM dự án thích hợp theo sơ đồ phân cấp;
- Công khai;
- Có tính thực tế, dễ thực thi, hướng tới việc giảI quyết các vấn đề và tiết
kiệm
6
- Có tính khả quan, đồng thời là một quá trình tích luỹ và kinh nghiệm.
1.1.3.2. Theo Cơ quan đánh giá môi trường của Canada.
Các nguyên tắc của Canada được nêu trong “Hướng dẫn thực hiện Chỉ thị
của Chính phủ về ĐMC” [8].
- Có sự hoà nhập sớm: Việc phân tích các vấn đề MT phải được hoà nhập
đầy đủ với quá trình xây dựng một chính sách, kế hoạch hoặc chương trình và
việc xem xết các ảnh hưởng về MT phảI được bắt đầu sớm từ giai đoạn có ý
tưởng lập quy hoạch, kế hoạch;
- Có sự kiểm tra các phương án khác nhau: Việc đánh giá và so sánh các
ảnh hưởng về MT của các phương án khác nhau trong quá trình xây dựng một
chính sách, kế hoạch hoặc chương trình là một trong những khía cạnh quan
trọng nhất hoặc bất kỳ quá trình ĐMC nào;
- Có tính linh hoạt: Hướng dẫn thực hiện ĐMC là vvăn bản có tính tư vấn

và không bắt buộc. Các cơ quan, các ngành được tự do xác định cách tiến hành
ĐMC;
- Có sự tự đánh giá: Mỗi cơ quan về ngành có trách nhiệm áp dụng ĐMC
đối với các đề xuất về chính sách, kế hoạch, chương trình của mình. Xác định
cách thức đánh giá, tiến hành đánh giá và báo cáo kết quả;
- Có mức độ phân tích phù hợp: Phạm vi và quy mô phân tích phải tương
xứng với mức độ ảnh hưởng đã được dự báo trước;
- Có tính trách nhiệm: ĐMC phảI là một phần của quá trình ra quyết định
có trách nhiệm trong Chính phủ liên bang;
- Sử dụng các cơ chế hiện có: Các cơ quan, các ngành phải sử dụng những
cơ chế hiện có khi tiến hành phân tích các nảh hưởng về MT, huy động cộng
đồn tham gia khi cần thiết, đáng giá việc thực hiện và báo cáo kết quả.
1.1.3.3. Theo Hiệp hội Quốc tế về Đánh giá tác động (IAIA).
Một quá trình ĐMC có chất lượng tốt phải đảm bảo các nguyên tắc
sau[8]:
- Phải được hoà nhập (VD: đặt vấn đề và giải quyết được mối quan hệ qua
lại của các khía cạnh về tự nhiên, kinh tế và xã hội);
7
- Phải được định hướng theo tính bền vững (VD: tạo thuận lợi cho việc
xác định các lựa chọn về phát triển sao cho được bến vững hơn);
- Có trọng tâm, trọng đIểm (VD: là đối tượng có thể kiểm tra độc lập và
phảI chỉ ra rằng làm thế nào để các vấn đề về tính bền vững được tính đến trong
quá trình ra quyết định);
- Có sự tham gia (VD: cung cấp thông tin và lôi kéo sự tham gia của các
cơ quan Chính phủ và công chúng có sự quan tâm hoặc bị ảnh hưởng trong suốt
quá trình ra quyết định);
- Có sự lặp đi lặp lại (VD: bảo đảm rằng các kết quả đánh giá có được
một cách sớm nhất để có tác động đến quá trình ra quyết định và lập kế hoạch).
1.1.4. Khác biệt giữa đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và đánh giá
môi trường chiến lược (ĐMC)

Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và đánh giá môi trường chiến lược
(ĐMC) về bản chất đều dựa trên nguyên tắc rất cơ bản đó là dự báo những tác
động tiềm tàng của một hoạt động phát triển có thể gây ra cho môi trường tự
nhiên, kinh tế, xã hội để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu
và xử lý các tác động này tới mức thấp nhất có thể. Quy trình thực hiện ĐTM và
ĐMC đều được thực hiện qua các bước sàng lọc, xác định phạm vi, đánh giá tác
động, xác định các biện pháp giảm thiểu, bước sàng lọc, xác định phạm vi, thẩm
định, ra quyết định và cuối cùng là quan trắc và giám sát.
Mặc dù có những điểm tương đồng nêu trên song giữa ĐTM và ĐMC
cũng có nhiều sự khác biệt rất cơ bản. Trước hết là về đối tượng nghiên cứu,
mục tiêu, mục đích cần đạt được và sau đó là sự khác biệt về nội dung báo cáo.
Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng sự khác biệt này không phải là sự phủ định lẫn
nhau, mà chúng lại là những mặt bổ sung, hỗ trợ cho nhau và ĐMC đối với các
chính sách, chương trình, kế hoạch ở cấp độ vĩ mô, và ĐTM ở cấp độ các dự án
thực hiện cụ thể
1
.
Sự khác biệt đầu tiên giữa ĐTM và ĐMC là loại hình ra quyết định mà cả
hai phương pháp này liên quan. ĐTM liên quan đến các quyết định ở cấp dự án
1
8
và thường là các quyết định trước khi bắt đầu thực hiện dự án (thi công). Các
quyết định này thường là các quyết định chi tiết chủ yếu về mặt vị trí và thiết kế
một dự án và về các biện pháp giảm thiểu hơn là ngăn ngừa các tác động môi
trường. Các giải pháp thay thế khả thi ở giai đoạn dự án thường giới hạn đối với
các biến số nhỏ (ví dụ vạch chỉnh các tuyến đường, lựa chọn các tuyến tránh các
điểm nhạy cảm môi trường …) trên cơ sở hướng tuyến đường và quy mô của nó
đã được xác định. Trong khi đó ĐMC lại liên quan đến các quyết định mang tính
chiến lược, ở cấp độ vĩ mô. Mục đích của ĐMC là cân nhắc kỹ hơn các vấn đề
về môi trường (các cản trở và thuận lợi) và làm cho quy trình quyết định minh

bạch hơn nhờ các biện pháp tư vấn và tham vấn cộng cộng. Như vậy ở cấp độ
này các tuyến khác nhau và các phương thức giao thông khác nhau cũng như
quản lý nhu cầu là các giải pháp có tính thay thế khả thi.
Những tính chất, nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa ĐTM một dự án và
ĐMC đối với chính sách, chương trình, kế hoạch được thể hiện ở bảng so sánh
dưới đây:
Bảng 1.1: Những điểm khác nhau giữa Đánh giá tác động môi trường
- ĐTM và Đánh giá môi trường chiến lược – ĐMC
9
TT Đánh giá tác động môi trường
(ĐTM)
Đánh giá môi trường chiến lược
(ĐMC)
1
Đối tượng:
Đối tượng của ĐTM là một dự
án phát triển cụ thể, như là các
dự án đầu tư công trình hạ tầng
cầu đường, cảng … với các tác
động môi trường có tính đặc thù,
có tính địa phương và có thể
giảm thiểu bằng các giải pháp kỹ
thuật
Đối tượng nghiên cứu của ĐMC là các chiến
lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, vùng, địa phương, đô thị,
nghành, có tính tổng hợp, tích luỹ trên một
phạm vi rộng lớn.
2
Mục tiêu:

Nhận dạng, dự báo, phân tích và
đánh giá các tác động môi
trường của dự án, từ đó đề xuất
các biện pháp (đặc biệt là các
biện pháp kỹ thuật cụ thể) nhằm
phát huy các tác động tích cực
và giảm thiểu các tác động tiêu
cực bảo đảm đạt tiêu chuẩn môi
trường của một dự án phát triển
kinh tế - xã hội cụ thể.
Nhận dạng, dự báo và đánh giá tổng hợp về
các hậu quả môi trường của việc thực hiện các
chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình,
nhằm đảm bảo, lồng ghép một cách đầy đủ các
xem xét về vấn đề môi trường sớm nhất và
ngang bằng với các xem xét về mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội trong quá trình hoạch
định các chiến lược, chương trình, quy
hoạch/kế hoạch phát triển theo định hướng
phát triển bền vững.
3
Quy trình thực hiện:
ĐTM là một quá trình xem xét,
đánh giá về mặt môi trường đối
với một dự án phát triển đã được
đề xuất cụ thể, đã được xác định.
Tức là tiến hành ĐTM sau khi
hình hài của một dự án phát triển
đã được xác định. Sự bắt đầu và
ĐMC được tiến hành song song với qúa trình

xây dựng, hoạch định các chiến lược, quy
hoạch/kế hoạch, chương trình, lồng ghép một
cách hữu cơ việc xem xét cân nhắc môi trường
vào suốt qúa trình và ở bất kỳ thời điểm nào
của quá trình hoạch định chiến lược, quy
hoạch/kế hoạch, chương trình nhằm mục đích
10
TT Đánh giá tác động môi trường
(ĐTM)
Đánh giá môi trường chiến lược
(ĐMC)
kết thúc của ĐTM rõ ràng. điều chỉnh, sửa chữa nội dung của các chiến
lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình đó
theo định hướng phát triển bền vững.
4
Tính chất:
ĐTM có tính chi tiết cụ thể hơn.
ĐTM mang tính ứng phó đối với
các tác động môi trường tiêu cực
của dự án, bởi vì ĐTM được tiến
hành đánh giá các tác động và
đề xuất các giải pháp đáp ứng
bảo vệ môi trường đối với
phương án phát triển đã được
lựa chọn.
ĐMC có tính tổng hợp hơn.
ĐMC có tính chủ động cao thể hiện ở việc:
- Rà soát các phương án thay thế để lựa chọn
phương án tối ưu nhất.
- Phân tích, hồi cố quá khứ và dự đoán tương

lai để xây dựng một loạt cac kịch bản dựa trên
một tầm nhìn toàn diện, dự đoán hậu quả môi
trường có thể xảy ra, để thay đổi phương án
hoạch định.
5
Phương pháp đánh giá:
Các phương pháp đánh giá
thường áp dụng trong ĐTM là:
ma trận, liệt kê, bảng kiểm tra,
dự báo môi trường bằng mô hình
toán học …
Thường tập trung đến tác động
môi trường trực tiếp của dự án,
ít quan tâm đến các tác động
môi trường gián tiếp, tích luỹ và
tương hỗ.
ĐMC nghiên cứu tất cả các tác động môi
trường trực tiếp, gián tiếp, đặc biệt là tác động
tích luỹ và tác động tương hỗ của chiến lược,
quy hoạch/kế hoạch, chương trình phát triển,
bởi vì đối tượng đánh giá của ĐMC có quy mô
lớn, đa dạng, bao gồm rất nhiều dự án cụ thể.
Phương pháp đánh giá thường được dùng là:
phương pháp chuyên gia, ma trận, liệt kê,
mạng và sơ đồ hệ thống, phân tích xu hướng,
chồng ghép bản đồ, phương pháp GIS.
6
Chỉ thị đánh giá, so sánh:
ĐTM thương xác định được các
tác động môi trường có mức độ

chi tiết về mặt kỹ thuật và có
mức độ định lượng cao, được
ĐMC thường đánh giá hậu qủa môi trường ở
mức độ khái quát, ở mức độ định tính và phi
kỹ thuật. ĐMC thường lấy sự bền vững về mặt
môi trường để làm chỉ thị đánh giá và so sánh.
11
TT Đánh giá tác động môi trường
(ĐTM)
Đánh giá môi trường chiến lược
(ĐMC)
đánh giá so sánh với các trị số,
giới hạn chỉ thị môi trường cho
phép theo tiêu chuẩn chất lượng
môi trường và tiêu chuẩn thải
chất thải (TCVN).
7
Sản phẩm chủ yếu:
Đưa ra các biện pháp giảm thiểu
ô nhiễm môi trường, công nghệ
giảm thiểu ô nhiễm nguồn thải,
xử lý ô nhiễm, quản lý và quan
trắc môi trường … trong giai
đoạn chuẩn bị xây dựng, thi
công xây dựng cũng như trong
giai đoạn vận hành dự án để dự
án đạt tiêu chuẩn môi trường.
Đưa ra các định hướng có tính định hướng
phát triển, điều chỉnh hoạch định chiến lược,
quy hoạch/kế hoạch, chương trình và lồng

ghép các mục tiêu môi trường vào quá trình
hoạch định chiến lược, quy hoạch/kế hoạch,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội , đề
xuất chiến lược và quy hoạch bảo vệ mt để
đảm bảo phát triển bền vững về mặt môi
trường.
Nguồn: Phạm Ngọc Đăng và cộng sự “Đánh giá môi trường chiến lược, phương
pháp luận và thử nghiệm ở Việt Nam”
1.2. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, môi trường tỉnh Nghệ An
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.1.1. Vị trí địa lý và địa hình
Nghệ An nằm ở vĩ độ 18
0
33" đến 19
0
25" kinh độ 102
0
53" đến 105
0
46"
kinh đông, ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ với diện tích tự nhiên 16.488
km
2
và dân số trung bình 3,03 triệu người, chiếm 5,1% diện tích tự nhiên và
3,64% dân số cả nước (năm 2005).
Nghệ An giáp tỉnh Thanh Hóa ở phía Bắc, tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ở phía Tây với 419 km đường biên giới và biển
Đông ở phía Đông với chiều dài 82 km. Vị trí này tạo cho Nghệ An có vai trò
12
quan trọng trong mối giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển

kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế.
Nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, Nghệ An có địa hình đa dạng, phức
tạp và bị chia cắt bởi các hệ thống đồi núi, sông suối hướng nghiêng từ Tây –
Bắc xuống Đông – Nam. Tỉnh Nghệ An có một thành phố loại 2 – thành phố
Vinh – là trung tâm hành chính của tỉnh nằm cách thủ đô Hà Nội 291km về phía
Nam, một thị xã (thị xã Cửa Lò) và 17 huyện (10 huyện miền núi: Thanh
chương, Kỳ Sơn, Tương Dương, Con cuông, Anh Sơn, Tân kỳ, Quế Phong, Quỳ
Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn; và 7 huyện Đồng Bằng: Đô lương, Nam Đàn,
Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành.
1.2.1.2. Điều kiện khí tượng – thuỷ văn.
a. Điều kiện khí hậu
Nghệ An có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh và chia
làm hai mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều và mùa đông lạnh ít mưa, chịu
sự tác động của gió mùa Tây – Nam khô và nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và gió
mùa Đông Bắc lạnh, ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau).
Lượng mưa trung bình năm dao động trong khoảng khá rộng từ 950mm
đến dưới 2000mm với 123-152 ngày mưa. Vùng đồng bằng và trung du có
lượng mưa vào khoảng 1500-1800mm/năm. Lượng mưa lớn trên gặp ở khu vực
núi cao trên 1000m ở phía cực Tây (Mường Lống: 1954mm/năm) và vùng phía
Nam của tỉnh (Mông Sơn 1980mm/năm, Vinh: 1954mm/năm). Khu vực có
lượng mưa thấp dưới 1200mm gặp ở vùng thung lũng sông Cả (Mường Xén:
1120mm/năm, Yên Hoà: 950mm/năm), đây cũng là một trong những trung tâm
khô hạn của nước ta.
Độ ẩm không khí trung bình năm dao động 80 –90%. Vùng có độ ẩm cao
nhất là thượng nguồn sông Hiếu, vùng có độ ẩm thấp nhất là vùng núi phía Nam
huyện Kỳ Sơn, Tương Dương. Lượng bốc hơi từ 700 – 940mm/năm.
Tỉnh Nghệ An, bên cạnh tác động của gió Tây khô nóng trong mùa hè,
dông cũng là một hiện tượng thời tiết đặc biệt hay xuất hiện trong khu vực.
13
Hàng năm trung bình có 40-112 ngày dông. Dông chủ yếu xuất hiện ở vùng núi

của tỉnh.
Nghệ An cũng là khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão. Mùa bão
chậm hơn so với Bắc bộ khoảng 1 tháng (kéo dài trong khoảng từ tháng VIII đến
tháng X). Bão đem lại mưa to và gió bão trong đất liền có thể lên tới 30-35 km/h
và hoạt động của bão giảm nhanh khi tiến về vùng núi phía Tây. Trung bình mỗi
năm có 2- 3 cơn bão.
b. Mạng lưới sông suối.
Nghệ An có hệ thống sông hồ khá dày đặc, trong tỉnh Nghệ An có 7 lưu
vực sông (có cửa riêng biệt), tuy nhiên 6 trong số này là các sông ngắn ven biển
có chiều dài dưới 50 km và duy nhất có sông Cả có lưu vực là 15.346 km2
chiếm tới 93,1% diện tích tỉnh với chiều dài là 361 km. Lưu vực sông Cả có
dạng thuôn dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam . Các sông suối phát triển lệch
về phía bờ trái. Phần hạ du sông Cả với sự nhập lưu của sông Hiếu và sông
Ngàn Sâu (sông La) cùng với sự đổi hướng dòng chảy, độ dốc lưu vực cũng như
đáy sông giảm và dãy cồn cát ven biển cao hơn vùng đồng bằng đã làm giảm rất
nhiều năng lực tiêu nước ra biển, gây hiện tượng ngập lụt.
Ngoài lưu vực sông Cả, trong tỉnh còn có 6 lưu vực sông nhỏ chủ yếu
diện tích hứng nước dưới 500 km2. Những con sông này đổ trực tiếp ra biển vì
vậy trong những tháng mùa kiệt, nguồn nước của các sông này thường bị mặn
xâm nhập.
Bảng 1.2: Các sông chính ở Nghệ An
TT Tên sông Chiều dài sông qua tỉnh
(km)
Diện tích hứng nước
km
2
1 Hoàng Mai 35,5 363
2 Khê Dua 32 234
3 Độ Ông 21 114
4 Dừa 27 140

5 Bùng 48 753
6 Cửa Lò 52 400
7 Cả 361 17730
Nguồn: [2]
14
Mùa lũ: Ba tháng có dòng chảy lớn nhất là từ tháng 8 đến tháng 10. Do
địa hình thấp, trũng và sự chuyển hướng dòng chảy ở đoạn cuối sông Cả ra biển
nên lũ trên sông Cả thường xuyên gây ngập lụt cho khu vực đồng bằng hạ du.
Mùa kiệt: Ba tháng có dòng chảy nhỏ nhất rơi vào tháng 2 – 4. Có thể
thấy rằng trên sông Cả dòng chảy mùa kiệt rất nhỏ, do tỷ lệ nước dưới đất tầng
nông so với dòng chảy toàn phần thấp (30%) và lượng mưa trong mùa kiệt ở đây
cũng rất nhỏ.
Như vậy, lượng dòng chảy trong tỉnh Nghệ An không lớn và có sự phân
mùa dòng chảy rất sâu sắc. Hàng năm lượng nước lớn nhất và nhỏ nhất thường
gấp tới hàng ngàn lần - đây là nguyên nhân tiềm ẩn của các tai biến môi trường.
1.2.1.3. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản khá đa dạng, từ khoáng sản quý hiếm (vàng, đá
quý), đến các loại khoáng sản kim loại, vật liệu xây dựng, và lượng nhỏ khoáng
sản nhiên liệu, phân bón. Tuy vậy, hiện tại mới chỉ có một số ít loại hình khoáng
sản có giá trị khai thác lớn trong phạm vi vùng và cả nước gồm: thiếc, đá trắng,
đá xây dựng.
1.2.1.4. Đặc điểm tài nguyên sinh vật
a. Đa dạng hệ thực vật
Dựa vào các kết quả điều tra khảo sát của các nhà nghiên cứu thực vật
bước đầu đã thống kê được 2608 loài, 211 họ thực vật bậc cao có mạch. Nếu
điều tra chi tiết chắc chắn số lượng loài sẽ còn cao nhiều hơn. Hệ thực vật tỉnh
Nghệ An có mối quan hệ gần gũi với 20 yếu tố địa lý thực vật, trong đó yếu tố
nhiệt đới đóng vai trò chủ đạo. [15]
Dựa trên các tài liệu đã công bố về giá trị sử dụng các loài cây, luận văn
đã thống kê được 2.270 loài cây có ích, chiếm 88,5% tổng số loài. Nghệ An

bước đầu đã thống kê được 81 loài quí hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam
năm 1996 được trình bày trong phụ lục 2. Trong số 81 loài quý hiếm có 1 loài
đang nguy cấp, 23 loài sẽ nguy cấp, 25 loài hiếm, 18 loài bị đe dọa, 14 loài biết
không chính xác.
15
Các loài nêu trên phần lớn là những cây có giá trị kinh tế nên bị khai thác
quá mức làm cho trữ lượng của chúng còn rất ít và một số loài cho đến nay chưa
có giá trị kinh tế nhưng do số lượng cá thể còn quá ít (nguồn gen hiếm) nên cũng
được đưa vào sách đỏ. Các loài cây quí hiếm hiện chỉ còn ở các khu bảo tồn
thiên nhiên như: Pù Hoạt, Pù Huống, Vườn quốc gia Pù Mát.
b. Thảm thực vật
Cấu trúc và thành phần loài các loại thảm thực vật tự nhiên có sự khác
nhau khá rõ rệt theo đai cao.
- Thảm thực vật tự nhiên đai cao trên 800 m: cấu trúc các loại rừng này
thường từ 4 – 5 tầng, trong đó gồm tầng cây gỗ, cây bụi và cây cỏ.
- Thảm thực vật tự nhiên ở đai cao dưới 800 m: cấu trúc các loại rừng này
thườn từ 3 – 4 tầng.
- Thảm thực vật nhân tác: Các loài cây trồng chủ yếu gồm: Cây trồng
hàng năm (Lúa, Ngô, Khoai, Sắn, Đậu các loại, Rau các loại); Cây trồng lâu
năm (Chè, Cà phê, Các loài cây ăn quả); Rừng trồng (Mít, Bồ đề, Mỡ, Keo lá
tràm, Keo tai tượng, Thông nhựa, v.v.)
c. Đa dạng hệ động vật
Hệ động vật tỉnh Nghệ An thống kê được 490 loài động vật có xương
sống trên cạn và lưỡng cư, bao gồm 124 loài thú, 293 loài chim, 50 loài bò sát và 23
loài ếch nhái.
Trong tổng số loài động vật đã thống kê được có tới 95 loài quý hiếm
được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, IUCN, NDD 48/CP. Trong đó có 41 loài thú
thuộc diện quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam, 38 loài được ghi trong
Sách đỏ IUCN và 18 loài có trong Nghị định 48/NĐ-CP. Chim có 15 loài được
ghi trong Sách đỏ Việt Nam, 10 loài trong Sách đỏ IUCN, 2 loài trong Nghị định

48/CP-NĐ. Bò sát, ếch nhái có 18 loài được ghi trong Sách Đỏ, 2 loài trong
Sách đỏ IUCN và 9 loài có trong Nghị định 48/2002/NĐ-CP. Danh sách các
loài động vật quý hiếm được thể hiện ở phụ lục 3.
16
d. Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên
Tỉnh Nghệ An theo công bố của IUCN có 1 vườn quốc gia và 2 khu bảo
tồn thiên nhiên đó là: Vườn quốc gia Pù Mát; Khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Huống; Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt. Với tổng diện tích 301.222 ha chiếm
18% diện tích toàn tỉnh. Như vậy, tỷ lệ các khu bảo tồn là khá cao.
1.2.2. Hiện trạng các thành phần môi trường tự nhiên
1.2.2.1. Hiện trạng môi trường không khí
Nguồn số liệu chính được sử dụng để đánh giá hiện trạng môi trường
không khí là số liệu quan trắc chất lượng môi trường không khí của Trung tâm
Quan trắc và Kỹ thuật môi trường Nghệ An vào 4 đợt tháng 3, tháng 6, tháng 9
và tháng 11 năm 2006. Giá trị trong bảng số liệu được lấy trung bình của 4 đợt
quan trắc. Riêng đối với số liệu nồng độ bụi, chỉ được đo vào đợt 3 (tháng
9/2006).
Bảng 1.3: Kết quả quan trắc chất lượng môi trường không khí tỉnh
Nghệ An năm 2006
T
T
Khu vực
SO2
Mg/m3
So với
TCCP
CO
Mg/m3
So với
TCCP

NO2
Mg/m3
So với
TCCP
Bụi
mg/m3
So với
TCCP
1
Cổng văn
phòng
CTXM
Hoàng Mai
– Quỳnh
Lưu
0,22 0,4 3,4 0,08 0,15 0,4 0,25 0,8
2
Cổng
NMXM
Anh Sơn
0,23 0,5 3,02 0,08 0,19 0,5 0,22 0,7
3
Khu du lịch
Kim Liên –
Nam Đàn
0,11 0,2 1,27 0,03 0,14 0,3 0,14 0,5
4 Khu CN
Bắc Vinh,
0,28 0,6 4,09 0,10 0,26 0,7 0,16 0,5
17

TP Vinh
5
Ngã tư chợ
Vinh
0,37 0,7 5,05 0,13 0,3 0,7 0,33 1,1
6
Sau NMXM
Cầu Đước,
TP Vinh
0,26 0,5 4,05 0,10 0,25 0,6 0,23 0,8
Nguồn: Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật môi trường Nghệ An
a. Môi trường không khí khu dân cư
Những khu vực dân cư nằm ở xung quanh đường giao thông, nhất là tại
các nút giao thông hầu như đều bị ô nhiễm bụi. Nồng độ bụi thường vượt tiêu
chuẩn cho phép (TCCP) khoảng 1,1 lần. Nồng độ các loại khí độc (NO2, SO2)
cao hơn so với các khu vực khác, đều xấp xỉ TCCP. Các khu vực xung quanh
nhà máy xi măng, nồng độ đạt 0,22-0,25mg/m3, xấp xỉ TCCP.
Ở các khu vực nông thôn xa trung tâm thành phố, thị trấn, thị tứ môi
trường không khí hầu như chưa bị ô nhiễm bởi các khí độc mà chủ yếu bị ô
nhiễm vì bụi do hoạt động giao thông vận tải và các hoạt động khai thác đá, sản
xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn.
b. Môi trường không khí khu công nghiệp, cụm công nghiệp
Theo báo cáo Hiện trạng môi trường đô thị, công nghiệp và làng nghề của
tỉnh Nghệ An, hiện nay toàn tỉnh có 4 khu công nghiệp tập trung đi vào hoạt
động: Bắc Vinh, Nam Cấm, Hoàng Mai, Cửa Lò; nhiều khu tiểu thủ công
nghiệp: Diễn Hồng, Đông Vĩnh, Nghi Phú, Châu Quang...và có trên 32.000 cơ
sở sản xuất nằm trong KCN, TTCN hoặc độc lập. Các cơ sở sản xuất chủ yếu
tập trung ở thành phố Vinh và các vùng phụ cận. Nồng độ các chất ô nhiễm
không khí tại một số KCN, CSSX năm 2005 được thể hiện trong phụ lục 1a.
Báo cáo của Trung tâm quan trắc và Kỹ thuật Môi trường Nghệ An cho

thấy:
- Tại các đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng nồng độ bụi vượt TCCP 2-4
lần.
- Tại các đơn vị sản xuất giấy: giấy sông Lam, xưởng chế biến bột giấy
Con Cuông khí thải lò hơi không đạt tiêu chuẩn, gây ô nhiễm môi trường.
18
- Tại nhà máy thuộc da Vinh: nhà máy không xử lý chất thải, nhất là chất
thải rắn nên môi trường không khí bị ô nhiễm nặng ở khu vực chứa chất thải do
sự phân huỷ chất hữu cơ.
Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm sự phân huỷ chất hữu
cơ từ chất thải tạo ra các khí H
2
S, NH
3
. Đối với các làng nghề sản xuất gạch
ngói (huyện Tân Kỳ) có nồng độ các khí độc và bụi vượt TCCP 1,3-3 lần. Ngoài
ra các làng nghề sản xuất chiếu cói, mộc, chổi đót... cũng có dấu hiệu ô nhiễm
về bụi.
c. Môi trường không khí trên các trục đường và nút giao thông
Ô nhiễm do hoạt động giao thông vận tải gây ra thường là dạng ô nhiễm
cục bộ, nồng độ chất ô nhiễm phụ thuộc rất nhiều vào lưu lượng dòng xe tại thời
điểm đo. Ô nhiễm chủ yếu là bụi. Theo báo cáo của Trung tâm quan trắc và Kỹ
thuật môi trường, nồng độ bụi trên các tuyến đường chính ở Nghệ An (đường
Mai Hắc Đế qua KCN Bắc Vinh, quốc lộ 1A đoạn quan KCN Nam Cấm) nồng
độ bụi có thể vượt TCCP 1,03-1,13 lần.
d. Hiện trạng tiếng ồn giao thông và công nghiệp
Ô nhiễm tiếng ồn xảy ra do hoạt động của các cơ sở sản xuất như: gia
công cơ khí, sản xuất xi măng, khai thác vật liệu xây dựng... và trên các trục
đường giao thông vào những giờ cao điểm. Do đó, ô nhiễm tiếng ồn chủ yếu xảy
ra đối với các khu vực dân cư đô thị trong các thành phố lớn và các khu dân cư

tập trung gần tuyến đường giao thông. Còn ở các vùng nông thôn không bị ô
nhiễm bởi tiếng ồn.
Trên các tuyến đường giao thông, tuỳ thuộc vào từng thời điểm tiếng ồn
có những xung dao động rất lớn, có khi trên 90 dB, đây là ngưỡng gây cảm giác
khó chịu cho con người. Cường độ tiếng ồn tại một số khu vực công nghiệp và
tuyến đường giao thông được thể hiện trong phụ luc 1b.
1.2.2.2. Hiện trạng môi trường nước mặt
1. Chất lượng nước
a. Độ nhiễm mặn nước sông
19
Vùng biển tỉnh Nghệ An mang tính chất nhật triều không đều với biên độ
triều đạt 1,2-2,5 m. Độ mặn nước biển theo sóng triều xâm nhập sâu vào trong
sông với chiều sâu tới trên 20 km , tới vùng chân đồi.
b. Chất lượng nước sông không ảnh hưởng triều
Độ khoáng hoá nước sông tỉnh Nghệ An nhỏ hơn 200 mg/l. Địa hình đồi
núi chiếm tỷ trọng cao trong tỉnh nên khả năng xói mòn bề mặt của lưu vực cao,
vì vậy nước sông có hàm lượng chất lơ lửng lớn, tính trung bình thường đạt tới trên
100 mg/l.
Nước sông suối trong tỉnh Nghệ An có phản ứng trung tính ngả sang kiềm
yếu với độ pH=7,2, trong các tháng mùa lũ khi nước thượng nguồn về lớn nên
nước gần với phản ứng trung tính (pH<7,2) còn đối với mùa kiệt, nguồn cấp
nước cho sông chủ yếu là nước ngầm nên độ pH tăng hơn đạt tới 7,3-7,5.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng có mặt trong nước sông suối tỉnh Nghệ
An thường thấp, với NO3- có giá trị dưới 0,5mg/l, NO2- có giá trị dưới 0,01mg/l
và NH4+ dưới 0,2 mg/l. Hàm lượng PO4-3 cũng đạt giá trị tương tự như nước
trong điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên hàm lượng ion sắt có mặt trong nước khá
cao. Theo các tài liệu quan trắc cho thấy hàm lượng ion sắt đạt tới 2,88mg/l,
trung bình cũng đạt tới 1mg/l. Trong mùa lũ khi lượng nước mặt lớn hàm lượng
ion sắt giảm nhỏ chỉ đạt trung bình dưới 0,2 mg/l còn mùa kiệt nước sông được
cung cấp bởi nước từ các tầng đất đá nên hàm lượng sắt cao hơn hẳn (vượt trên

1 mg/l).
Hàm lượng các chất hữu cơ có mặt trong nước sông suối trong tỉnh nhìn
chung rất thấp. Theo các số liệu quan trắc của trạm Dừa trên sông Cả cho thấy
độ oxy hóa nước sông (L) có giá trị 1,69 mg/l - thuộc vào loại nước rất nghèo
chất hữu cơ. Tuy nhiên đến thời kỳ 2000-2005, nước sông Cả có hàm lượng các
chất hữu cơ tăng cao hơn và được xếp vào loại trung bình với BOD5 dao động
từ (3-30)mg/l và COD dao động từ (5-70) mg/l.
Đối với các ion vi lượng, nước sông suối tỉnh Nghệ An chưa có biểu hiện
bị ô nhiễm. Với hàng loạt các ion vi lượng như Cu+2, Hg+2, Pb+2, Al+3,
Mn+2, As+3, CN... đều có giá trị nằm trong giới hạn cho phép của nước dùng
20
cho cấp nước sinh hoạt. Chất lượng nước sông suối tỉnh Nghệ An được thể hiện
trong phụ lục 1c.
1.2.2.3. Lũ lụt, hạn hán
Nằm trong khu vực có chế độ khí hậu khắc nghiệt, tỉnh Nghệ An hầu như
năm nào cũng xuất hiện các thiên tai liên quan đến dòng chảy. Thiệt hại do lũ lụt
gây ra trong mùa mưa ngày càng nghiêm trọng, liên quan đến dòng chảy làm
xuất hiện các tai biến tự nhiên, như lũ lớn, ngập lụt, úng, hạn hán ...
1.2.2.4. Hiện trạng môi trường nước dưới đất
Trên cơ sở kết quả phân tích mẫu nước dưới đất của các năm 2005, 2006
trong tỉnh Nghệ An và các kết quả nghiên cứu trước đấy có thể thấy được hiện
trạng môi trường nước dưới đất của Tỉnh như sau:
1. Hiện trạng môi trường nước dưới đất vùng đô thị trọng điểm
a. Thành phố Vinh
Kết quả phân tích mẫu từ trước đến nay và tài liệu quan trắc nước dưới
đất các năm gần đây của thành phố Vinh cho thấy:
Tổng sắt: Phía Tây thành phố Vinh có hàm lượng sắt khá cao (khu vực
nhà máy xi măng Cầu Đước), có thể lên tới 30,95- 39,92 mg/l. TCCP cho ăn
uống trực tiếp là <0,3mg/l và tiêu chuẩn nguồn nước cấp (TCVN 5944) là 1-
5mg/l, nên ở khu vực này nước dưới đất không sử dụng được vào ăn uống mà

chỉ dùng để tắm, rửa.
- Mangan: Đa số các mẫu nước có hàm lượng sắt cao đều kéo theo hàm
lượng mangan cũng cao, hàm lượng mangan cao nhất đạt 1,672 mg/l vượt
TCCP.
- Kết quả quan trắc nước dưới đất ở thành phố Vinh của Sở Tài Nguyên
và môi trường tỉnh Nghệ An (năm 2004-2006) cũng cho thấy nước dưới đất ở
thành phố Vinh có hàm lượng sắt và mangan vượt TCCP.
- Nitrit (NO2-): Một số mẫu hàm lượng Nitrit khá cao, mẫu cao nhất đạt
26,47 mg/l, trong khi đó theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nước ăn uống và
sinh hoạt, hàm lượng NO2-= 0.
21
Hầu hết các giếng đào ở khu vực thành phố Vinh đều bị nhiễm bẩn bởi chỉ
tiêu vi sinh, có những mẫu nước có hàm lượng Coliform vượt TCCP 800 lần.
Ngoài ra một số khu vực của thành phố Vinh bị ô nhiễm Thuỷ ngân nhẹ
(mẫu nước giếng khoan ở gần sát kênh Hồng Bàng).
b. Các vùng đô thị khác
Các vùng ven biển: TX Cửa Lò, Diễn Châu, Hoàng Mai vv... nơi có địa
hình thấp, nước dưới đất đã bị nhiễm mặn. Nhìn chung chất lượng môi trường
nước dưới đất ở các khu vực này còn khá tốt, tuy nhiên ở các vùng khác nhau
chúng có những chỉ tiêu ô nhiễm khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là: ô nhiễm bởi
các hợp chất Nitơ và chỉ tiêu vi sinh (hàm lượng NO3- trong mẫu nước ở TT
Con Cuông đạt 46,0 mg/l).
2. Hiện trạng môi trường nước dưới đất tại khu vực khai thác thiếc
Mẫu nước dưới đất được lấy tại giếng đào ngay trong khu vực sản xuất
thiếc của Công ty TNHH Chính Nghĩa, Nghĩa Xuân, Minh Hợp, Quỳ Hợp. Kết
quả phân tích cho thấy: pH thấp hơp TCCP, đạt 6,22. Hàm lượng Mn cao hơn
TCCP (đạt 0,626 mg/l), đặc biệt là hàm lượng thuỷ ngân trong nước khá cao, đạt
0,00260 mg/l gấp hơn 2 lần TCCP.
3. Hiện trạng nhiễm mặn nước dưới đất
Vùng Đồng bằng Quỳnh Lưu - Diễn Châu: Độ tổng khoáng hoá biến đổi

từ 0,05 g/l đến 2,88 g/l; Vùng đồng bằng sông Cả (phân bố chủ yếu ở Nghi Lộc,
vùng Vinh - Cửa Lò và ven theo các thung lũng sông Cả): có độ tổng khoáng
hoá nhỏ hơn so với 2 đồng bằng trên, độ tổng khoáng hoá nhỏ nhất đạt 0,06 g/l và
cao nhất đạt 0,94 g/l.
1.2.2.5. Hiện trạng môi trường đất
1. Ô nhiễm môi trường đất do các hoạt động sản xuất và đời sống
Do sử dụng phân bón: ở Nghệ An, lượng phân bón sử dụng trong sản xuất
nông nghiệp những năm gần đây không có sự biến động lớn, năm 2002 khoảng
45.000 tấn, năm 2003 khoảng 45.000 tấn, năm 2004 tăng lên khoảng 55.000 tấn
[2]. Theo báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia (2005) [23], ở nước ta lượng
phân bón tồn dư trong đất chiếm trung bình khoảng 60% lượng phân được bón.
22
Theo cách tính toán trên thì ở Nghệ An dư lượng phân bón hóa học trong đất hàng
năm như sau:
Bảng 1.4: Lượng phân bón hoá học được sử dụng ở tỉnh Nghệ An
Năm Diện tích đất
trồng cây hàng
năm (ha)
Lượng phân
bón sử dụng
(tấn)
Lượng phân
bón tồn dư (tấn)
2002 - 45.000 27.000
2003 - 45.000 27.000
2004 - 55.000 33.000
2005 193.524 55.000 33.000
Qua bảng 1.4 có thể nhận thấy, lượng phân bón tồn dư ở tỉnh Nghệ An là rất
lớn, khoảng 33.000 tấn, tương đương với 170kg/ha. Đây là một trong những
nguyên nhân làm cho đất ô nhiễm.

Do sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật: ở Nghệ An, diện tích đất sản xuất
nông nghiệp là 249.626,87 ha (2005). Theo số liệu của Báo cáo Hiện trạng môi
trường Nghệ An năm 2005 thì lượng hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) được
sử dụng vào khoảng 150 tấn. Theo cách tính như đã nêu trong báo cáo Hiện
trạng môi trường quốc gia năm 2005, lượng tồn dư có khoảng 75 tấn, tương
đương khoảng 0,03 kg/ha. Ngoài lượng tồn dư HCBVTV trong đất khi sử dụng
gây ô nhiễm đất, một nguyên nhân khác là do bảo quản HCBVTV không đúng
qui trình nên đã gây ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của
người dân (tồn dư của 2 kho thuốc bảo vệ thực vật là Kho Dùng ở huyện Thanh
Chương và kho Kim Liên ở huyện Nam Đàn đã gây ô nhiễm đất, nước và sức
khoẻ của người dân trong khu vực). Bên cạnh đó, việc kinh doanh HCBVTV
còn chưa được kiểm soát đầy đủ. Thuốc quá hạn sử dụng, thuốc giả vẫn còn
được lưu hành. Hiện tượng bao bì đựng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, diệt
cỏ không được thu gom xử lý mà vứt bừa bãi trên đồng ruộng gây ảnh hưởng
môi trường đất nước vùng nông nghiệp.
Do hoạt động khai khoáng: Khu vực Tây Nghệ An là nơi tập trung nhiều
mỏ khoáng sản như thiếc, đá quí, vàng, đá vôi…với trữ lượng lớn và diện phân
bố rộng. Tại khu khai thác và chế biến thiếc Quỳ Hợp: Kết quả phân tích cho
23
thấy chủ yếu là bị ô nhiễm kim loại nặng như As, Cu, Zn, Cd, có nơi cách nguồn
thải khu khai thác thiếc khoảng 20km hàm lượng kim loại nặng cao hơn hẳn so
với các mẫu còn lại và vượt TCCP tới hàng chục lần như (hàm lượng As vượt
TCCP 100 lần). Đây là một điểm nóng môi trường cần phải quan tâm nghiên
cứu; ở khu khai thác đá xây dựng Hoàng Mai và các khu khai thác đá khác như
Diễn Châu, Cửa Lò, Quỳ Hợp, Con Cuông ... Quá trình khai thác đá ở khu vực
này đã gây ô nhiễm môi trường, trong đó môi trường đất ở đây bị khói bụi và đá
nhỏ vương vãi làm cho đất chai cứng, mất khả năng canh tác.
Do hoạt động công nghiệp chế biến: Địa phận thị trấn Thái Hoà, huyện
Nghĩa Đàn, kết quả phân tích các mẫu đất cho thấy: trong vòng bán kính 100m
đã bị ô nhiễm Zn, do người dân ở đây đã dùng nguồn nước thải của nhà máy

tưới cho đất nông nghiệp; Địa phận nhà máy mía đường thị trấn Tân Kỳ, huyện
Tân Kỳ, kết quả phân tích cho thấy: Hàm lượng các kim loại nặng như: Hg, Zn,
Cr, Pb, Cd đều nằm trong TCCP. Hàm lượng As trong các mẫu NA19a, NA19b,
NA20a từ 13,08 đến 15,4 vượt TCCP từ 1,2 đến 1,3 lần và gây ô nhiễm nhẹ tới
môi trường đất.
Do chất thải sinh hoạt: Nhiễm bẩn đất vùng ven bờ biển tỉnh Nghệ An tập
trung ở một số khu vực đô thị và ở những vùng cửa sông tập trung thuyền bè,
bến cá. Ở vùng nông thôn miền núi, ô nhiễm chất thải sinh hoạt không lớn. Tuy
nhiên, vẫn có những điểm tập trung rác không được xử lý đã gây ô nhiễm cục
bộ. Ví dụ, tại khu vực thị trấn Quỳ Châu, bãi rác nằm dưới chân núi đá vôi, rộng
vài trăm m2 gây mùi hôi thối, có nhiều ruồi nhặng. Rác được xử lý bằng cách
đốt thành tro. Kết quả phân tích cho thấy: khu vực bãi thải đã bị ô nhiễm đất do
kim loại nặng.
2. Thoái hoá môi trường đất do các quá trình tự nhiên
- Ảnh hưởng do quá trình nhiễm mặn:
Theo kết quả phân tích 11 mẫu đất theo các chỉ tiêu hiện hành của Sở
Khoa học và Công nghệ trên đất nông nghiệp vùng cửa sông của các xã thuộc
các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc cho thấy: một phần
24
đất nông nghiệp các xã vùng ven biển và các cửa sông đã bị nhiễm mặn. Độ mặn
có chiều hướng giảm dần từ Quỳnh Lưu đến Nghi Lộc.
- Ảnh hưởng môi trường đất do rửa trôi, thoái hoá, giảm độ phì của đất:
Đất xói mòn trơ sỏi đá vùng ven biển tỉnh Nghệ An có diện tích khoảng
5.159ha và được phân bố chủ yếu ở vùng Bắc Quỳnh Lưu. Đất bị xói mòn rửa
trôi mất lớp đất tầng mặt nên hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất này
thường nghèo, do đó khả năng canh tác trên loại đất này là không thể.
- Hiện tượng cát bay, cát chảy:
Cát bay và cát chảy là hiện tượng phổ biến, 40% số xã có hiện tượng cát
bay, cát chảy. Trong đó phần lớn là ở các xã bãi ngang thuộc Nghi Lộc, Cửa Lò.
Tại một số xã sau mỗi đợt gió bão, tình trạng cát bay vào sâu nội đồng hàng

chục mét vùi lấp hoa màu và khu vực dân cư.
Nhiều đợt mưa lớn, tập trung, tạo ra dòng chảy lớn, các hạt cát theo các
dòng chảy này vùi lấp, lắng đọng làm mất tầng mặt của nhiều diện tích đất canh
tác.
1.2.2.6. Hiện trạng chất thải rắn
1. Hiện trạng chất thải rắn
Trong những năm gần đây, quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ở
Nghệ An đang phát triển mạnh và liên quan đến chúng là vấn đề chất thải.
Lượng thải ngày càng tăng, trong đó có chất thải nguy hại đang là một vấn đề
môi trường cấp bách của tỉnh.
Các nguồn chất thải rắn (CTR) chủ yếu bao gồm: CTR sinh hoạt, CTR
công nghiệp và CTR y tế.
Bảng 1.5: Lượng chất thải rắn phát sinh tỉnh Nghệ An năm 2005
TT Các loại chất thải rắn Tổng (tấn/năm) Tỷ lệ (%)

1
Chất thải sinh hoạt
501.705
83,1
2 Chất thải công nghiệp 100.341 16,6
3 Chất thải y tế 1.771 0,3
4 Chất thải nguy hại 41.583
Tổng cộng lượng chất thải rắn 603.817 100
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Nghệ An
25

×