Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

luận văn thạc sĩ khách sạn du lịch Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.84 KB, 102 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định: "Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân
dân … Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hóa, đạo đức và lối
sống"; "Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước … Thực hiện quản lý
nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt
động của thị trường và doanh nghiệp … Phát triển mạnh các dịch vụ công cộng:
giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao".
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chủ trương của Đảng, chính
sách Nhà nước đã thể hiện việc coi trọng chính sách đầu tư văn hóa, đầu tư
nhân tố con người, khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng
tạo văn hóa và hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn. Kể từ khi Chính phủ
ban hành Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1997 và Nghị định 73/1999/NĐ-CP
ngày 19/8/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hóa trên lĩnh vực hoạt
động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục-thể thao, đã tạo điều kiện cho người dân
đầu tư, phát triển các dịch vụ văn hóa.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa trên lĩnh vực văn hóa, thời gian qua
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã nhanh chóng phát triển nhiều loại hình hoạt
động văn hóa: karaokê, vũ trường, Internet, băng-đĩa hình, vidéo games,
online games; các câu lạc bộ: hát với nhau, hát với ngôi sao, sân khấu, tài tử
cải lương; các dịch vụ quảng cáo, thời trang, siêu thị sách … Chính sự phát
triển khá mạnh các loại hình này đã góp phần làm phong phú đời sống văn
hóa- tinh thần trong nhân dân, tạo điều kiện và thu hút đông đảo các tầng lớp
trong xã hội tham gia sinh hoạt, tìm hiểu, vui chơi, giải trí.
Quá trình xã hội hóa hoạt động văn hóa trên địa bàn tỉnh có phát huy tính
tích cực, kết hợp với các thiết chế văn hóa do Nhà nước đầu tư (nhà văn hóa,
1
thư viện, nhà bảo tàng, công viên, nhà hát, rạp chiếu phim …) đã nâng lên
mức hưởng thụ văn hóa-đời sống tinh thần trong xã hội, được sự hưởng ứng,
đồng tình của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Điều này


chứng minh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp Nhà nước
đã ban hành là phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam và thời
đại, nền tảng tinh thần được quan tâm nhiều hơn.
Tuy nhiên, cùng với quá trình mở cửa, hội nhập, tiếp cận với văn hóa
các nước, tác động mặt trái của cơ chế thị trường đã nảy sinh không ít các
biểu hiện tiêu cực trong các loại hình dịch vụ văn hóa (mà tập trung là ở các
loại dịch vụ: karaokê, vũ trường, Internet, kinh doanh băng - đĩa hình), tác
động xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là đối tượng thanh-thiếu niên.
Dư luận xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng đã phản ảnh với
nhiều mức độ khác nhau. Cơ quan chức năng cũng rất khó khăn, lúng túng,
bị động trong công tác quản lý đối với một số loại hình dịch vụ văn hóa.
Bản thân tôi sinh ra và trưởng thành ở tỉnh Đồng Nai, nhiều năm trước
đây công tác trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa, hiện nay đang thực hiện nhiệm
vụ công tác Đảng do Thành ủy Biên Hòa phân công. Thực trạng còn tiềm ẩn
những biểu hiện tiêu cực ở một số hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, và
nhất là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ du nhập vào nước ta những sản
phẩm văn hóa đồi trụy, phản nhân văn, làm xói mòn những giá trị đạo đức,
thuần phong mỹ tục của dân tộc; lối sống, thị hiếu văn hóa, hành vi cư xử của
con người cũng sẽ xuất hiện những biểu hiện đáng lo ngại.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: "Tăng cường quản lý nhà nước đối với
hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai". Đây cũng chính là đề tài luận
văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế-chính trị, với mong muốn của tôi góp phần
trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, lành mạnh, văn minh, phục vụ thiết thực cho yêu cầu
2
nâng cao đời sống văn hóa, để văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã
hội; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước ở tỉnh Đồng Nai đối với hoạt động
dịch vụ văn hóa.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong những năm qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về hoạt động văn
hóa và dịch vụ văn hóa trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa:
- Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc: Nguyễn Khoa Điềm, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học và mỹ học: Tiến sĩ Cù Huy Chử,
NXB Chính trị Quốc gia, 1998.
- Hội nhập kinh tế khu vực và văn hóa kinh doanh: Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Lâm Quang Huyên, "Văn hóa và kinh doanh", NXB Lao động, 2001.
- Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa: Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
- Khoa học xã hội và nhân văn, mười năm đổi mới và phát triển: Giáo sư
Phạm Tất Dong, NXB Khoa học xã hội, 1998.
- Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa: Giáo sư Viện sĩ Đặng Hữu, NXB Chính trị Quốc gia 2001.
- Văn hóa trong cơ chế thị trường: Tiến sĩ Nguyễn Danh Ngà, "Văn hóa
và kinh doanh", NXB Lao động, 2001.
Tuy nhiên, các công trình nêu trên mới chỉ phân tích từng mặt, từng khía
cạnh của hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa. Chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện cả về cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò quản lý
Nhà nước về dịch vụ văn hóa; thực tiễn quản lý Nhà nước về dịch vụ văn hóa
ở tỉnh Đồng Nai, cũng như đề xuất những giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường
quản lý Nhà nước về các hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.
3
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài không đi sâu tìm hiểu về nguồn gốc, sự hình thành, bản chất các
hoạt động dịch vụ văn hóa, mà nghiên cứu về thực tiễn quản lý hoạt động dịch
vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua, từ đó đề ra các giải pháp
nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với các loại hình dịch vụ văn hóa, hạn
chế những biểu hiện, tác động tiêu cực.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch
vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý Nhà nước ở tỉnh Đồng Nai về hoạt động
dịch vụ văn hóa.
- Đề xuất những giải pháp đồng bộ có tính khả thi nhằm tăng cường quản
lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tác động của nền kinh tế thị trường đã phát triển các loại thị trường
dịch vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Về lĩnh vực hoạt động dịch vụ văn hóa rất
rộng, nhưng trong phạm vi đề tài này chỉ giới hạn ở vai trò quản lý Nhà nước
đối với hoạt động dịch vụ văn hóa.
- Về thời gian: Đề tài chỉ nghiên cứu thực tiễn hoạt động dịch vụ văn hóa
và vai trò quản lý Nhà nước về dịch vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai từ năm 2000
đến nay (kể từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày
19/8/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hóa trên lĩnh vực hoạt động văn
hóa).
6. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên lý luận học thuyết kinh tế chính trị Mác-Lê nin; phương pháp
duy vật biện chứng, trừu tượng hóa, khoa học, thống kê, so sánh.
- Khảo sát, đối chứng, tổng hợp tư liệu, phân tích
4
7. Dự kiến những đóng góp khoa học của đề tài nghiên cứu
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý Nhà nước
đối với hoạt động dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường.
- Khảo sát đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước về hoạt động dịch vụ
văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất phương hướng và hệ thống giải pháp nhằm tăng cường quản lý
Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.
8. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 03 chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với
hoạt động dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động dịch vụ
văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.
CHƯƠNG 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước
đối với hoạt động dịch vụ văn hóa ở tỉnh Đồng Nai.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ VĂN HÓA
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VỀ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ VĂN HÓA TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Văn hóa - sản phẩm hàng hóa tinh thần
1.1.1.1. Quan niệm về văn hóa – sản phẩm hàng hóa tinh thần
Con người luôn luôn là yếu tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế, đặc
biệt trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Trước đây,
con người nhất là những người lao động làm thuê, bị bóc lột, chỉ được xem là
phương tiện của sự tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, với trình độ phát triển vượt
bậc, năng suất và kỹ thuật hiện đại đã tạo cho con người nhiều thời gian và
điều kiện để học tập và phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất nhân tố con
người để xây dựng nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần trong xã hội.
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do bản thân con
người chúng ta sáng tạo nên, thể hiện sản phẩm trí tuệ, nhân cách của con
người và của cả cộng đồng, dân tộc. Mặt khác, văn hóa phản ảnh nhu cầu tự
nhiên, suy nghĩ, tình cảm của con người. Chính vì vậy, văn hóa là sản phẩm
chung của toàn xã hội, là sự phản ảnh của lịch sử thông qua các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, phong tục, tập quán, nghĩa là phản ảnh trình độ phát triển của

con người qua từng giai đoạn lịch sử. Ngay cả khi văn hóa nằm trong tay giai
cấp thống trị, do giai cấp thống trị quy định, thì vẫn tồn tại một nền văn hóa
của dân tộc xuyên suốt trong mọi thời gian. Các hình thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần luôn gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân, và đó là một
trong những mặt hoạt động không thể thiếu được.
6
Khác với sản phẩm hàng hóa vật chất, văn hóa là một sản phẩm hàng hóa
tinh thần. Trong lĩnh vực văn hóa, giá trị sử dụng của sản phẩm không phải là
thuộc tính tự nhiên, mà chính là thuộc tính xã hội – giá trị văn hóa tinh thần
của nó. Ở đây không có sự phân chia quyền lợi văn hóa giữa Nhà nước và
công dân, càng không thể có sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu giá trị văn
hóa. Đây là một khác biệt có tính nguyên tắc khi nói đến hàng hóa văn hóa.
Chính giá trị sử dụng của một tác phẩm văn hóa không phải là thuộc tính vật
chất tự nhiên của nó, mà là nội dung giá trị nghệ thuật. Nội dung nầy ở những
thời điểm lịch sử có sự khác nhau ở từng địa phương, từng nhóm công chúng.
Sự khác nhau ở đây là về mặt công dụng của nó, nghĩa là về tác động tư tưởng
thẩm mỹ.
Giá trị sử dụng của một sản phẩm hàng hóa vật chất có thể là đối tượng
chiếm hữu và sử dụng của một cá nhân hoặc một tổ chức, nó có thể hao phí
hoàn toàn trong quá trình sử dụng. Còn giá trị sử dụng của một tác phẩm văn
hóa là tài sản chung của cộng đồng và của toàn xã hội. Chính vì vậy, giá trị sử
dụng của hàng hóa văn hóa phải được quan tâm, và đó là mối quan tâm hàng
đầu trong công tác lãnh đạo và quản lý.
Con người chúng ta khi còn ở thời kỳ đầu, thời kỳ sơ khai, thì việc thỏa
mãn nhu cầu tinh thần thường gắn chặt với quá trình làm ra của cải vật chất và
phân phối. Các giá trị tinh thần được con người sáng tạo với khuynh hướng đơn
giản: bắt chước, mô phỏng trực tiếp từ thiên nhiên, từ các động tác của con
người, do đó nó gắn liền với hoạt động kinh nghiệm là chính. Một khi xã hội
phát triển thì quá trình nhận thức và hành động của con người ngày càng trở nên
sâu sắc hơn, có nhiều sáng tạo hơn. Điều này, cho thấy hàm lượng tri thức trong

các sản phẩm hàng hóa tinh thần do con người chúng ta sáng tạo ra ngày càng
nhiều hơn, phong phú hơn, chất lượng hơn. Từ những biểu hiện thực tế của cuộc
sống, của những hiện tượng, con người quan sát, nghiên cứu nâng lên thành bản
chất, cuối cùng đưa ra quy luật. Đây chính là sự sáng tạo của quá trình tư duy nói
7
chung và sáng tạo ra các giá trị tinh thần mang tính định hướng tư tưởng và nghệ
thuật cao. Dưới tác động của các giá trị sản phẩm hàng hóa tinh thần, nhu cầu
con người ngày càng lớn, cũng như sự đòi hỏi của công chúng trong toàn xã hội
ngày càng nhiều, cho nên trong một bộ phận công chúng có tri thức và năng lực
đã tách khỏi lĩnh vực sản xuất vật chất để tập trung vào lĩnh vực sáng tạo ra giá
trị tinh thần – sản phẩm hàng hóa tinh thần.
Như vậy, sản phẩm văn hóa tinh thần là hình thái quan niệm về văn hóa
nghệ thuật, tư tưởng, chính trị, pháp luật, tôn giáo, đạo đức, thẩm mỹ … do
chính con người sáng tạo ra trong thực tiễn. Sản phẩm hàng hóa tinh thần
tập trung các giá trị tinh thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người,
hướng con người đi đến những giá trị chân, thiện, mỹ.
* Phân loại sản phẩm văn hóa tinh thần:
Sản phẩm văn hóa tinh thần có thể phân làm hai loại: loại tri thức và loại
văn nghệ.
- Sản phẩm văn hóa tinh thần loại tri thức được thể hiện trong ca dao,
tục ngữ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, công nghệ …
- Sản phẩm văn hóa tinh thần loại văn nghệ được thể hiện trong dân ca,
văn học, sân khấu, hội họa, âm nhạc, vũ đạo, truyền hình, điện ảnh …
Sản phẩm văn hóa tinh thần có mặt giống như sản phẩm hàng hóa vật
chất, đó là kết quả hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình tác động vào
tự nhiên để tồn tại và phát triển, phục vụ nhu cầu vật chất của mình, con
người đồng thời xuất hiện những nhu cầu tinh thần và các giá trị tinh thần. Để
thỏa mãn các nhu cầu đó, các sản phẩm văn hóa tinh thần được sáng tạo ra.
Tuy nhiên, sản phẩm văn hóa tinh thần là sản phẩm văn hóa đặc biệt chỉ có
được ở con người và tồn tại trong xã hội loài người.

1.1.1.2. Đặc trưng của sản phẩm văn hóa tinh thần
Một là, sản phẩm văn hóa tinh thần thời gian đầu thường gắn với kinh
nghiệm và mang tính cộng đồng, phi hàng hóa:
Khi xã hội loài người mới hình thành, lúc bấy giờ trình độ nhận thức,
8
hiểu biết, trình độ về khoa học công nghệ … nói chung chưa phát triển, con
người gần như phụ thuộc vào thiên nhiên. Chính quá trình này có tác động
ảnh hưởng đến cuộc sống và các hoạt động vật chất của con người, mà chủ
yếu là đối phó, chống chọi lại sự tàn phá của thiên nhiên. Về sau, thông qua
lao động sản xuất, con người đã rút ra những kinh nghiệm, đặt thành những
câu ca dao, tục ngữ, bài vè cho dễ nhớ:
"Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống".
Hoặc là:
"Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm"
Đến khi xã hội phát triển, điều kiện cuộc sống của con người được nâng
lên, đòi hỏi nhu cầu ngày càng cao, nhận thức ngày càng sâu sắc, thì các sản
phẩm văn hóa tinh thần đã dần dần tách khỏi sản phẩm hàng hóa vật chất bình
thường, mang tính độc lập, tính khái quát nhiều hơn, do vậy tính tư tưởng,
nghệ thuật và sáng tạo cũng được nâng lên.
Sản phẩm văn hóa tinh thần, ban đầu mang tính cộng đồng, phi hàng hóa:
Việc sản xuất và sử dụng sản phẩm văn hóa tinh thần thời gian đầu mang
tính công cụ, thường phục vụ cho số đông, cộng đồng hoặc toàn xã hội. Cho
đến khi nền sản xuất hàng hóa xuất hiện và phát triển thành nền kinh tế thị
trường thì nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần đã tham gia vào quá trình trao
đổi, mua bán, trở thành hàng hóa. Chính sự biến đổi này đã làm cho sản phẩm
văn hóa tinh thần chuyển dần từ tính công cụ sang tính tư hữu.
Tuy nhiên, sản phẩm văn hóa tinh thần có sự mâu thuẫn giữa tính hàng hóa
và phi hàng hóa. Tính phi hàng hóa đòi hỏi sản phẩm văn hóa tinh thần phục vụ
cho việc ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội; còn tính hàng hóa thì đòi

hỏi sản phẩm văn hóa tinh thần cũng phải được sản xuất, kinh doanh, trao đổi,
lưu thông theo các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy
luật của thị trường và chịu sự tác động, sự điều tiết của các quy luật này. Mâu
9
thuẫn này mang tính biện chứng của sản phẩm văn hóa tinh thần.
Một số sản phẩm văn hóa tinh thần lúc đầu được sản xuất ra không nhằm
mục tiêu mua bán, trao đổi và như vậy nó không phải là hàng hóa. Nhưng do
nhu cầu của người tiêu dùng, nó có thể được chủ sở hữu trao đổi, chuyển
nhượng hoặc bán cho người khác theo giá thỏa thuận, tức là đã chuyển sang
quá trình mua bán - trao đổi, lúc này sản phẩm văn hóa tinh thần đã trở thành
hàng hóa.
Hai là, sản phẩm văn hóa tinh thần không có giới hạn về thời gian và
không gian với số lượng không hạn chế.
Sản phẩm văn hóa tinh thần gắn liền với khả năng sáng tạo, có tính lưu
truyền lâu đời, được bảo tồn, giữ gìn và phát triển qua nhiều thế hệ. Chẳng hạn,
những bức ảnh hội họa, những tác phẩm điện ảnh, những bài ca, điệu múa …
thời gian sử dụng của sản phẩm văn hóa tinh thần thường kéo dài, có khi chúng
tồn tại rất lâu và được cải biên, phát triển cho phù hợp với xã hội hiện đại (áo dài
của phụ nữ Việt Nam chẳng hạn). Như vậy, sản phẩm văn hóa tinh thần bao hàm
cả yếu tố kế thừa truyền thống và yếu tố sáng tạo, hiện đại.
Những sản phẩm văn hóa tinh thần tồn tại ở dạng phi vật thể thường có
khả năng được phổ biến rộng, được nhân bản nhiều, lại không hao mòn trong
sử dụng. Trên thực tế có những sản phẩm văn hóa tinh thần đặc trưng của dân
tộc Việt Nam, luôn được sử dụng và phát triển ở nhiều thời kỳ khác nhau
trong lịch sử: "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du; "Hịch Tướng sĩ" của
Trần Hưng Đạo; "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi …
Sản phẩm văn hóa tinh thần được sáng tạo trên nguyên tắc tuân thủ một
kết cấu thẩm mỹ. Cho nên, để thưởng thức sản phẩm văn hóa tinh thần, con
người cần có thời gian và với một trình độ nhất định mới có thể kiểm nghiệm
được ý hay, nét đẹp, tư tưởng của sản phẩm văn hóa tinh thần đó. Hiện nay,

trong số các sản phẩm văn hóa tinh thần, có một số loại đòi hỏi một trình độ
am hiểu và cảm nhận rất cao, chẳng hạn các tác phẩm hội họa, nhạc giao
10
hưởng, thính phòng, những điệu múa, vũ đạo …
Ba là, hàng hóa văn hóa tinh thần là một loại hàng hóa đặc biệt.
Hàng hóa này được tạo nên từ sự kết hợp giữa hai yếu tố: yếu tố sản
phẩm tinh thần, yếu tố hàng hóa. Với tư cách là sản phẩm văn hóa tinh thần,
nó thỏa mãn các yêu cầu: là sản phẩm của lao động trí tuệ; có khả năng thỏa
mãn nhu cầu tinh thần của một cá nhân hay một cộng đồng người. Với tư cách
là hàng hóa, nó cũng thể hiện được giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa,
được trao đổi và mua bán trên thị trường.
Giá trị sử dụng của hàng hóa văn hóa tinh thần là tính hữu dụng có thể thỏa
mãn nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của con người. Giá trị của hàng hóa văn
hóa tinh thần là lao động trí tuệ trừu tượng của con người kết tinh trong đó.
Hàng hóa văn hóa tinh thần là sản phẩm của lao động, khi sản xuất ra nó,
người ta phải tiêu hao một lượng lao động, chính lượng lao động tiêu hao nầy
tạo thành nguồn gốc của giá trị. Việc xác định được giá trị thường căn cứ vào
thời gian lao động cá biệt, chứ không thể tính theo thời gian lao động trung
bình như các loại hàng hóa thông thường khác, bởi vì hàng hóa văn hóa tinh
thần bao gồm rất nhiều thời gian để cho ra đời một sản phẩm: thời gian thai
nghén, thời gian tư duy, thời gian thể hiện … Bên cạnh đó, cũng còn phải xét
đến định hướng tư tưởng, nghệ thuật, chức năng thẩm mỹ, giáo dục, giải trí
của sản phẩm văn hóa tinh thần.
Việc sản xuất sản phẩm hàng hóa tinh thần cũng cần đến các yếu tố như:
nguyên vật liệu, công nghệ, lao động. Thế nhưng vì chúng là những sản phẩm
hàng hóa tinh thần nên có tính chất đặc biệt và cách hiểu, cách nhận thức – tư
duy cũng phải linh hoạt (không như sản phẩm hàng hóa bình thường):
- Nguyên vật liệu để sáng tạo ra sản phẩm văn hóa tinh thần không chỉ
tồn tại ở dạng vật chất mà còn cả ở dạng phi vật chất như trình độ hiểu biết,
vốn sống, kiến thức, tình cảm, quan niệm, tư tưởng, thị hiếu, thẩm mỹ … và

các giá trị tinh thần của nhân loại mà chính tác giả có thể kế thừa được. Ở
11
dạng thông thường, con người chúng ta nếu hội tụ được các yếu tố như tầm
kiến thức rộng, có quan điểm đúng đắn, trình độ thẩm mỹ cao thì sẽ có nhiều
khả năng sáng tạo được những sản phẩm văn hóa tinh thần có giá trị. Thế
nhưng trong thực tế cuộc sống, cũng có lúc, có nơi, có đối tượng trong trạng
thái xuất thần, cảm hứng, đã sáng tạo sản xuất ra những sản phẩm văn hóa
tinh thần có giá trị, được xã hội thừa nhận.
- Công nghệ trong sản xuất sản phẩm văn hóa tinh thần không chỉ đơn
thuần là máy móc, kỹ thuật theo nghĩa thông thường, mà phần quan trọng
được cấu thành chính là từ trí tuệ, tài năng, phương pháp sáng tạo của người
lao động văn hóa, lao động trí óc, tư duy.
- Sức lao động trong sản xuất sản phẩm hàng hóa tinh thần đó là những
yếu tố về mặt tinh thần, sự nhạy cảm về tư tưởng, tâm lý, tình cảm, cảm xúc của
con người. Đồng thời, sức lao động trong quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa
tinh thần còn phải chịu tác động trước những đòi hỏi bức xúc của xã hội trước
hiện thực khách quan. Vì vậy, đối với con người lao động trí óc, văn hóa nghệ
thuật đòi hỏi phải bù đắp cả hao mòn hữu hình lẫn hao mòn vô hình.
Sản phẩm hàng hóa tinh thần có tính chất hàng hóa bao gồm các loại hình:
xuất bản, báo chí, phim ảnh, tranh truyện v.v… Chúng đều là sản phẩm của lao
động được sản xuất và sáng tạo có mục đích, tính định hướng, có thể trao đổi
hoặc mua bán. Những loại hàng hóa nầy khi đi vào thị trường đã thể hiện giá trị
của mình, được người tiêu dùng mua về để phục vụ cho nhu cầu tinh thần, một
yêu cầu không thể thiếu và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong một xã hội
phát triển mà chúng ta thường gọi đó là nền tảng tinh thần trong xã hội.
Hàng hóa tinh thần có giá trị sử dụng kép.
Đối với hàng hóa thông thường, khi tiêu dùng biểu hiện ở tính cá nhân,
nó chủ yếu thỏa mãn nhu cầu chủ yếu của người tiêu dùng và ít có ảnh hưởng
đến cộng đồng, xã hội. Con người chúng ta sử dụng các loại sản phẩm hàng
hóa bình thường trong gia đình: giường, ghế, tủ, ti vi, … thì chỉ thỏa mãn nhu

12
cầu của cá nhân mình và không tác động đến xã hội. Có thể gọi những hàng
hóa loại này là những vật phẩm có giá trị sử dụng đơn, tức là chỉ thỏa mãn và
đáp ứng cho chính nhu cầu của cá nhân con người nào đó. Thế nhưng, khi
chúng ta thưởng thức một sản phẩm hàng hóa tinh thần (một bộ phim, một tác
phẩm văn hóa, kịch nói, cải lương …) thì ngoài việc thỏa mãn nhu cầu cá
nhân, chúng còn góp phần thỏa mãn những nhu cầu chung của xã hội, và như
thế hàng hóa tinh thần có giá trị sử dụng kép (cá nhân và xã hội).
Hàng hóa tinh thần vừa có tính tư nhân, vừa có tính xã hội.
Hàng hóa tinh thần chủ yếu do cá nhân con người sáng tạo ra, và thường
ghi đậm dấu ấn cá nhân, vì vậy nó có tính tư nhân. Thế nhưng trong thực tế
thì cá nhân – chủ thể sáng tạo – chỉ là người trực tiếp thực hiện, tức là cho ra
đời sản phẩm văn hóa tinh thần của mình, còn chất liệu để làm ra sản phẩm ấy
thì chủ thể sáng tạo phải kế thừa, tiếp thu từ trong các giá trị văn hóa tinh
thần, từ truyền thống của cộng đồng, dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Cho nên khi sản phẩm văn hóa tinh thần trở thành hàng hóa thì nó đồng thời
mang tính xã hội.
1.1.2. Dịch vụ văn hóa và vai trò của dịch vụ văn hóa trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1.2.1. Dịch vụ văn hóa và các loại hình dịch vụ văn hóa trong nền
kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh những hàng hóa vật thể hữu hình
còn có những loại hình dịch vụ mà người ta mua và bán trên thị trường. Đó là
hàng hóa phi vật thể, hay còn gọi là hàng hóa – dịch vụ.
Dịch vụ văn hóa là những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa có tổ chức
và được trả công, nhằm phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của
công chúng.
Hàng hóa dịch vụ cần thỏa mãn các điều kiện:
13
- Giá trị sử dụng của sản phẩm dịch vụ không có hình thái vật thể (hữu

hình) mà tồn tại dưới hình thái phi vật thể.
- Quá trình sản xuất ra hàng hóa dịch vụ hướng vào phục vụ trực tiếp
người tiêu dùng với tư cách là những khách hàng (chữa bệnh, dạy học, cắt tóc,
may đo …); quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời.
- Do không mang hình thái vật thể và do quá trình sản xuất đồng thời
cũng là quá trình tiêu dùng, nên hàng hóa dịch vụ không thể tồn tại độc lập,
không thể tích lũy hay dự trữ.
Hiện nay, trong xã hội nước ta đã xuất hiện rất nhiều các hoạt động dịch
vụ. Chính quá trình này đã phát sinh nhiều biểu hiện cần được quan tâm:
- Rất nhiều hộ gia đình, sáng thức dậy đã nhận được các mẫu giấy quảng
cáo của các tổ chức kinh tế được nhét qua khe cửa hoặc quăng vào sân nhà
mình. Nào là quảng cáo bán gạo, bán tivi, đầu đĩa, máy giặt, máy điều hòa
nhiệt độ …; nào là thiết kế, lắp đặt ăng ten, thiết bị báo động, camera quan sát
… Thậm chí, có những ngôi nhà mới xây xong, quét vôi, sơn trắng toát, đẹp
một cách mỹ miều như vậy, thế nhưng sáng mở mắt ra đã thấy trên tường nhà
mình xuất hiện những dòng chữ đỏ lạnh lùng: "Nhận khoan, cắt, đập, phá bê
tông" hoặc "Thuốc gia truyền, đặc trị trĩ - mạch lươn, yếu sinh lý", kèm theo
đó là số điện thoại để liên hệ.
- Nếp sống và những phong tục truyền thống ở một bộ phận dân cư ít
nhiều cũng đã có những thay đổi theo quá trình phát triển của nền kinh tế thị
trường và sự đa dạng các loại hình dịch vụ. Xã hội ngày nay, khi mà nhân tố
con người được coi trọng và phát huy thì đó cũng chính là nhân tố kích thích
con người lao vào công việc với sự nhiệt tình hơn, trách nhiệm hơn, hiệu quả
hơn. Chính vì thế, nếp sống văn hóa trong gia đình cũng có nhiều thay đổi.
Ngày nay, rất ít có những bữa cơm gia đình mà hội tụ đầy đủ các thành viên
của gia đình mình, từ ông bà, cha mẹ, cho đến con cái. Hầu như ai cũng chịu
sự tác động của cơ chế thị trường và bị cơ chế này cuốn hút. Cho nên, tâm lý
14
của một số bậc cha mẹ, cứ mỗi sáng phát tiền ngày ba bữa trong ngày cho con
cái để khỏi chộn rộn, bận bịu với việc bếp núc. Còn bên ngoài xã hội đã xuất

hiện rất nhiều các loại dịch vụ phục vụ bữa ăn cho "thượng đế": Cơm trưa văn
phòng, cơm phần, cơm hộp, cơm đĩa, cơm niêu … Còn nghỉ trưa, đã có những
phòng nghỉ trưa có máy lạnh. Cao hơn, có thêm người ngồi kế bên để kể
chuyện như là kể chuyện đêm khuya. Cao hơn nữa, vừa có máy lạnh, vừa
nghe kể chuyện, lại vừa được thở ô xy tinh khiết … thị trường dịch vụ là như
thế với giá cả tùy theo hình thức và mức độ phục vụ.
Ngoài ra, dưới tác động của quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu và
giao lưu văn hóa thế giới, đã xuất hiện nhiều loại hình dịch vụ văn hóa ở nước
ta: karaokê, vũ trường, băng đĩa nhạc, băng đĩa hình, cà phê vi déo … Các
loại hình này ngày càng phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tinh
thần của người dân.
1.1.2.2. Vai trò của dịch vụ văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân
Có thể nói rằng các loại dịch vụ trong xã hội ngày càng phát triển đa
dạng, vừa tạo cơ hội cho người kinh doanh, lại vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần
của chính bản thân con người.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa gắn liền với quá trình phát triển
của nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường phát triển sẽ tác động làm cho
các hoạt động dịch vụ văn hóa phát triển ngày càng phong phú, đa dạng. Các
hoạt động này tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của người dân.
Hoạt động dịch vụ văn hóa trong xã hội càng phát triển thì nhu cầu
hưởng thụ của con người càng được đáp ứng. Xã hội phát triển càng cao, nhu
cầu hưởng thụ văn hóa của con người càng lớn. Văn hóa nói chung và dịch vụ
văn hóa nói riêng có tác động lớn trong sự phát triển và trong chiến lược xây
dựng con người. Thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy: trong sự
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, nếu như không đồng bộ, không cân
15
bằng thì sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng trong đời sống văn hóa – tinh thần
của toàn xã hội. Vì vậy, phát triển đa dạng và phong phú các hoạt động dịch
vụ văn hóa cũng là một trong số những biện pháp tích cực để nâng cao đời

sống tinh thần, làm cho văn hóa thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, đồng thời tạo điều kiện để thúc đẩy văn hóa phát triển.
Thật ra, hoạt động dịch vụ văn hóa ở nước ta không phải chỉ xuất hiện
trong thời đại ngày nay. Trong các thời kỳ trước đây, ở một số địa phương với
những tập quán, phong tục, đã tổ chức các hình thức hoạt động văn hóa trong
các ngày hội làng, đám tế, cúng đình … bà con thường đóng góp để mời các
đoàn hát xướng, phường tuồng, phường chèo … về phục vụ. Có những đoàn
ca diễn ở làng đã được nhân dân nuôi dưỡng; những trường hợp hát hay, đàn
giỏi, diễn tốt thì được nhân dân hưởng ứng, thưởng tiền hoặc hiện vật. Như
vậy, thông qua các hình thức sinh hoạt như thế, quần chúng vừa được hưởng
thụ lại vừa tham gia sáng tạo văn hóa, dù rằng các hoạt động này ở mức sơ
khai, chưa có sự hướng dẫn, sự quản lý chặt chẽ.
Giai đoạn nước ta thực hiện cơ chế quản lý tập trung – bao cấp, các hoạt
động dịch vụ văn hóa chưa có điều kiện để phát triển, một số loại hình hoạt
động chỉ dừng lại ở mức độ nhỏ, phân tán, manh múm. Một số do nhà nước
quản lý và tổ chức thực hiện, có thu tiền (ca nhạc, cải lương, kịch, chiếu
phim, …), một số do tư nhân thực hiện ở mức độ vừa phải (cho thuê sách –
truyện, chụp hình đám tiệc – lễ hội, các nhóm đờn – ca …). Cơ chế quản lý
này đã làm cho con người quen với phong cách chịu đựng, vừa mang tính ỷ
lại – phụ thuộc, vừa thiếu năng động – sáng tạo. Trên thực tế, nền kinh tế tập
trung bao cấp đã kềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, không thể giải
phóng được mọi tiềm năng, mọi lực lượng trong xã hội. Ở lĩnh vực văn hóa,
với cơ chế này, Nhà nước là nơi cung cấp và phân phối chủ yếu các sản phẩm
văn hóa cho toàn xã hội. Quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân ở hoạt động văn
hóa chủ yếu là quan hệ trao và nhận. Chính sự bao cấp về văn hóa như thế,
16
không chỉ tạo tâm lý thụ động, trông chờ vào Nhà nước của người dân, mà
còn dẫn đến một thực tế là Nhà nước không đủ khả năng bao cấp về văn hóa,
làm cho nhiều nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, hải đảo, vùng
nông thôn, người dân vẫn bị thiếu thốn về đời sống sinh hoạt văn hóa – tinh

thần. Một số nơi tuy có đề ra phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng
làm", song do ỷ lại và bao cấp nên chưa phát huy được. Nội dung cung cấp
sản phẩm văn hóa ở một số nơi lại không căn cứ vào nhu cầu thực tế của
người dân; hình thức tuyên truyền, phổ biến các sản phẩm văn hóa cũng còn
biểu hiện minh họa giản đơn cho chính trị, làm hạn chế tính xã hội và đặc
trưng của văn hóa và không khơi dậy được tiềm năng văn hóa trong nhân dân.
Hệ quả này dẫn đến sự thụt lùi trong tăng trưởng kinh tế, và do đó đời sống
văn hóa – tinh thần của người dân chậm nâng lên, các hoạt động dịch vụ văn
hóa thiếu phát triển, không thể hiện được chức năng phản ánh nhịp sống của
một xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của quy luật giá trị, các
hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, trong đó có cả
dịch vụ văn hóa – sản phẩm hàng hóa tinh thần. Trên thị trường, hàng hóa
đều phải được trao đổi theo giá trị xã hội, người sản xuất nếu có giá trị cá
biệt lớn hơn giá trị xã hội thì sẽ rất bất lợi trong cạnh tranh. Hoạt động dịch
vụ văn hóa, dưới giác độ là sản phẩm hàng hóa tinh thần, cũng chịu sự tác
động của quy luật cạnh tranh, đây là động lực, là một trong những nguyên
tắc cơ bản, tồn tại khách quan và không thể thiếu được trong nền kinh tế thị
trường.
Trên thực tế, cạnh tranh có vai trò to lớn, nó buộc người sản xuất – kinh
doanh – dịch vụ phải thường xuyên áp dụng phương pháp công nghệ mới,
phải nhạy bén, năng động và tổ chức quản lý có hiệu quả. Ở bất cứ nơi đâu
và bất cứ lúc nào, nếu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì lại
xuất hiện tình trạng bảo thủ, trì trệ, kém hiệu quả, cái cũ không được thay
17
thế, cái mới không đi vào cuộc sống và do vậy cũng không thể phát triển
được.
Tuy nhiên, cạnh tranh cũng để lại những tác hại, làm xuất hiện những
hình thức lừa đảo, chộp giựt, câu khách, trốn lậu thuế, xâm phạm bản quyền,
mua chuộc, hối lộ, làm đồi bại các quan hệ xã hội. Nếu đơn thuần chạy theo

lợi ích riêng, sẽ dẫn đến những hậu quả về tài nguyên, môi trường, thất
nghiệp, gia tăng sự phân hóa giàu – nghèo và những bất công trong xã hội.
Hoạt động dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường cũng không đứng
ngoài sự tác động này của quy luật cạnh tranh trong xã hội.
Hoạt động dịch vụ văn hóa cũng phản ảnh tính hai mặt, vừa có mặt tích
cực, lại vừa có mặt tiêu cực. Mặt tích cực là đòi hỏi các hoạt động phải đáp
ứng được mọi nhu cầu của đời sống văn hóa tinh thần trong nhân dân, thúc
đẩy sự cạnh tranh lẫn nhau, và do vậy phải luôn năng động, sáng tạo, tiếp cận
nhanh và sớm tiếp thu cái mới. Tuy nhiên, mặt tiêu cực là dễ đẩy các hoạt
động dịch vụ văn hóa đi vào con đường thương mại hóa, xuất phát từ lợi ích
riêng, với mục tiêu là lợi nhuận, dẫn đến những hành vi bất chấp các quy định
của pháp luật, làm băng hoại đạo đức, lối sống của một bộ phận thành viên
trong xã hội, nhất là thanh – thiếu niên.
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng chính là quá trình làm
phong phú hơn đời sống tinh thần trong xã hội, đòi hỏi phải có sự đổi mới và
nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ văn hóa. Đây cũng là yêu cầu nội tại
của loại hình này. Bởi vì, để hoạt động văn hóa trở thành của toàn xã hội, có
vai trò thực sự trong các lĩnh vực của đời sống, mang tính định hướng, hướng
dẫn nhận thức và hành động của con người chỉ khi nó có chất lượng cao và
đáp ứng được nhu cầu của toàn xã hội. Điều này cũng thể hiện rõ nét quy luật
cung – cầu trong cơ chế thị trường.
Với quan niệm văn hóa như một hoạt động sản xuất, là một thực thể tồn
18
tại khách quan, là một lĩnh vực do con người sáng tạo nên, cho nên đối với
các hoạt động dịch vụ văn hóa cũng chính là phát huy quyền tổ chức và điều
hành các hoạt động sản xuất văn hóa, lưu giữ, phổ biến, tổ chức hưởng thụ
theo xu hướng đa dạng hóa chủ thể quản lý nhằm để thu hút các lực lượng
trong xã hội, tập thể và tư nhân tổ chức các hoạt động văn hóa, điều hành quá
trình sản xuất văn hóa theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật Nhà nước.

Hoạt động dịch vụ văn hóa là sự vận động và tổ chức nhằm thu hút toàn
xã hội tham gia các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến văn hóa. Chính
quá trình này sẽ tạo điều kiện cho văn hóa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp,
nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Quá trình này không thể
tách rời sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước.
Với ý nghĩa này, hoạt động dịch vụ văn hóa nếu tổ chức và quản lý tốt,
thì đó chính là động lực của sự phát triển văn hóa, thể hiện vai trò là làm cho
văn hóa phát triển mạnh mẽ, phong phú, đẹp đẽ, đa dạng về hình thức nhằm
phục vụ tốt nhất nhu cầu chính đáng của nhân dân về đời sống văn hóa tinh
thần; đồng thời cũng thể hiện yêu cầu và đòi hỏi khách quan về tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong toàn bộ hoạt động
dịch vụ văn hóa.
Việc tổ chức và quản lý các hoạt động dịch vụ văn hóa, thực chất là thực
hiện quy luật vận động và phát triển của bản thân văn hóa, cũng là phương
châm thực hiện đường lối, chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Chính sự
phát triển của văn hóa bản sắc dân tộc trong lịch sử hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước đã thể hiện rất sinh động nội dung này, mà trước hết là sự
tham gia chủ động, tích cực của nhân dân vào toàn bộ quá trình sản xuất, sáng
tạo, truyền bá, phổ biến, bảo tồn văn hóa, kể cả văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể.
Quá trình tổ chức và quản lý hoạt động dịch vụ văn hóa cũng sẽ tác động
19
việc mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực
và tài lực trong toàn xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
trong nhân dân hướng vào sự nghiệp xây dựng, giữ gìn, phát triển sáng tạo
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ở đây, việc mở rộng
các nguồn đầu tư cho văn hóa là yêu cầu khách quan của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Điều này thể hiện vai
trò của hoạt động dịch vụ văn hóa đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và xây dựng con người.

Một thời gian dài trước đây, với cơ chế tập trung bao cấp và cũng do nhận
thức chưa đúng mối quan hệ giữa vai trò quản lý của Nhà nước với việc phát huy
nguồn lực trong nhân dân, đã dẫn đến sự nghèo nàn về tiềm năng của văn hóa,
hạn chế tính chất phát triển rộng rãi của văn hóa trong toàn xã hội.
Việc khai thác tiềm năng toàn diện trong toàn xã hội bao gồm cả trí tuệ,
năng lực sáng tạo, lực lượng tham gia văn hóa không thể chỉ dừng lại ở việc
khai thác tiền của, vật chất, mà đó phải là sự sáng tạo, tính toàn diện và mang
giá trị tinh thần tự nguyện của người dân. Nhận thức về điều này cũng chính
là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội để tạo lập và cải thiện môi
trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Từ đó, vừa
nâng cao quyền tổ chức hoạt động, vừa nâng cao năng lực điều hành các hoạt
động văn hóa theo hướng đa dạng chủ thể hoạt động, tổ chức và quản lý hoạt
động dịch vụ văn hóa. Chính ở vai trò này sẽ góp phần tạo ra một diện mạo
mới cho sự phát triển văn hóa, nhất là tính đa dạng, phong phú, sự năng động
và sáng tạo trong tổ chức các hoạt động dịch vụ văn hóa. Sự xuất hiện những
gương mặt chủ thể mới với những nỗ lực tìm tòi trong tổ chức và quản lý văn
hóa sẽ tạo cho sự phát triển đa dạng của văn hóa đáp ứng các nhu cầu tinh
thần ngày càng phong phú, muôn phần, muôn vẻ của các tầng lớp nhân dân.
Việc phát huy cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, các tổ
chức xã hội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình tổ chức hoạt động
20
dịch vụ văn hóa. Chính vì vậy, nhận thức về yêu cầu của sự phối hợp, liên kết
giữa các ngành, các đơn vị, các tổ chức xã hội, tập thể và cá nhân có vị trí hết
sức quan trọng. Những thành tựu mới về văn hóa, những sắc thái mới của các
hoạt động dịch vụ văn hóa, tính đa dạng của các loại hình … xuất hiện trong
nhiều năm gần đây cũng là kết quả của sự phối hợp, liên kết có hiệu quả của
các tổ chức và cá nhân trong toàn xã hội. Đây cũng là một trong những đặc
điểm mới đang phát triển trong thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa, nhu cầu
tinh thần của nhân dân ta trong những năm qua.
Vai trò của các chủ thể hoạt động dịch vụ văn hóa ngày càng phát triển,

điều này dẫn đến mối quan hệ giữa nó với vị trí lãnh đạo của Đảng và cơ
quan quản lý Nhà nước về văn hóa. Nếu không lý giải và xử lý đúng mối quan
hệ này sẽ không thúc đẩy được quá trình phát triển các loại hình hoạt động
dịch vụ văn hóa. Quá trình này cũng sẽ tác động để nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, tăng cường quản lý Nhà nước. Bên cạnh việc củng cố và xây dựng
các cơ sở văn hóa Nhà nước đủ mạnh để giữ vai trò định hướng và chủ đạo,
còn cần phải xây dựng các văn bản pháp quy để điều chỉnh, điều hành các
hoạt động dịch vụ văn hóa, quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân
tham gia hoạt động này, kiểm tra và chống mọi biểu hiện thương mại hóa văn
hóa. Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước cũng chính là hướng đến
mục tiêu phát huy cao nhất sự tham gia của toàn xã hội, của mọi lực lượng
vào hoạt động tổ chức, phát triển và quản lý văn hóa.
1.1.3. Sự cần thiết khách quan về quản lý Nhà nước đối với hoạt động
dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
phải quản lý hoạt động dịch vụ văn hóa, đó là tất yếu khách quan. Bởi vì:
1.1.3.1. Do yêu cầu đòi hỏi phải phát triển nền văn hóa theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa
21
Vấn đề quan trọng là định hướng hoạt động dịch vụ văn hóa trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không có định
hướng tốt, nếu buông lỏng sự hướng dẫn của cơ quan chức năng và vai trò
quản lý của Nhà nước, thì sẽ dẫn đến hoạt động dịch vụ văn hóa tràn lan,
thiếu nghiêm túc, tác động tiêu cực trong xã hội.
Hoạt động nghệ thuật chẳng hạn, khi mà một số người có tiền đứng ra
làm "đầu nậu", sẽ đưa các sản phẩm sân khấu, điện ảnh, ca nhạc chạy theo thị
hiếu tầm thường, hạ thấp giá trị nghệ thuật; những cá nhân kinh doanh dịch
vụ văn hóa karaokê, internet, khiêu vũ, băng, đĩa hình v.v… nếu chạy theo
đồng tiền sẽ tác động làm ảnh hưởng đến nhân cách, lối sống của một bộ phận
người dân trong xã hội; hoặc một số các trường hợp kinh doanh dịch vụ, lợi

dụng các di tích lịch sử, di tích văn hóa, thắng cảnh … thành nơi buôn bán,
trục lợi cá nhân, bất chấp lợi ích của cộng đồng, sẽ dẫn đến hạ thấp tầm giá trị
của di tích đó, thắng cảnh đó.
Văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam và sự du nhập văn hóa của nước
ngoài cũng có tính hai mặt. Việc định hướng chính là phát huy mặt tích cực,
ngăn chặn và đẩy lùi mặt tiêu cực. Những nơi thiếu định hướng, thiếu quản lý
chặt chẽ đã làm cho các yếu tố tiêu cực, mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội có
cơ hội để phát triển. Vì vậy, khi mà nền kinh tế thị trường với sự hội nhập
càng phát triển, giao lưu văn hóa càng rộng, thì việc định hướng và quản lý
các hoạt động dịch vụ văn hóa càng phải nghiêm ngặt hơn, cụ thể hơn nhằm
để các hoạt động này đều hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Phát triển hoạt động dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường, nhân
dân sẽ là người được hưởng những gì họ đóng góp và xây dựng, đồng thời sẽ
khẳng định được vai trò chủ thể của mình, có quyền đánh giá, thẩm định các
giá trị nghệ thuật, dịch vụ văn hóa mà trước đây hầu như chỉ dành cho những
nhà chuyên môn và cơ quan chức năng. Nhờ đó, mặt bằng dân trí được nâng
22
lên, tính dân chủ được củng cố, tính phong phú và đa dạng của hoạt động dịch
vụ văn hóa được khuyến khích phát triển.
Cơ chế thị trường với tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh
và cung – cầu đã kích thích tối đa tính năng động và sáng tạo của con người –
chủ thể của quản lý, đồng thời hướng các cơ sở sản xuất kinh doanh quan tâm
đến tính hiệu quả. Do vậy, phải đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng
cao năng suất lao động, đổi mới phương thức quản lý, phát triển kinh tế. Nhân
tố con người ngày nay lại càng có vai trò quan trọng trong toàn bộ đời sống
xã hội. Mặt trái tác động của cơ chế thị trường sẽ bộc lộ nhiều khuyết tật,
không chỉ tác động về mặt kinh tế mà còn tác động đến thị hiếu, nhân cách,
thẩm mỹ, hành vi ứng xử của con người … Chính vì thế, đòi hỏi phải tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh

vực văn hóa, hoạt động dịch vụ văn hóa.
Văn hóa là một hệ thống những giá trị và chuẩn mực xã hội. Nhưng giá
trị không tồn tại siêu hình, mà giá trị chính là nội dung, là bản chất của văn
hóa, bao giờ cũng được khách quan hóa, đối tượng hóa dưới dạng những hình
thức, những hiện tượng, những quan hệ và quá trình xã hội.
Quản lý văn hóa không đơn giản chỉ là công tác tuyên truyền, huấn thị,
mà chính là quản lý những quá trình xã hội nầy. Khoa học quản lý đòi hỏi
phải nhìn nhận những đối tượng quản lý trong sự vận động của nó, phải nắm
bắt được những quy luật của đối tượng vận động và vận động của đối tượng.
Văn hóa ngày nay có ý nghĩa to lớn trong đời sống con người và sự phát
triển của xã hội. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) đã ban hành Nghị quyết về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Nghị quyết đã khẳng định: "Văn hóa
là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội".
Về mặt lý luận, nếu nhận thức đúng đắn và đầy đủ về văn hóa là cả một
quá trình, thì về mặt thực tiễn đời sống xã hội, việc tổ chức quản lý hoạt động
23
văn hóa thực hiện những tư tưởng sâu sắc, những định hướng, quan điểm
trong các nghị quyết của Đảng là cả một vấn đề khó khăn, đó là một cuộc đấu
tranh to lớn và rất phức tạp.
Trong một quá trình về lâu dài, dân tộc ta đã phải tiến hành, trải qua các
cuộc kháng chiến với tính chất quy mô và khốc liệt, vì độc lập dân tộc, vì chủ
nghĩa xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, văn hóa cũng là một mặt trận. Mặt trận
văn hóa hay lĩnh vực văn hóa tư tưởng đều có ta và địch, có cả bạn và thù. Giành
chiến thắng trên mặt trận ấy cũng chính là thắng lợi của những giá trị tinh thần,
nền tảng văn hóa Việt Nam. Trong hoàn cảnh ấy, nội dung cốt lõi của việc nâng
cao dân trí và phát triển văn hóa chính là bồi dưỡng tình yêu nước và giác ngộ lý
tưởng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, văn hóa trước hết là văn hóa chính trị tư tưởng.
1.1.3.2. Do yêu cầu đòi hỏi trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước

Trong tình hình hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới
toàn diện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Quá trình nầy thay đổi một cách căn bản, toàn diện từ cơ chế tập
trung bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; một bộ máy hành chính quan liêu, nhiều tầng
nấc, chuyển sang thành bộ máy của một nhà nước pháp quyền. Và từ đó
những khái niệm "hàng hóa", "sản xuất hàng hóa", "cơ chế thị trường", "các
loại thị trường" … đã được phổ biến trong toàn xã hội.
Thế nhưng một vấn đề đặt ra, nếu trong lĩnh vực kinh tế thì xóa bao cấp,
còn trong lĩnh vực văn hóa thì phải như thế nào? Phát triển kinh tế cũng là để
xây dựng nền tảng vật chất cho xã hội, vậy thì phát triển văn hóa để xây dựng
nền tảng tinh thần cho xã hội cần được tiến hành ra sao? Từ trong thực tế
cuộc sống cho thấy, với quy luật sinh tồn, văn hóa là giao lưu, tiếp diễn, kế
thừa và sáng tạo, không thể có một chế độ nào, một bộ máy công quyền nào
có thể bao cấp toàn bộ về nền tảng văn hóa nói chung, về văn hóa chính trị
24
nói riêng. Bởi lẻ, nền tảng tinh thần của bất kỳ cộng đồng dân tộc nào cũng
được sản sinh và xây dựng trong chính cuộc sống thường ngày của mỗi người
dân, chứ không thể chỉ bằng món ăn ngoại nhập, văn hóa từ nước ngoài vào
hay từ trên xuống. Nền tảng tinh thần ấy chính là bản sắc dân tộc, là diện mạo
đích thực của mỗi dân tộc trên những chặng đường thăng trầm của lịch sử.
Mặt khác, không một giai cấp thống trị nào, một bộ máy nhà nước nào
lại buông lỏng quản lý văn hóa, xa rời văn hóa. Tình trạng buông lỏng, thậm
chí bất lực trong quản lý văn hóa bao giờ cũng là dấu hiệu sự suy yếu của hệ
thống chính trị hoặc của bộ máy quyền lực quốc gia đó.
Đối với nước ta, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, còn rất nhiều vấn đề chúng ta cần phải làm. Xây dựng và
bảo vệ ở đây không chỉ đơn thuần là bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, mà
còn là quá trình bảo vệ Đảng, chính quyền, nhân dân;, bảo vệ công cuộc đổi

mới định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Quan điểm của Đảng ta là xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
hội đủ các yếu tố yêu nước, tiến bộ, giữ gìn và phát huy những giá trị văn
hóa của dân tộc trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Một trong
những tư tưởng chủ đạo của Đảng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cao cả đó
là: "Văn hóa văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội. Phát triển các hoạt động
văn hóa văn nghệ của Nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng
và sự quản lý của Nhà nước, khắc phục tình trạng "hành chính hóa" các tổ
chức văn hóa nghệ thuật, và xu hướng "thương mại hóa" trong lĩnh vực nầy"
(Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng – Khóa VII).
1.1.3.3. Do dịch vụ văn hóa cũng mang tính kinh doanh, vì lợi nhuận
nên dễ cạnh tranh không lành mạnh
Nếu trên lĩnh vực kinh tế – nền tảng vật chất –vai trò quản lý của Nhà
nước vận hành điều tiết theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thì trên lĩnh vực văn hóa – nền tảng tinh thần – có sự khác biệt. Ở đây không
25

×