MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHI NGÂN SÁCH
3
1.1 Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước
3
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi ngân sách nhà nước
3
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm chi NSNN.
3
1.1.1.2 Nội dung chi NSNN.
5
1.1.2 Chi thường xuyên của NSNN.
6
1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của chi thường xuyên.
6
1.1.2.2 Nội dung cơ bản của chi thường xuyên.
8
1.2 Quản lý chi thường xuyên của NSNN
14
1.2.1 Sự cần thiết và các nguyên tắc quản lý chi thường xuyên.
14
1.2.1.1 Sự cần thiết phải quản lý chi thường xuyên.
15
1.2.1.2 Nguyên tắc quản lý chi thường xuyên.
16
1.2.2 Các phương thức quản lý chi thường xuyên.
20
1.2.2.1 Quản lý và cấp phát theo dự toán.
20
1.2.2.2 Quản lý bằng hệ thống định mức chi tiêu.
21
1.2.2.3 Khoán chi.
22
1.2.3 Nội dung quản lý chi thường xuyên.
23
1.2.3.1 Lập dự toán chi thường xuyên.
23
1.2.3.2 Thực hiện dự toán.
25
1.2.3.3 Quyết toán chi thường xuyên.
27
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI THƯỜNG
XUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VĨNH LINH
30
2.1 Khái quát chung về ngân sách huyện Vĩnh Linh
30
2.1.1 Đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội huyện Vĩnh Linh.
30
2.1.1.1 Đặc điểm vị trí địa lý tự nhiên.
30
2.1.1.2 Đặc điểm văn hoá xã hội.
31
2.1.1.3 Đặc điểm kinh tế.
32
2.1.2 Vài nét về Phòng Tài chính Kế hoạch Vĩnh Linh.
33
2.2 Thực trạng chi thường xuyên trên địa bàn huyện Vĩnh Linh
35
2.2.1.1 Chi quản lý hành chính.
40
2.2.1.2 Chi sự nghiệp kinh tế.
43
2.2.1.3 Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo.
47
2.2.1.4 Chi sự nghiệp y tế…………
49
2.2.1.5 Chi sự nghiệp văn hóa xã hội……………………………………
50
2.2.1.6 Chi an ninh quốc phòng…………………………………………
53
2.3 Đánh giá chung về công tác quản lý chi thường xuyên trên địa bàn
huyện Vĩnh Linh
55
2.3.1 Những thành tựu đạt được.
55
2.3.2 Những tồn tại.
56
CHƯƠNG III: NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN
LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VĨNH LINH
60
3.1 Phương hướng nhiệm vụ trong công tác quản lý chi NSNN trong những
năm tới
60
3.1.1 Công tác quản lý chi NSNN và quản lý chi thường xuyên.
60
3.2 Những kiến nghị hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên trên địa
bàn huyện Vĩnh Linh…
63
3.2.1 Thực hiện việc cấp phát theo dự toán được duyệt.
63
3.2.2 Tăng cường quản lý ngân sách kết hợp với tăng cường công tác
thanh kiểm tra
65
3.2.3 Thực hiện xã hội hoá một số ngành nghề.
66
3.2.4 Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho những người làm
công tác tài chính, kiện toàn bộ máy quản lý
68
3.2.5 Một số biện pháp khác.
68
KẾT LUẬN
70
Danh mục tài liệu tham khảo
71
LỜI MỞ ĐẦU
Tài chính công là một lĩnh vực hoạt động của tài chính khu vực công
và gắn liền với chủ thể Nhà nước. Tài chính công trở thành công cụ tài
chính quan trọng để Nhà nước quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc
dân.
Với tầm quan trọng của mình, tài chính công mà cụ thể là các hoạt
động thu chi ngân sách Nhà nước cần phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước. Đặc biệt là đối với công tác quản lý tài chính công ở các địa phương
càng phải cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa của các cấp chính quyền, bởi
đây là một mắt xích quan trọng trong bộ máy quản lý ngân sách Nhà nước.
Chính vì muốn tìm hiểu sâu hơn về tầm quan trọng cũng như thực
trạng quản lý chi ngân sách nói chung và quản lý chi thường xuyên nói
riêng ở cấp địa phương của nước ta, mà cụ thể là ở cấp huyện hiện nay nên
em đã xin về thực tập tại Phòng Tài chính kế hoạch huyện Vĩnh Linh và đã
chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý chi thường xuyên
trên địa bàn huyện Vĩnh Linh”.
Bài viết gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về chi ngân sách.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi thường xuyên trên địa
bàn huyện Vĩnh Linh.
Chương III: Những kiến nghị hoàn thiện công tác quản lý chi
thường xuyên trên địa bàn huyện Vĩnh Linh
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHI NGÂN SÁCH.
1.1 Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước.
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi ngân sách.
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm chi NSNN.
a, Khái niệm chi ngân sách.
Theo luật ngân sách nhà nước (NSNN) thì NSNN là toàn bộ các
khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để đảm bảo các chức
năng nhiệm vụ của nhà nước.
Ngân sách nhà nước ta là một hệ thống thống nhất chặt chẽ bao gồm
ngân sách trung ương (NSTW), ngân sách địa phương (NSĐP) và được
phân cấp quản lý một cách cụ thể theo nguồn thu và nhiệm vụ chi, đảm bảo
được vai trò chủ đạo của NSTW đồng thời phát huy vai trò độc lập của các
NSĐP.
Theo một cách khái quát nhất, chi tiêu công (chi ngân sách) là các
khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành chính, các
đơn vị sự nghiệp được kiểm soát và tài trợ bởi Chính phủ. Như vậy về cơ
bản chi tiêu công thể hiện các khoản chi của ngân sách Chính phủ hàng
năm được Quốc hội thông qua. Chi tiêu công phản ánh giá trị của các loại
hàng hoá mà Chính phủ mua vào để qua đó cung cấp các loại hàng hoá
công cộng cho xã hội nhằm mục tiêu thực hiện các chức năng của Nhà
nước.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển thì hoạt động của
Chính phủ là không mang lại lợi ích cho quốc gia về mặt kinh tế. Cho nên
chi tiêu công là những khoản chi mang tính chất tiêu dùng. Theo đó Chính
phủ chỉ biết lấy đi của cải trong xã hội (dưới hình thức nộp thuế) chứ
không trả lại cho xã hội, vì vậy cần phải hạn chế tối đa mọi khoản chi tiêu
của Chính phủ để tránh lãng phí nguồn lực. Tuy vậy sự phát triển của xã
hội trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại đã cho thấy chi tiêu công
hoàn toàn không mất đi mà ngược lại nó tạo ra sự tái phân phối giữa các
khu vực trong nền kinh tế. Bằng việc chi tiêu công, Chính phủ đã trả lại
cho xã hội những khoản thu nhập mà Chính phủ đã lấy đi từ các khoản nộp
thuế bắt buộc bằng việc cung cấp những hàng hoá công cộng cần thiết mà
khu vực tư nhân không có khả năng cung cấp hoặc cung cấp không có hiệu
quả. Với cơ chế này Chính phủ đã thực hiện tái phân phối thu nhập của xã
hội công bằng hơn, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm
bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
b, Đặc điểm của chi NSNN.
- Chi NSNN luôn gắn chặt với những chức năng, nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước mà Chính phủ phải đảm nhận trước
mỗi quốc gia. Các khoản chi NSNN do chính quyền nhà nước các cấp đảm
nhận theo nội dung đã được quy định trong phân cấp quản lý NSNN và các
khoản chi tiêu này nhằm đảm bảo cho các cấp chính quyền thực hiện chức
năng quản lý phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Mức
độ phạm vi chi tiêu NSNN phụ thuộc vào tính chất nhiệm vụ của nhà nước
trong mỗi thời kỳ.
- Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN thường được thể
hiện, phát huy vai trò ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả
kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội, chính trị và ngoại giao. Do đó
trong công tác quản lý tài chính một yêu cầu cần đặt ra là: khi phân tích
đánh giá phải đứng trên lợi ích của toàn xã hội đồng thời cần sử dụng tổng
hợp nhiều loại chỉ tiêu đánh giá khác nhau (định tính và định lượng) để
đánh giá tính hiệu quả của các khoản chi tiêu NSNN.
- Các khoản chi NSNN phần lớn là các khoản cấp phát không
hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Điều này được quyết định bởi
những chức năng tổng hợp về kinh tế xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy,
các nhà quản lý tài chính cần phải có sự phân tích, tính toán cẩn thận trên
nhiều khía cạnh, thẩm định các phương án chi tiêu của Nhà nước trước khi
đưa ra các quyết định chi tiêu nhằm tránh được những thất thoát, lãng phí
không cần thiết và nâng cao hiệu quả chi tiêu NSNN. Chi tiêu NSNN nhằm
phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng dân cư ở các vùng hay ở phạm vi
quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế xã
hội của Nhà nước và cũng chính trong quá trình thực hiện chức năng đó
Nhà nước đã cung cấp một lượng hàng hoá công khổng lồ cho nền kinh tế.
Dựa theo tính chất kinh tế, nội dung chi tiêu NSNN được phân ra gồm có
chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Chi đầu tư phát triển là tất cả các
khoản chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia, nó không mang tính thường
xuyên và thường phát huy tác dụng sau một khoảng thời gian dài, bao gồm:
chi mua sắm máy móc, thiết bị dụng cụ; chi xây dựng mới và tu bổ công
sở, đường sá, kiến thiết đô thị; chi cho việc thành lập các doanh nghiệp nhà
nuớc… Chi thường xuyên là những khoản chi không có trong khu vực đầu
tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan
nhà nước, bao gồm: chi cho hoạt động sự nghiệp, giáo dục đào tạo, văn hoá
xã hội, y tế, quốc phòng an ninh, chi cho hoạt động của các cơ quan nhà
nước…
1.1.1.2 Nội dung chi NSNN.
Chi NSNN bao gồm có 2 nội dung, đó là chi thường xuyên và chi đầu
tư phát triển.
Chi thường xuyên là nhóm chi phát sinh thường xuyên, cần thiết cho
hoạt động của các đơn vị khu vực công và bao gồm các khoản chi như sau:
- Chi hoạt động sự nghiệp: sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo,
nghiên cứu khoa học và công nghệ, y tế, văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể
thao.
- Chi hành chính: bao gồm các khoản chi lương cho đội ngũ công chức
Nhà nước, các khoản chi hàng hoá để đáp ứng nhu cầu hoạt động của bộ
máy Nhà nước.
- Chi chuyển giao: bao gồm các khoản chi cứu tế xã hội, an sinh xã
hội, bảo hiểm xã hội, các khoản trợ cấp.
- Chi an ninh, quốc phòng.
Chi đầu tư phát triển là nhóm chi gắn liền với chức năng kinh tế của
Nhà nước. Bao gồm các khoản chi sau:
- Chi xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, ưu
tiên cho những công trình không có khả năng thu hồi vốn.
- Đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có
sự tham gia quản lý và điều tiết của Nhà nước.
- Chi hỗ trợ cho các quỹ hỗ trợ tài chính của Chính phủ.
- Chi dự trữ Nhà nước.
1.1.2 Chi thường xuyên của NSNN.
1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của chi thường xuyên.
a, Khái niệm chi thường xuyên.
Chi thường xuyên là một bộ phận của chi NSNN. Nó phản ánh quá
trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN để thực hiện các nhiệm vụ thường
xuyên về quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Xét về tính chất kinh tế, chi
thường xuyên của NSNN bao gồm các khoản chi lương, phụ cấp lương, chi
hàng hoá và dịch vụ phát sinh thường xuyên của Nhà nước. Trong cân đối
ngân sách, các khoản chi thường xuyên được tài trợ bằng những khoản thu
mang tính thường xuyên như thuế, phí, lệ phí. Cùng với quá trình phát triển
kinh tế xã hội, các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước ngày càng gia
tăng, do đó đã làm phong phú nội dung chi thường xuyên của NSNN. Căn
cứ vào chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, chi thường xuyên của NSNN
bao gồm các khoản chi cho những lĩnh vực như: chi cho sự nghiệp kinh tế,
chi cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo, chi quản lý hành chính, chi sự nghiệp
văn hoá xã hội, chi an ninh quốc phòng.
b, Đặc điểm của chi thường xuyên.
- Chi thường xuyên là những khoản chi mang tính liên tục.
Xuất phát từ sự tồn tại của bộ máy Nhà nước, từ việc thực hiện các chức
năng nhiệm vụ kinh tế xã hội đã làm nảy sinh các khoản chi thường xuyên
và đòi hỏi phải tạo lập nguồn lực tài chính thường xuyên để trang trải các
khoản chi này. Trong quá trình cân đối NSNN thì nguồn tài chính thích hợp
nhất để trang trải nhu cầu chi thường xuyên là nguồn thu từ thuế, phí, lệ
phí.
- Chi thường xuyên mang tính chất tiêu dùng. Các khoản chi
thường xuyên chủ yếu nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành
chính nhà nước, về quốc phòng an ninh, về các hoạt động sự nghiệp và các
hoạt động xã hội khác do Nhà nước tổ chức. Xét về mặt tiêu hao vật chất,
chi thường xuyên của Nhà nước được xếp vào loại chi tiêu tiêu dùng, song
xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế thì chi thường xuyên của Nhà nước
có ý nghĩa đầu tư tích luỹ bởi vì trong chi thường xuyên nhóm chi cho sự
nghiệp giáo dục, y tế, khoa học công nghệ đóng góp trực tiếp vào phát triển
con người, phát triển kinh tế. Ngày nay những hoạt động này được coi là
lực lượng sản xuất trực tiếp góp phần vào nâng cao năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế.
- Phạm vi, mức độ chi thường xuyên phụ thuộc vào cơ cấu tổ
chức của bộ máy Nhà nước và quy mô cung ứng các hàng hoá công cộng
của Nhà nước. Chi thường xuyên hướng vào đảm bảo hoạt động bình
thường của bộ máy Nhà nước, cho nên nếu bộ máy Nhà nước gọn nhẹ hoạt
động có hiệu quả thì quy mô chi thường xuyên giảm và ngược lại… Bên
cạnh đó, những quyết định của Nhà nước trong việc lựa chọn phạm vi và
mức độ cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến phạm vi và mức độ chi thường xuyên. Trong nền kinh tế thị
trường như hiện nay, Nhà nước không đảm trách mọi công việc của xã hội.
Với việc thực hiện chính sách xã hội, Nhà nước đã điều chỉnh lại quy mô
chi thường xuyên đối với các lĩnh vực này nhằm hướng vào xác lập lại quy
mô khu vực công, phạm vi can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế cho phù
hợp với năng lực quản lý và mức độ chi tiêu công.
1.1.2.2 Nội dung cơ bản của chi thường xuyên.
Chi thường xuyên của Nhà nước liên quan đến nhiều lĩnh vực, có thể
khái quát một số lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn như: chi quản lý hành chính,
chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp giáo dục đào tạo, chi sự nghiệp văn hoá
xã hội, chi sự nghiệp y tế, chi an ninh quốc phòng.
a, Chi quản lý hành chính.
Chi quản lý hành chính là những chi phí liên quan đến sự điều hành và
duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ
được giao phó.
Về phạm vi, chi quản lý hành chính cho những lĩnh vực sau:
Chi cho các cơ quan quyền lực Nhà nước như: Quốc hội, HĐND các
cấp ở địa phương.
Chi cho cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát từ trung ương đến địa phương.
Chi cho các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế xã hội như các Bộ và
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ở trung ương, chi cho các sở
và các cơ quan cùng cấp ở tỉnh, thành phố thuộc trung ương, tương tự đối
với cấp quận huyện, xã phường.
Chi hỗ trợ hoạt động cho các cơ quan từ trung ương đến địa phương
thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, hỗ trợ cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp…
Về cơ cấu, nội dung chi hành chính bao gồm:
Chi thanh toán cho cá nhân: gồm các mục chi về tiền lương; phụ cấp
lương theo chế độ hiện hành; tiền thưởng; chi về phúc lợi tập thể như: chi
trợ cấp khó khăn, chi thanh toán tiền tàu xe nghỉ phép; chi các khoản trích
theo chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn; các
khoản chi khác như: trang phục, sinh hoạt phí cho cán bộ xã, thôn, bản…
Chi cho công việc hành chính, gồm các mục chi về điện, nước, nhiên
liệu, văn phòng phẩm, cước phí điện thoại, bưu điện; công tác phí như: tiền
vé tàu xe, tiền thuê phòng ngủ, phụ cấp công tác phí; hội nghị phí như: tiền
ăn, tiền in ấn tài liệu, chi đoàn ra đoàn vào; các khoản chi khác như: sách
báo, nước uống, vệ sinh, vận chuyển.
Các khoản chi khác không thường xuyên.
b, Chi sự nghiệp kinh tế.
Về phạm vi, chi sự nghiệp kinh tế bao gồm:
Chi sự nghiệp nông lâm ngư nghiệp, bao gồm các khoản chi cho các
đơn vị thực hiện nhiệm vụ điều tra, khảo sát và bảo vệ rừng; nghiên cứu thí
nghiệm giống cây trồng, gia súc, gia cầm, thuỷ sản; chi cho công tác
khuyến nông khuyến ngư; bảo vệ thực vật; chi cho các vườn quốc gia…
Chi sự nghiệp địa chất, phục vụ cho các hoạt động điều tra, khảo sát,
thăm dò địa chất, tài nguyên.
Chi sự nghiệp thuỷ lợi, thuỷ văn: gồm các khoản chi cho quản lý, nạo
vét, tu sửa các công trình thuỷ lợi: đê điều, hồ, đập, kênh mương…; chi cho
các đài khí tượng thuỷ văn.
Chi sự nghiệp kiến thiết thị chính: chi cho hoạt động duy tu, bảo
dưỡng, sửa chữa hệ thống đèn chiếu sáng, vỉa hè, hệ thống thoát nước, giao
thông nội thị, vườn hoa, công viên, cây xanh, vệ sinh môi trường…
Chi sự nghiệp giao thông: chi sự nghiệp giao thông nhằm đảm bảo
kinh phí cho công tác quản lý duy tu, sửa chữa hệ thống cầu đường, lắp đặt
biển báo giao thông, nạo vét đường sông, chi cho hoạt động của các bến
phà, đò…
Chi sự nghiệp kinh tế khác như: chi cho công tác điều tra cơ bản, chi
đo đạc cắm móc biên giới, chi cho công tác định canh, định cư…
Về nội dung, chi sự nghiệp kinh tế bao gồm các khoản chi thanh
toán cho cá nhân, chi cho công việc hành chính, chi không thường xuyên,
chi về nghiệp vụ chuyên môn. Chi về nghiệp vụ chuyên môn phản ánh các
khoản chi gắn với hoạt động nghiệp vụ cụ thể của đơn vị như: chi về vật
liệu, nhiên liệu, đá cát… để sửa chữa đường, vỉa hè ở đơn vị sự nghiệp giao
thông; chi về hạt giống, đất, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để nghiên cứu
thí nghiệm giống cây trồng ở đơn vị sự nghiệp nông nghiệp.
c, Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo góp phần tạo nên nguồn nhân lực, có
vai trò rất quan trọng cho công cuộc phát triển nền kinh tế. Do đó khoản chi
này còn mang ý nghĩa đầu tư phát triển. Đặc biệt trong bối cảnh xã hội hoá
giáo dục như hiện nay thì chi giáo dục đào tạo từ NSNN càng trở nên quan
trọng, góp phần hình thành những cơ sở giáo dục đào tạo trọng điểm,
ngang tầm khu vực và thế giới.
Về phạm vi, chi sự nghiệp giáo dục đào tạo bao gồm:
Chi cho các cơ sở giáo dục đào tạo do Nhà nước thành lập (công lập,
bán công) ở các cấp học từ trung ương đến địa phương như: chi cho nhà
trẻ, mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học, trên đại học…
Chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục đào tạo như:
giáo dục hướng nghiệp trong các trường phổ thông, dự án đổi mới chương
trình, nội dung sách giáo khoa, dự án đào tạo cán bộ tin học và đưa tin học
vào nhà trường, dự án tăng cường cơ sở vật chất cho trường học…
Các khoản chi khác về giáo dục như: chi cho các hoạt động phục vụ
giáo dục, chi cho công tác xoá mù chữ, bổ túc văn hoá…
Về nội dung, trước hết chi giáo dục đào tạo bao gồm ba nhóm
chi tương tự như chi hành chính, chi thanh toán cho cá nhân, chi cho công
việc hành chính, chi không thường xuyên. Chi thanh toán cho cá nhân ở
các cơ sở giáo dục đào tạo còn bao gồm khoản chi học bổng cho học sinh,
sinh viên; sinh hoạt phí cho cán bộ đi học theo chế độ hiện hành; chi về
nghiệp vụ chuyên môn gồm các mục chi gắn với hoạt động giảng dạy và
học tập như: chi cho công tác biên soạn giáo trình, tài liệu phục vụ giảng
dạy học tập; chi phí thực tập cho học sinh sinh viên; chi mua sắm thiết bị
phục vụ giảng dạy; thanh toán tiền vượt giờ; thanh toán thù lao cho giáo
viên, chuyên gia bên ngoài; chi đào tạo bồi dưỡng giáo viên; chi cho công
tác thi, kiểm tra.
d, Chi sự nghiệp văn hoá xã hội.
Về phạm vi, chi sự nghiệp văn xã bao gồm;
Chi cho các hoạt động văn hoá nghệ thuật như: chi cho hoạt động của
các đoàn nghệ thuật ca múa nhạc, giao hưởng… do Nhà nước thành lập.
Chi cho hoạt động thể dục thể thao như: chi cho các câu lạc bộ, nhà thi
đấu, chi tổ chức hoạt động thi đấu các môn thể thao trong nước hay quốc
tế, chi cho các đại hội thể dục thể thao…
Chi cho hoạt động thông tấn, phát thanh, truyền thanh, truyền hình từ
trung ương đến địa phương.
Chi sự nghiệp xã hội: chi cho các cơ sở chăm sóc trẻ em mồ côi, người
già; chi cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội; chi cứu trợ thiên
tai hỏa hoạn…
Chi thực hiện các chương trình, dự án quốc gia như: dự án chống
xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử, cách mạng và kháng chiến; dự án
nghiên cứu, điều tra và bảo tồn giá trị văn hoá phi vật thể…
Chi sự nghiệp văn hoá xã hội, ngoài các khoản chi nêu trên còn có
những khoản chi khác như: chi cho công tác bảo tồn, bảo tàng; chi khai
quật di tích lịch sử; chi cho hệ thống thư viện, triển lãm.
Về nội dung, chi sự nghiệp văn hoá xã hội bao gồm các mục chi
cho bộ máy: chi thanh toán cho cá nhân, chi cho công việc hành chính và
chi không thường xuyên. Chi sự nghiệp văn hoá xã hội, tuỳ vào hoạt động
cụ thể của đơn vị còn có chi về nghiệp vụ chuyên môn. Chẳng hạn như chi
nghiệp vụ chuyên môn ở các đơn vị biểu diễn nghệ thuật gồm các khoản
chi như đạo cụ, phong màn, trang phục phục vụ biểu diễn; chi bồi dưỡng
diễn viên, bộ phận hậu đài trong tập luyện và biểu diễn, trả tiền nhuận bút;
chi phí về giới thiệu chương trình biểu diễn.
e, Chi sự nghiệp y tế.
Về phạm vi, chi sự nghiệp y tế bao gồm:
Chi cho công tác khám chữa bệnh: chi cho các bệnh viện, phòng khám
bệnh từ trung ương đến địa phương. Đây là khoản chi chủ yếu và quan
trọng của ngân sách về y tế.
Chi cho công tác phòng bệnh, điều dưỡng sức khoẻ, phục hồi chức
năng: chi cho các đơn vị y tế dự phòng, viện điều dưỡng, trung tâm bảo vệ
và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, các trung tâm kiểm định vacxin và
sinh phẩm, trung tâm phục hồi chức năng…
Chi cho các chương trình, dự án quốc gia về y tế, chương trình quốc
gia dân số kế hoạch hoá gia đình, dự án tiêm chủng mở rộng, dự án phòng
chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống bệnh bướu cổ, bệnh lao…
Về nội dung, chi cho đơn vị sự nghiệp y tế cũng giống như đơn
vị sự nghiệp văn hoá xã hội, trước hết cũng bao gồm các khoản chi cho bộ
máy: chi thanh toán cho cá nhân, chi cho công việc hành chính, chi không
thường xuyên. Chi về nghiệp vụ chuyên môn gắn với nghiệp vụ cụ thể của
đơn vị, gắn với nhiệm vụ khám, chữa bệnh hay điều dưỡng.
f, Chi an ninh quốc phòng.
Quốc phòng và an ninh thuộc vào lĩnh vực tiêu dùng xã hội. Đây là
những hoạt động bảo đảm sự tồn tại của Nhà nước và cần thiết phải cấp
phát tài chính cho các nhu cầu về quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã
hội từ NSNN. Căn cứ theo mục đích sử dụng, khoản chi tài chính này được
phân thành hai bộ phận cơ bản. Bộ phận thứ nhất gồm các khoản chi cho
quốc phòng để phòng thủ và bảo vệ Nhà nước chống sự xâm lược và đe
dọa từ nước ngoài. Bộ phận thứ hai gồm các khoản chi được hướng vào
bảo vệ và giữ gìn chế độ xã hội, an ninh của dân cư trong nước.
Về nội dung, chi quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội
được hợp thành bởi:
Chi đảm bảo đời sống vật chất tinh thần, chính sách cho toàn quân và
lực lượng công an nhân dân.
Chi về đào tạo huấn luyện, nghiên cứu khoa học.
Chi mua sắm trang thiết bị, vũ khí và các phương tiện quân sự cho
toàn quân và lực lượng công an nhân dân.
Xây dựng mới, sửa chữa các công trình đặc biệt, các công trình chiến
đấu, doanh trại, trụ sở làm việc, kho tàng của cơ quan quân sự từ cấp huyện
trở lên.
Xây dựng phương án phòng thủ khu vực.
Huấn luyện dân quân tự vệ.
Phòng cháy chữa cháy.
Quản lý cải tạo phạm nhân.
Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Chi quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội phải căn cứ vào tình
hình thực tế của đất nước. Hằng năm Nhà nước phải dành ra một phần kinh
phí đáng kể của NSNN để duy trì, củng cố lực lượng quốc phòng an ninh.
Tuy nhiên nếu khoản chi quốc phòng an ninh mà quá lớn trong khi nền
kinh tế chậm phát triển thì sẽ dẫn đến hạn chế phát triển sản xuất, tốc độ
tăng trưởng kinh tế chậm, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Do
đó bố trí ngân sách quốc phòng an ninh một mặt phải đảm bảo những chi
phí cần thiết cho phòng thủ và giữ gìn an ninh của đất nước và trên cơ sở
đó ổn định được về kinh tế xã hội, mặt khác phải thực hiện yêu cầu tiết
kiệm, hiệu quả trong chi tiêu.
1.2 Quản lý chi thường xuyên của NSNN.
1.2.1 Sự cần thiết và các nguyên tắc quản lý chi thường xuyên.
1.2.1.1 Sự cần thiết phải quản lý chi thường xuyên.
Trong quản lý chi NSNN nói riêng cũng như quản lý kinh tế tài chính
nói chung thì tính tiết kiệm hiệu quả luôn được coi trọng và đặt lên hàng
đầu, đó cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng trong quản lý chi
NSNN.
Đối với nước ta hiện nay, nguồn lực tài chính là có giới hạn nhất định
nhưng nhu cầu chi tiêu thì vô hạn, từ thực tế đó đòi hỏi các nhà quản lý
kinh tế tài chính phải làm sao với một nguồn lực nhỏ nhưng đạt kết quả cao
nhất, có thể mang lại hiệu quả cao nhất cho mỗi đồng vốn. Nâng cao hiệu
quả của các khoản chi thường xuyên sẽ làm giảm chi NSNN cho chi
thường xuyên, từ đó tập trung nguồn lực, tạo điều kiện đầu tư nhiều hơn
vào chi đầu tư phát triển.
Thực tiễn ở nước ta hiện nay công tác quản lý chi NSNN còn có nhiều
điểm chưa hợp lý như trong quá trình lập dự toán, chấp hành và quyết toán
NSNN chưa sát với thực tế, dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát vốn hoặc
chi tiêu không hiệu quả. Thêm vào đó các đơn vị, các cơ quan ban ngành
thường coi NSNN như một quỹ chung - tiền chùa nên tìm cách nhận được
nhiều kinh phí để sau đó là tiêu pha thoải mái gây lãng phí một phần không
nhỏ NSNN. Mặt khác, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát còn thiếu chặt
chẽ, năng lực quản lý còn hạn chế nên dễ dẫn đến sai phạm, buông lỏng
quản lý gây thất thoát NSNN.
Một thực trạng nữa đang diễn ra hiện nay là trong quá trình phân bổ
NSNN còn dàn trải, chưa đúng với chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan,
đơn vị dẫn đến tình trạng nơi có hiệu quả hoạt động tốt thì thiếu kinh phí
còn nơi thì thừa kinh phí nhưng hoạt động lại kém hiệu quả.
Như vậy chi NSNN nói chung mà cụ thể là chi thường xuyên hiện nay
chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan, đơn vị nên làm cho
hiệu quả hoạt động chưa cao. Do đó việc nâng cao hiệu quả chi thường
xuyên là một việc làm thiết thực, là bước đệm cần thiết để phát triển kinh tế
xã hội của đất nước, và đó cũng là một câu hỏi lớn cho các nhà quản lý
kinh tế.
1.2.1.2. Nguyên tắc quản lý chi thường xuyên.
Chi thường xuyên là một bộ phận của chi NSNN, chính vì vậy cho nên
trong quá trình tổ chức quản lý chi thường xuyên cũng phải dựa trên cơ sở
các nguyên tắc quản lý của chi tiêu NSNN nhằm nâng cao hiệu quả, tiết
kiệm cho chi thường xuyên nói riêng và chi NSNN nói chung trong thực
trạng NSNN ta hiện nay còn eo hẹp và còn có nhiều nhiệm vụ phải giải
quyết.
Nguyên tắc quản lý theo dự toán.
Lập dự toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu quan trọng nhất cho toàn
bộ chu trình NSNN, nó quyết định số lượng, chất lượng phân bổ và sử
dụng nguồn lực tài chính.
Lập dự toán đồng thời cũng là căn cứ quan trọng cho việc quản lý và
kiểm soát chi thường xuyên phát sinh hằng năm. Hay nói cách khác, quản
lý theo dự toán đối với chi thường xuyên là cơ sở để đảm bảo cân đối
NSNN, tạo điều kiện cho việc chấp hành NSNN, hạn chế tính tuỳ tiện của
các đơn vị trong quá trình sử dụng NSNN. Tuy vậy, điều quan trọng ở đây
là cần phải nâng cao chất lượng lập và xét duyệt dự toán trên cơ sở bố trí
NSNN sát đúng với thực tế nhiệm vụ của từng đối tượng, từng loại hình
hoạt động.
Dự toán chi sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì có giá trị
như là chỉ tiêu pháp lệnh. Các ngành, các cấp, các đơn vị phải có trách
nhiệm chấp hành các chỉ tiêu chi thường xuyên đã được duyệt. Trong
trường hợp khi dự toán NSNN và phương án phân bổ NSNN chưa được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định hoặc phải điều chỉnh dự toán
NSNN theo quy định thì cơ quan tài chính và kho bạc Nhà nước thực hiện
tạm cấp kinh phí NSNN cho các nhiệm vụ chi được quy định trong các văn
bản pháp lý.
Nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm.
Tiết kiệm, hiệu quả là nguyên tắc quan trọng trong quản lý kinh tế tài
chính nói chung và quản lý chi NSNN nói riêng trong đó có chi thường
xuyên. Tính hiệu quả trong quản lý chi thường xuyên được biểu hiện:
- Đối với một nền kinh tế, nguồn lực tài chính là có giới hạn
nhất định, cho nên trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực cần phải
tính toán để sao cho đạt được những mục đích đề ra.
- Tính hiệu quả đòi hỏi các đơn vị sử dụng NSNN phải cung
cấp hàng hoá và dịch vụ công cho xã hội với mức chi phí hợp lý nhất. Để
có được tính hiệu quả yêu cầu các đơn vị phải sử dụng nguồn lực một cách
tiết kiệm. Những quy định truyền thống về quản lý NSNN theo yếu tố đầu
vào (hay còn gọi là quản lý NSNN theo mục) đã tạo ra tiền lệ cho người
quản lý tìm mọi cách chi tiêu hết tất cả nguồn lực sẵn có, thậm chí việc chi
tiêu đó làm giảm đi hiệu quả phân bổ nguồn lực tài chính. Họ cho rằng nếu
không chi tiêu hết ngân sách năm nay thì họ sẽ bị cắt giảm hoặc được phân
bổ nguồn lực ít hơn trong những năm tiếp theo. Hơn thế nữa, những người
quản lý hoạt động trong một môi trường bị kiểm soát hết sức cứng nhắc.
Những công cụ truyền thống để thực hiện kiểm soát là định mức và khoản
mục hoá các khoản chi tiêu, mua sắm các khoản mục đầu vào. Thế nhưng
chính sự kiểm soát đầu vào đã gây ra tính kém hiệu quả trong hoạt động
bởi vì nó không khuyến khích tiết kiệm, không tạo ra mối gắn kết giữa khối
lượng chi tiêu với khối lượng đầu ra. Thêm vào đó, những hoạt động của
người quản lý chủ yếu được đánh giá dựa trên tính tuân thủ, chấp hành
những luật lệ quy định mang tính thủ tục hành chính chứ không đánh giá
dựa trên kết quả mà họ tạo ra.
Từ hạn chế trên, để nâng cao tính hiệu quả trong quản lý chi thường
xuyên đòi hỏi:
- Người quản lý được trao quyền tự chủ trong việc điều hành
hoạt động của họ, nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của họ về kết quả.
- Người quản lý có đủ năng lực và chủ động đề ra những giải
pháp làm giảm chi phí hoạt động và nâng cao khối lượng hoặc chất lượng
đầu ra cung cấp cho xã hội.
- Tạo ra những đòn bẩy kinh tế khuyến khích người quản lý
cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động.
Nguyên tắc đảm bảo sự tự chủ về tài chính của đơn vị sử dụng
NSNN .
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả như đã
được đề cập ở trên. Có thể khái quát những nội dung cơ bản của nguyên tắc
này như sau:
- Các đơn vị chủ động xây dựng dự toán chi hợp lý, phù hợp
với nhu cầu chi và nhiệm vụ hoạt động của đơn vị.
- Trên cơ sở dự toán được duyệt, các đơn vị chủ động phân bổ
và sử dụng kinh phí theo nhu cầu thực tế của đơn vị mình.
Đối với những đơn vị sự nghiệp có thu, tuỳ vào mức độ đảm bảo nhu
cầu chi, các cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định giao quyền tự chủ về tài
chính cho đơn vị. Theo đó đơn vị được để lại nguồn thu khai thác được và
chủ động sử dụng để phục vụ cho hoạt động của đơn vị.
Đối với các đơn vị hành chính thực hiện khoán chi và đơn vị sự nghiệp
có thu được giao quyền tự chủ tài chính, đơn vị chủ động xây dựng quy chế
chi tiêu nội bộ theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền và áp dụng quy
chế trong việc sử dụng kinh phí, nguồn thu của mình. Số tiết kiệm chi so
với mức khoán hay số tăng thu trong năm đơn vị được sử dụng theo đúng
quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Đối với đơn vị hành chính không khoán chi trong phạm vi nhóm chi
được cơ quan tài chính thông báo đơn vị chủ động sử dụng và điều hoà cho
nhiều mục chi của nhóm, đảm bảo nhu cầu chi cụ thể của từng mục chi
nhưng không ảnh hưởng đến tổng số nhóm chi đã được thông báo.
Nguyên tắc chi trả trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước.
Nguyên tắc này khẳng định hai nội dung: KBNN là cơ quan tài chính
được Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý về quỹ NSNN do vậy có nhiệm vụ
trực tiếp thanh toán mọi khoản chi NSNN; mặt khác KBNN có nhiệm vụ
kiểm soát mọi khoản chi NSNN và có quyền từ chối thanh toán đối với các
khoản chi sai chế độ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Các
khoản chi NSNN phải được thanh toán trực tiếp đến đúng đối tượng thụ
hưởng, hạn chế tối đa thanh toán qua các trung gian. KBNN chỉ thực hiện
chi trả, thanh toán các khoản chi NSNN khi có đủ các điều kiện: đã có
trong dự toán chi NSNN được duyệt; đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi ngân sách do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định; đã được cơ
quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người được uỷ
quyền quyết định chi; có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này yêu cầu:
- Các đơn vị dự toán mở tài khoản tại KBNN để thực hiện các
giao dịch của mình, chịu sự kiểm tra của KBNN trong quá trình sử dụng
kinh phí do NSNN cấp phát, sử dụng nguồn thu sự nghiệp của đơn vị, kể cả
quá trình lập dự toán và quyết toán của đơn vị.
- Cơ quan tài chính chịu trách nhiệm thẩm tra dự toán thu, chi
của đơn vị, sau đó thông báo kết quả thẩm tra dự toán đến KBNN. Căn cứ
vào thông báo và yêu cầu chi trả, thanh toán, KBNN thực hiện kiểm tra các
hồ sơ chứng từ của đơn vị và thực hiện chi trả thanh toán các khoản chi
theo nguyên tắc chi trả trực tiếp cho người thụ hưởng khoản chi.
- Ngoài ra theo quy định hiện hành, KBNN có trách nhiệm
tạm dừng thanh toán một số khoản chi về mua sắm sửa chữa theo yêu cầu
(bằng văn bản) của cơ quan tài chính, nhưng không ảnh hưởng đến việc
thực hiện nhiệm vụ hoạt động chính của đơn vị. Đây là trường hợp nhu cầu
chi vượt quá khả năng thu, huy động và vay tạm thời của NSNN.
1.2.2 Các phương thức quản lý chi thường xuyên.
1.2.2.1 Quản lý và cấp phát theo dự toán.
Theo hướng dẫn của cơ quan tài chính và cơ quan quản lý cấp trên,
đơn vị dự toán phải tổ chức lập dự toán chi trong năm. Dự toán sau đó
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, được thẩm tra và thông báo từ cơ
quan tài chính. Có thể xem số thông báo này là mức kinh phí được sử dụng
trong năm của đơn vị. Trong quá trình thực hiện dự toán chi, khi có nhu
cầu chi phù hợp với dự toán được giao đơn vị phải lập đầy đủ các hồ sơ
chứng từ để được Kho bạc nhà nước xem xét và thực hiện nhu cầu thanh
toán, chi trả.
Như vậy khi nào Kho bạc nhà nước thực hiện chi trả, thanh toán cho
đơn vị, khi đó NSNN mới thực sự cấp phát kinh phí cho đơn vị, số chi trả,
thanh toán phải phù hợp với dự toán. Phương pháp quản lý và cấp phát theo
dự toán đảm bảo cho kinh phí của NSNN không bị ứ đọng tại các đơn vị sử
dụng NSNN nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu chi tiêu theo đúng tiến độ
thực hiện nhiệm vụ hoạt động của đơn vị. Mặt khác đảm bảo được yêu cầu
sử dụng kinh phí đúng mục đích và tiết kiệm đối với chi thường xuyên.
1.2.2.2 Quản lý bằng hệ thống định mức chi tiêu.
Để phục vụ cho việc xây dựng dự toán thu chi đồng thời đảm bảo yêu
cầu tiết kiệm hiệu quả, quản lý chi thường xuyên cần phải sử dụng hệ thống
các định mức chi tiêu. Định mức chi tiêu là căn cứ để phân bổ và sử dụng
nguồn lực tài chính công.
Có thể khái quát hệ thống các định mức chi tiêu áp dụng tại các đơn vị
sử dụng NSNN như sau:
• Căn cứ vào mức độ, có 2 loại định mức:
- Định mức chi tổng hợp.
Loại định mức này biểu hiện như là định mức khoán kinh phí hành
chính tính trên mỗi biên chế; định mức chi tổng hợp cho một giường bệnh;
định mức chi tổng hợp cho một học sinh; định mức chi cho số km đường
duy tu, bảo dưỡng… Định mức chi tổng hợp được cơ quan tài chính sử
dụng để xây dựng dự toán một cách khái quát theo lĩnh vực chi để hướng
dẫn đơn vị sử dụng NSNN lập dự toán trên phạm vi định mức. Về phía đơn
vị, định mức chi tổng hợp xem như mức chi tối đa của NSNN cho các mục
chi có trong định mức tổng hợp.
- Định mức chi cho từng mục chi.
Loại định mức này biểu hiện như chế độ tiền lương, phụ cấp lương,
chế độ chi tiêu hội nghị, định mức thanh toán tiền cước phí điện thoại công
vụ, định mức sử dụng văn phòng phẩm… Loại định mức này khá đa dạng
do chi thường xuyên gồm nhiều lĩnh vực khác nhau và nhu cầu chi cụ thể
của đơn vị gồm nhiều mục chi.
Định mức chi cho từng mục chi vừa là căn cứ để lập dự toán vừa là
căn cứ để thực hiện dự toán: chi trả, thanh toán. Mặt khác còn là căn cứ để
phân tích đánh giá tình hình sử dụng kinh phí của NSNN tại đơn vị.