Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

CHUYÊN ĐỀ CON CÒ CHẾ LAN VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.18 KB, 8 trang )

CHUYÊN ĐỀ CON CÒ
(Chế Lan Viên)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan,
quê ở Cam Lộ − Quảng Trị. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên
đã nổi tiếng trong phong trào Thơ mới qua tập Điêu tàn. Chế Lan Viên
đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của văn học kháng
chiến, ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam
thế kỷ XX.
"17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế Lan Viên đã làm nên "một niềm
tin kinh dị" trên thi đàn Việt Nam đầu thế kỷ.Bộc lộ bằng một cảm xúc
khác thường, quay lưng lại với thực tại hiện hữu: "Hãy cho tôi một tinh
cầu giá lạnh, một vì sao tro trọi cuối trời xa, Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn
tránh - Những ưu phiền đau khổ với buồn lo. Chế Lan Viên tìm về quá
khứ của dân tộc Chăm cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình về hiện
thực của dân tộc. Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên
giao thoa trên những nỗi buồn, giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại của
chính mình. Khi những quan điểm của Điêu tàn đến Vàng sao đã không
còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ còn một cách lựa
chọn là hướng cảm xúc của chủ thể sáng tạo vào yêu cầu mới, Chế Lan
Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo sau Cách mạng tháng Tám
1945.
Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống Pháp, Chế
Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiện thực cách mạng. Nhưng ở đây,
con người công dân và con người nghệ sĩ vẫn chưa gặp nhau, bản sắc thi
sĩ chưa kịp định hình. Chỉ đến ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên mới
thực sự từ " thung lũng đau thương đến cánh đồng vui", làm nên một
gương mặt thi nhân tài hoa và độc đáo trong nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Từ đây cho đến những bài thơ cuối đời, cái tôi trữ tình trong thơ
Chế Lan Viên luôn vận động và phát triển, thống nhất trong đa dạng.


Thơ Chế Lan Viên đã tạo được một sức mạnh ám ảnh đối với người đọc
trên cả hai phương diện cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cách
mạng, phục vụ cuộc sống bằng thi ca, thơ Chế Lan Viên đã muốn là
tiếng nói thi ca lịch sử đất nước trong thời đại mới. Trong những cảm
hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả Chim báo bão, có cả hoa ngày thường,
có đối thoại mới lẫn độc thoại với chính mình.
Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt
Nam. Ông đã làm một cuộc cách mạng về câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay
vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câu thơ
dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối lập, nhằm biểu đạt ý
tưởng lớn của cả bài. Thơ Chế Lan Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng
ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở chiều sâu, ở tầm triết lí, có sự gặp gỡ của
hai nền thơ ca phương Tây và Phương Đông. Chế Lan Viên còn là một
trong những số những nhà thơ hiếm hoi làm thơ tứ tuyệt thành công nhất
trong thơ ca Việt Nam hiện đại, kết hợp hài hoà giữa cái đẹp truyền
thống và hiện đại" (Bích Thu - Từ điển tác giả, tác phẩm Văn học Việt
Nam dùng cho nhà trường, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004).
2. Tác phẩm:
Tác phẩm đã xuất bản: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh
sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967); Những
bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăng Người
(1976); Hái theo mùa (1977); Hoa trên đá (1985); Tuyển tập Chế Lan
Viên (2 tập, 1985); Di cảo I (1994); Di cảo II (1995); Về văn xuôi có các
tập ký: Vùng Sai (1942); Thăm Trung Quốc (1963); Những ngày nổi
giận (1966); Giờ của số thành (1977); Chế Lan Viên cũng là tác giả của
những tập tiểu luận, phê bình trao đổi nghề nghiệp đặc sắc: Nói chuyện
văn thơ (1960); Phê bình văn học (1962); Vào nghề (1962); Suy nghĩ và
bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh
dòng thơ (1981); Tứ gác Khuê Văn đến Quán Trung Tân (1981).
- Chế Lan Viên đã được tặng Huân chương Độc lập hạng Hai (năm

1988). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt I - 1996);
Giải A Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 (tập thơ Hoa
trên đá) và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1994 (Di cảo I và Di cảo
II).
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
1. Hình tượng bao trùm cả bài thơ là hình tượng con cò. Đó là con cò
trong ca dao truyền thống, xuất hiện rất phổ biến và được dùng với nhiều
ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa phổ biến nhất là hình ảnh người nông
dân, người phụ nữ trong cuộc sống nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng luôn
thể hiện được những đức tính tốt đẹp và niềm vui sống.
2. Bài thơ được tác giả chia làm ba đoạn:
− Đoạn 1: hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi ấu
thơ.
− Đoạn 2: hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần
gũi và sẽ theo con người đi suốt cuộc đời.
− Đoạn 3: từ hình ảnh con cò, nhà thơ suy ngẫm và triết lý về ý nghĩa
của lời ru và tình mẹ đối với cuộc đời mỗi con người.
3. Trong đoạn đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng những câu ca dao:
− Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng phủ, bay ra cánh đồng
− Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng
− Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con.
Trong hai bài ca dao trước, hình ảnh con cò gợi tả không gian và
khung cảnh quen thuộc, nhịp điệu nhẹ nhàng, thong thả của cuộc sống

thời xưa. Trong bài ca dao sau (Con cò mày đi ăn đêm ), hình ảnh con
cò lại tượng trưng cho những con người, nhất là người phụ nữ đang nhọc
nhằn, vất vả để kiếm sống nuôi con.
4. Hình tượng trung tâm trong bài thơ là cánh cò nhưng cảm hứng
chủ đạo lại là tình mẹ. Hình ảnh con cò đã gợi ý nghĩa biểu tượng về
lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng của người mẹ. Bởi vậy,
những câu thơ mang tính khái quát trong bài đều là những câu thơ chan
chứa tình cảm yêu thương của người mẹ:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
Đó là một quy luật tình cảm bền vững và sâu sắc, thể hiện tình cảm
yêu thương vô bờ bến của người mẹ. Dù ở đâu, bên mẹ hay đến phương
trời khác, dù còn nhỏ hay đã lớn khôn thì con vẫn được mẹ hết lòng
thương yêu, che chở.
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi.
Lời ru cũng là khúc hát yêu thương. Sự hoá thân của người mẹ vào
cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc
nhằn để những lời yêu thương càng trở nên sâu sắc, đằm thắm. Câu thơ
cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi như dáng mẹ đang
nghiêng xuống chở che, đang nói với con những lời tha thiết của lòng
mẹ.
5. Một số đặc điểm nghệ thuật của bài thơ
− Về thể thơ: Trong bài thơ này, tác giả sử dụng thể thơ tự do nhưng
các đoạn thường được bắt đầu bằng những câu thơ ngắn, có cấu trúc
giống nhau, nhiều chỗ lặp gợi âm điệu lời ru. Tuy nhiên, trong bài thơ, ta
còn nhận thấy giọng suy ngẫm, triết lí.
− Về hình ảnh: Hình ảnh con cò trong ca dao trở thành điểm tựa cho

những liên tưởng, tưởng tượng của tác giả. Những hình ảnh trong bài thơ
vừa rất gần gũi, xác thực nhưng đồng thời cũng giàu ý nghĩa biểu tượng
và sắc thái biểu cảm.
- Nhịp điệu linh hoạt của thể thơ tự do đã giúp tác giả thể hiện một
cách đặc sắc hình tượng con cò trong lời hát ru của bà mẹ.
6. Hình ảnh con cò không mới, nhưng bắt nguồn từ mạch trữ tình tha
thiết trong ca dao, bài thơ Con cò là sự kết tinh giữa cảm hứng trữ tình
dân gian và chất triết lí giản dị mà sâu sắc của tác giả Hoa ngày thường -
Chim báo bão.

×