Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Câu hỏi tự luận kinh tế phát triển có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.16 KB, 49 trang )


  !" #$%"&'()  #*+ ,-
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về khối lượng sản phẩm quốc dân (GNP)
còn phát triển kinh tế là sự tăng lên cả về chất lượng và số lượng sản phẩm quốc dân, thu
nhập bình quân theo đầu người và môi trường sống (có thể hiểu phát triển kinh tế là sự
tăng trưởng bền vững). Tăng trưởng và phát triển là hai mục tiêu mâu thuẫn nhau, đặt ra
nhiều vấn đề nhức nhối đối với các nhà làm chính sách. Có rất nhiều trường phái xung
quanh việc lựa chọn đó, xong nhìn chung có 2 ý kiến chủ đạo là: thứ nhất, trong giai đoạn
đầu tập trung nguồn lực để phát triển những ngành mũi nhọn ở những vùng trọng điểm,
chấp nhận ô nhiễm môi trường và sự phân hoá giàu nghèo ở mức cao; thứ hai, phân bổ
đều các nguồn lực để phát triển một cách công bằng.
Bạn nghĩ gì về những nhận định đó? Hãy đưa ra những lập luận rõ rang để
ủng hộ cho câu trả lời của bạn.
Theo quan điểm của ban tôi, mục tiêu chung của tất cả các quốc gia đều là “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nhưng lựa chọn đường lối của
mỗi quốc gia là khác nhau tuỳ vào hoàn cảnh của mỗi nước. Để tìm ra sự lựa chọn tối ưu
chúng ta cùng đi phân tích điểm mạnh và yếu của từng trường phái.
Trước hết với quan điểm tăng trưởng trước, phát triển sau. Đây là hướng đi mà
hầu như các nước đều lựa chọn trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. bởi vì:
Thứ nhất, những nước này nguồn lực là có hạn, nếu đầu tư dàn trải thì sẽ manh
mún và không hiệu quả.
Thứ hai, tư duy công nghiệp và trình độ quản lý còn yếu.
Thứ ba, tận dụng được lợi thế theo từng ngành và từng vùng.
Tuy nhiên nhược điểm của quan điểm này là: sự tăng trưởng kinh tế nhanh đi liền
với sự ô nhiễm môi trường và khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, sự phát triển không
đồng đều giữa các vùng miền và tầng lớp dân cư dễ dẫn tới bất ổn xã hội.
Thứ hai với quan điểm TTKT đi đôi với PTKT. Sau một giai đoạn thế giới chạy
theo mô hình thứ nhất thì những hạn chế của nó bộc lộ một cách nhanh chóng đến nỗi
chính phủ ở các quốc gia đó không thể kiểm soát nổi. Vì thế giai đoạn sau xuất hiện một
mô hình mới khắc phục được hạn chế của mô hình kia nhưng tồn tại của nó lại là ưu điểm
của mô hình trước-quan điểm TT đi kèm với phát triển.


.)  #*/&0"
Ngày nay, khả năng, trình độ tăng trưởng, phát triển kinh tế là điều kiện quyết
định sự tồn tại của một quốc gia trong xu hướng phát triển chung của thế giới. Xu thế
khách quan này bắt nguồn từ quy luật chung cho tất cả các quốc gia muốn thoát khỏi
nghèo nàn và lạc hậu đều đặt cho mình mục tiêu phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao, lâu dài
và bền vững. Song, cần phải xác định tăng trưởng, phát triển kinh tế là một quá trình
trong dài hạn, có những nội dung khác nhau ở từng giai đoạn phát triển và cho đến nay,
những nội dung đó được xác định: tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế, phát triển bền
vững. Nên mỗi quốc gia cần chọn cho mình nội dung, hướng phát triển phù hợp với yêu
cầu, điều kiện và phù hợp xu hướng quốc tế. Trong đó, phát triển bền vững ngày càng trở
thành trung tâm của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi xã hôi bước vào thế kỷ 21. Xuất
phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên, VN cần phát triển theo hướng phát triển bền vững.
TTKT chính là sự gia tăng về mặt quy mô sản lượng của nền kinh tế trong 1 thời
kỳ nhất định (thường được ấn định là 1 năm). Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta
thường dùng mức tăng lên của tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay tổng sản phẩm quốc
nội (GDP). Mức tăng đó thường tính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hay tính bình
quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước đó.
Mục tiêu của mỗi quốc gia là tạo sự tiến bộ toàn diện. Sự tiến bộ của một quốc gia
trong một giai đoạn nhất định cần được xem xét trên hai mặt, đó là sự gia tăng về kinh tế
và sự tiến bộ về xã hội. PTKT thường được hiểu xoay quanh hai nội dung này. Như vậy,
PTKT chính là quá trình tăng tiến lâu dài trong đó bao gồm sự TTKT, sự chuyển dịch
CCKT theo xu hướng hợp lý và hiệu quả và chất lượng cuộc sống của nhân dân không
ngừng được nâng lên. Nội dung PTKT rộng hơn, lớn hơn nội dung TTKT.
PTKT phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn.
Trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường được phản ánh qua các chỉ số:
#$12, là nhóm các chỉ số xã hội, bao gồm các chỉ tiêu về chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng, trình độ học vấn của dân cư và mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân bao
hàm cả tình trạng đói nghèo, mức thất nghiệp, bất bình đẳng về thu nhập. 34 là
nhóm các chỉ số về cơ cấu kinh tế, bao gồm: Chỉ số về tỷ trọng ba ngành kinh tế nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản lượng trọng nước (GDP); chỉ số về tiết kiệm

đầu tư và chỉ số về tỷ lệ dân số đô thị và nông thôn. 54627" là các chỉ số tổng hợp về
trình độ phát triển, bao gồm: Chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số về chất chất lượng
cuộc sống (PQLI) và chỉ số nghèo của con người (HPI).
)  #*/&0"
Từ thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng KH-CN bùng nổ tạo ra NSLĐ cao, và vì
vậy chất lượng sống được nâng cao. Những của cải được tạo ra ngày càng nhiều đã phần
nào thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người, đẩy nền văn minh nhân loại
phát triển nhanh. Nhưng, cũng từ chính sự phát triển ấy đã làm nảy sinh một số vấn đề
như: Tăng trưởng dân số quá nhanh, tiêu dùng quá mức của cải, tài nguyên; thiên tai, ô
nhiễm môi trường ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH, làm giảm
chất lượng sống, sự khai thác bừa bãi thiên nhiên dẫn đến sự ô nhiễm môi trường ngày
càng trầm trọng dẫn đến tình trạng quả đất ngày một nóng lên, tầng ozon bị hỏng làm
đe dọa sự sống trên trái đất, đe dọa cuộc sống của con người trong hiện tại và tương lai.
Đứng trước nguy cơ do sự tàn phá hủy hoại môi trường, sự giảm sút những cơ hội
phát triển của thế hệ tương lai đã buộc các quốc gia phải xem xét lại nội dung phát triển
với yêu cầu là phải gắn vấn đề môi trường, cuộc sống của các thế hệ tương lai với nội
dung phát triển, nhằm khắc phục những hạn chế vừa nảy sinh mà khái niệm PTKT chưa
đề cập đến trong xã hội đương đại. Đó là, môi trường và bền vững môi trường cũng như
cuộc sống của các thế hệ, trách nhiệm của thế hệ trước với thế hệ sau. Từ đó người ta bắt
đầu đưa ra khái niệm Phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là sự phát triển KT-XH với tốc độ cao, liên tục trong thời gian
dài dựa trên việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên mà vẫn bảo vệ được
môi trường sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn kiệt tài
nguyên, để lại hậu quả xã hội cho thế hệ tương lai. Nói cách khác, Phát triển bền vững là
sự phát triển hài hòa cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và tài nguyên thiên nhiên
để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không
làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển KT-XH mai sau,
không làm giảm chất lượng sống của thế hệ tương lai.
Do tác động của hàng lọat các yếu tố trong và ngoài nước; yếu tố chủ quan và
khách quan mà tựu trung là do nền kinh tế VN còn quá lạc hậu, năng lực cạnh tranh thấp,

trình độ nhận thức của người dân kể cả không ít cán bộ trong chúng ta còn hạn chế, hành
lang pháp lý, pháp chế còn lõng lẽo dẫn đến hàng lọat các vấn đề còn tồn tại trong việc
thức thi các cam kết, định hướng chiến lược phát triển bền vững như: Hiệu quả sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn nhiều yếu kém, chậm được cải thiện. TTKT của VN thời gian
qua là không ổn định mà biểu hiện cụ thể của nó là tốc độ TTKT qua từng năm và qua
từng giai đoạn là không đồng đều. Điều nay phản ảnh việc huy động và sử dụng các yếu
tố nguồn lực cho quá trình TTKT là chưa thật sự có hiệu quả (1993-1997 yếu tố vốn
chiếm 69%, lao động chiếm 16% và các yếu tố tổng hợp chiếm 15% trong cơ cấu tốc độ
TTKT). Nền kinh tế VN vẩn còn bị tác động và chi phối bởi nền kinh tế bên ngoài cho
nên khi thị trường khu vực và thế giới biến động thường ảnh hưởng nhiều đến tăng
trưởng trong nước.
Quá trình chuyển dịch CCKT còn nhiều bất cập, trong đó chính là quá trình
chuyển dịch theo xu hướng tự phát là rất lớn. Hiện tượng (84"'6"9:&'
+:;"2)2"02)2&7", các miền trong quá trình phát triển có xu hướng gia tăng.
Sức ép và dân số tiếp tục gia tăng tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc, cơ cấu lao
động chuyển dịch rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là
trong khu vực nông nghiệp nông thôn, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; số lượng và
chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng
được thị trường của lao động. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với
sự phát triển bền vững và :;"2)2"'6"9:&'( <"=>?28=6$1"
"4 !" nhanh chóng trong nền KTTT (Theo kết quả điều tra về mức sống dân cư của
Tổng Cục Thống kê, khoảng cách này năm 1986 là 2,71 lần, năm 2001 là 4,45 lần. Trong
số 20% số dân nghèo nhất có tới 90% sống ở nông thôn, còn gần 2/3 số dân trong nhóm
20% giàu nhất thì sống ở thành thị. Mức sống của các hộ thành thị tính bq theo chi tiêu
đầu người cao hơn 60% so với hộ nông thôn. Tính đến cuối năm 2005 đầu 2006, cứ 100
hộ nghèo có 8 hộ ở thành thị, 43,2 hộ ở nông thôn đồng bằng và 48,8 hộ ở nông thôn
miền núi). Hàng loạt vấn đề nảy sinh trong giai đoạn hiện nay đó là tệ tham nhũng, nhũng
nhiểu; lối sống gấp, thác lọat của giới trẻ; Lối sống thực dụng bất chấp đạo lý xã hội, chà
đạp nhân cách. Môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm, suy thoái với tốc độ khá
nhanh, sự cố môi trường vẫn xảy ra đáng lo ngại; ở nhiều nơi và nhiều lĩnh vực, ô nhiễm

môi trường đang trở thành vấn đề hết sức bức xúc, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của mọi
người, cản trở quá trình phát triển KT-XH và đe doạ nghiêm trọng sự phát triển bền
vững.
Những tồn tại trên đây, nếu không giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
khả năng tăng trưởng, phát triển để hội nhập với kinh tế quốc tế, đồng thời ảnh hưởng
đến việc thực hiện các mục tiêu trên định hướng XHCN.
Do vậy, Phát triển bền vững ở nước ta đang được đặt ra rất cấp thiết. Để vượt qua
những thách thức đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực to lớn hơn nữa, không chỉ từ phía Chính
phủ mà phải được các cấp, các ngành, các đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư và
từng người dân quán triệt và thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ. Chúng ta quyết tâm
thực hiện bằng đường chiến lược phát triển bền vững ở VN theo hướng đã được Đại hội
toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta xác định: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH và bảo vệ môi trường". Mục tiêu phát
triển được xác định theo hướng:
@? A'Bmục tiêu phát triển bền vững là nhằm đạt được sự đầy đủ về vật chất; sự
giàu có về tinh thần và văn hoá; sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã
hội; sự hài hoà giữa con người và tự nhiên.
4A'B phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện
tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đảm bảo
sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt KT-XH-Môi trường. #$12, là phát triển bền vững
về kinh tế là việc đảm bảo kết hợp hài hòa giữa mục tiêu TTKT với phát triển văn hoá-xã
hội, cân đối tốc độ TTKT với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên
nhiên, khoa học, công nghệ, đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch. 34B phát
triển bền vững về xã hộilà việc phải xây dựng một xã hội có nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, ổn định, đi đôi với dân chủ công bằng và tiến bộ xã hội, trong đó giáo dục, đào
tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy đủ và toàn diện cho mọi đối tượng
trong xã hội. 34B phát triển bền vững về môi trường là việc sử dụng tài nguyên thiên
nhiên tái tạo trong phạm vi chịu tải của chúng nhằm khôi phục được cả về số lượng và
chất lượng, các dạng tài nguyên không tái tạo phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất.
Môi trường tự nhiên (không khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên ) và môi trường xã

hội (dân số, chất lượng dân số, sức khỏe, môi trường sống, lao động và học tập của con
người ) không bị các hoạt động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các
nguồn phế thải từ sản xuất và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường
được bảo đảm, con người được sống trong môi trường trong sạch
8CADB phát triển bền vững là xu hướng tất yếu trong tương lai. Muốn phát triển
bền vững thì các chỉ số chêch lệch giàu nghèo không được quá cao, phải có sự tham
gia của cộng đồng và phải xóa bỏ sự bất bình đẳng tạo nên mâu thuẫn xã hội. Phát
triển bền vững ở VN đã trở thành quan điểm của Đảng, đường lối, chính sách của Nhà
nước được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là : “Phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, TTKT đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH và bảo vệ
môi trường”và “phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo đảm sự
hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”./.
.EFE@GE
H6I(2J42)2?"9:%EK5L;$%"M,M<6 $&'()  #*
$ ,':-;()(-
Thu nhập biểu thị bằng một lượng giá trị hoặc hiện vật mà người lao động nhận
được bằng hoạt động lao động của mình.
Trong nền kinh tế quốc dân, thu nhập là tổng giá trị sản lượng hàng hoá và dịch
vụ cuối cùng được tạo ra trong một đơn vị thời gian. Với chủ doanh nghiệp tư nhân, thu
nhập là lợi nhuận ròng mà họ có được sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh. Với người
công nhân, thu nhập của họ chính là tiền lương mà họ nhận được.
Với người lao động ở ĐBSCL, thu nhập có hai phần cơ bản:
- Thu nhập tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền công do làm
thuê.
- Các khoản hỗ trợ từ người thân, họ hàng, các khoản trợ cấp
Trong cơ cấu thu nhập của người lao động ở ĐBSCL, phần thu nhập từ hoạt động
sản xuất kinh doanh, làm thuê chiếm tý lệ tuyệt đối lớn và có vai trò quyết định đến sự
phát triển của kinh tế nông thôn. Phần được hỗ trợ chiếm tỷ lệ nhỏ bé và không thường
xuyên, nó chỉ có vai trò giúp cho họ giảm phần nào gánh nặng của cuộc sống trong thời
kỳ khó khăn.

Sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị là do cơ hội việc làm ở thành
thị lớn hơn, năng suất lao động hay hiệu quả công việc ở thành thị cao hơn. Đây là lý do
hình thành luồng di dân từ nông thôn ra thành thị với mức độ ngày càng tăng. Điều đó tạo
ra yêu cầu khách quan là phải có giải pháp hợp lý nhằm tạo việc làm cho lao động nông
thôn và nâng cao hiệu quả của lao động nông thôn, hạn chế sự chênh lệch quá lớn về thu
nhập giữa nông thôn và thành thị từ đó khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực do sự chênh
lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị gây ra.
►Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại
là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này
phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo ta kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng
trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác.
Thu nhập thay đổi sẽ không làm ảnh hưởng đến độ dốc của đường ngân sách mà
sẽ làm cho đường ngân sách tịnh tiến. Nếu thu nhập của cá nhân tăng lên, cá nhân có thể
mua được nhiều hàng hóa hơn tại các mức giá cho trước, đường ngân sách sẽ dịch
chuyển sang phía phải. Ngược lại, khi thu nhập giảm, đường ngân sách sẽ dịch chuyển về
phía trái do cá nhân mua được ít hàng hóa hơn.
Thu nhập thấp chi tiêu dùng bị ảnh hưởng, cầu giảm. Mức sinh hoạt hàng ngày bị
cắt giảm cho nên đầu tư thấp là chuyện không thể tránh khỏi, vì vậy nền kinh tế cũng bị
kéo theo.
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, gần 50% dân số các tỉnh
ĐBSCL có thu nhập chưa tới 1 USD/ngày (Báo tin tức 2013) Theo Ban chỉ đạo Tây Nam
bộ, năm 2015, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đề ra chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu
người đạt 43 triệu đồng, tăng 13,1% so năm ngoái. Trong đó, Cần Thơ là địa phương dẫn
đầu toàn vùng với mức thu nhập đầu người đạt 79,3 triệu đồng.
Là vùng nông nghiệp trọng điểm, quan trọng nhất của cả nước nhưng theo các
chuyên gia kinh tế, công nghiệp chế biến của vùng ĐBSCL vẫn chưa phát triển tương
xứng với tiềm năng và nguồn nguyên liệu của địa phương. Mức thu nhập của người dân
vẫn còn khá thấp so với các vùng khác ở Việt Nam, do đó cần có những biện pháp tích
cực giúp tăng thu nhập và đầu tư:
- Nông nghiệp chính là ngành kinh tế chủ lực của ĐBSCL cũng như là nguồn thu

nhập chủ yếu của người dân, do đó nếu nhà nước có chính sách hỗ trợ cho người dân phát
triển nông nghiệp chính là góp phần làm cho cuộc sống của người dân được ổn định, thu
nhập tăng cao.
Để công tác thu mua lúa gạo nói riêng và nông sản ở ĐBSCL nói chung đến trực
tiếp với người nông dân, chính quyền các cấp cần tổ chức lại những tổ liên kết sản xuất
nông thôn một cách hiệu quả, từng bước đưa việc ký kết hợp đồng tiêu thụ được nhiều
hơn. Ngoài ra, nhà nước xem xét cho đơn vị xuất khẩu được vay ngoại tệ đầu tư kho chứa
theo chương trình đầu tư 4 triệu tấn kho, cũng như sớm có chính sách kiềm chế tăng giá
vật tư sao cho phù hợp, nâng cao công tác quy hoạch, cải tổ hệ thống trong sản xuất nông
nghiệp. Cái khó lớn nhất hiện nay là đầu ra nông sản, trong khi việc nhập khẩu vẫn chưa
được kiểm soát triệt để, giá cả thả nổi cho tư thương đầu cơ trục lợi… và để hạn chế vấn
đề này cần phải có sự nhập cuộc quyết liệt hơn từ các ngành chức năng (Theo Ông Lê
Minh Trượng -GĐ Công ty Lương thực Sông Hậu (TP Cần Thơ)).
- Hiện ở ĐBSCL còn rất nhiều dự án phục vụ cho tăng trưởng kinh tế vẫn đang
trong tình trạng "án binh bất động" trải dài từ những dự án nông nghiệp, nông thôn cho
đến hàng loạt cơ sở hạ tầng đường giao thông, bến cảng Vì vậy nhà nước cần quan tâm
nhiều hơn đến các dự án này sẽ góp phần rất lớn cho nền kinh tế phát triển.
- Nâng cao chất lượng lao động cũng là một biện pháp hết sức thiết thực giúp tăng
thu nhập cho người dân, tăng đầu tư và phát triển.
- Các doanh nghiệp, đoàn thể tăng cường đầu tư, I tăng thì Yd tăng.
Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ: Tiết kiện, đầu tư thấp -> tốc độ tích lũy vốn
thấp -> năng suất thấp -> thu nhập bình quân thấp -> tiết kiệm tích lũy vốn thấp -…
Theo sự phân tích của Samuelson, các nước nghèo trong cái “vòng luẩn quẩn” của
nghèo khổ và không tự thoát ra được, muốn thoát ra phải có 1 cú huých từ bên ngoài –
“cú huých” khả thi nhất chính là thu hút trực tiếp từ nước ngoài FDI.
HLNOPQR
ST6U7"&' , +CB($V"()(':"W(()  #*+ ,-
Nếu một người dùng tất cả thu nhập của mình trong một tháng vào tiêu dùng, việc
này không thể góp phần vào sự phát triển kinh tế.
Và ngược lại một người lấy toàn bộ lượng tiền mình đi làm được gửi tiết kiệm hết

thì cùng không làm cho nền kinh tế phát triển. Việc lấy toàn bộ thu nhập để gửi tiết kiệm
sẽ làm lượng cung lớn hơn lượng cầu, làm nền kinh tế mất cân bằng.
Vì vậy muốn nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả mỗi người phải biết tiêu
dùng và tiết kiệm một cách hiệu quả để tạo nên sự bền vững.
Tiêu dùng C phải tối ưu: Cần xài cái gì thì mua cái đó, cần trước mua trước, những
vật dụng không cần thiết có thể không cần mua về.
Tiết kiệm S trùng với đầu tư I thì nền kinh tế phát triển một cách tối ưu.
/Keynes cho rằng, nền kinh tế không phải lúc nào cũng đạt đến mức sản lượng
tiềm năng nhờ cơ chế tự điều chỉnh như quan điểm của trường phái cổ điển và tân cổ
điển. Mà nền kinh tế chỉ có thể đạt tới và duy trì một sự cân đối ở một mức sản lượng
nào đó, dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người.
Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng
Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc kéo theo sản lượng thực tế:
- Khi thu nhập tăng lên thì xu hướng tiết kiệm trung bình cũng tăng lên và xu
hướng tiêu dùng tb sẽ giảm xuống là giảm cầu tiêu dùng. Đây là nguyên nhân trì trệ
trong kinh tế.
- Mặt khác, đầu tư quyết định quy mô việc làm, nhưng quy mô đầu tư lại phụ
thuộc lãi suất cho vay và hiệu suất cận biên của vốn. Ông viết “Sự thúc đẩy tăng sản
lượng phụ thuộc vào sự tăng lên của hiệu suất cận biên của một khối lượng vốn nhất
định so với lãi suất”.
- Ông đã đề xuất nhiều hình thức hoạt động để kích thích và tăng tổng cầu và việc
làm. Do đó lý thuyết này còn được gọi là lý thuyết trọng cầu.
Vai trò của chính sách kt tăng trưởng
Theo Keynes muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, nhà nước phải thực hiện
điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách, đặc biệt là chính sách nhằm kích thích và tăng
cầu tiêu dùng.
Ông đề nghị:
- Chính phủ sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư (thông qua các đơn đặc hàng
của chính phủ, trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp).
- Áp dụng nhiều biện pháp tăng lợi nhuận, giảm lãi suất.

- Tăng khối lượng tiền trong lưu thông, lạm phát có mức độ.
- Coi trọng hệ thống thuế, áp dụng thuế thu nhập lúy tiến để làm cho phân phối
công bằng hơn.
- Coi trọng đầu tư của chính phủ vào khu vực công cộng, trợ cấp thất nghiệp,
như là một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút.
X8CYZ"6[A\2M*()  #*-*#4]EK5L28"6[A\2':28 *
()  #*M$^2-
Có 6 nguồn lực để phát triển:
- Trữ lượng vốn.
- Số lượng lao động
- Tài nguyên thiên nhiên
- Khoa học công nghệ
- Nguồn lực thông tin
- Thời gian.
Đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn chiến lược về kinh tế, chính trị và quốc
phòng, an ninh của cả nước, với tiềm năng phát triển đa dạng về nông nghiệp, thủy sản và
du lịch. Đây cũng là một trong những đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu của vùng Đông Nam
Á, đồng thời là vùng đồng bằng có diện tích lớn nhất Việt Nam, với lợi thế về tài nguyên
thiên nhiên, điều kiện khí hậu, thời tiết thuận lợi và nguồn lao động dồi dào, nên có vị trí
rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc gia, đồng thời còn là vùng kinh tế xuất siêu của
cả nước, chủ yếu là xuất khẩu lúa gạo, trái cây và thủy sản. Do đó có thể nói ĐBSCL có
thể phát triển được cả 6 nguồn lực ở trên.
►Về nguồn lực vốn: ngành ngân hàng đã bám sát chỉ đạo của Chính phủ, triển
khai đồng bộ các giải pháp tín dụng cho khu vực ĐBSCL, đặc biệt là tín dụng đối với
nông sản xuất khẩu của vùng này. Mấy năm qua, tổng dư nợ cho vay đối với khu vực
ĐBSCL không ngừng tăng lên, từ hơn 271.000 tỷ đồng năm 2012 lên 334.146 tỷ đồng
năm 2014 và đến hết tháng 2-2015, tổng dư nợ tăng lên 353.816 tỷ đồng. Trong đó, dư nợ
cho vay nông nghiệp, nông thôn đạt khoảng 163.000 tỷ đồng, tăng gần 10.000 tỷ đồng so
với cuối năm 2014; lần lượt chiếm 22% tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn toàn
quốc và chiếm 46% tổng dư nợ toàn vùng. Trong tổng dư nợ cho vay đối với nông nghiệp

nông thôn đã hướng mạnh vào các chương trình tạo ra nông sản chủ lực xuất khẩu của
vùng như tôm, cá tra, lúa gạo, dừa
Theo ông Nguyễn Tiến Đông - Vụ trưởng Vụ Tín dụng (Ngân hàng Nhà nước), từ
nhiều năm qua, nguồn vốn tín dụng cho ĐBSCL đã được ngành ngân hàng đẩy mạnh
triển khai. Bởi đây là khu vực quan trọng trong chiến lược an ninh lương thực và xuất
khẩu gạo của quốc gia, là nơi cung cấp lương thực, trái cây, thủy sản lớn nhất của cả
nước.
►Theo ông Nguyễn Phong Quang – Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo
Tây Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long hiện có nguồn lao động dồi dào với hơn 10,3
triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm 57,8% dân số (2014).
Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế là khu vực có nguồn nhân lực dồi dào song
chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của vùng thấp hơn
so với mức trung bình của cả nước gần 2%. Chất lượng trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ
năng nghề nghiệp còn chưa đáp ứng được đòi hỏi thị trường lao động (tỷ lệ lao động qua
đào tạo năm 2013 là 42,29% thấp hơn mức trung bình của cả nước). Đặc biệt, số lượng
lao động đi làm việc nước ngoài còn thấp, toàn vùng bình quân mỗi năm chỉ có khoảng
2.000 người đi làm việc nước ngoài
Mặc dù còn nhiều vấn đề bất cập trong nguồn lao động của ĐBSCL, xong chúng
ta không thể phủ nhận được nơi đây là một trong những nơi cung cấp số lượng lao động
cao nhất cả nước. Hy vọng trong tương lai với chính sách của Nhà nước, chất lượng lao
động ở ĐBSCL sẽ ngày càng nâng cao để nguồn lao động ĐBSCL không chỉ đạt số
lượng mà còn đạt chất lượng.
►Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội,
có tiềm năng lớn nhất để phát triển nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, nuôi
trồng, đánh bắt thuỷ sản, phát triển vườn cây ăn trái đem lại giá trị xuất khẩu lớn cho cả
nước và mở rộng giao lưu với khu vực và thế giới. ĐBSCL gồm 13 tỉnh/thành, với diện
tích đất liền 39.712 km2 (chiếm 12,1% diện tích cả nước), có hải phận rộng trên 360
nghìn km2. ĐBSCL lấy nước ngọt từ sông Mê Công và nước mưa. Cả hai nguồn này đều
đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước bình quân của sông Mê Công chảy qua
ĐBSCL hơn 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phù sa. Chính lượng

nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên Đồng bằng ngày
nay. Hệ thống sông ngòi chằng chịt, hệ sinh thái động thực vật đa dạng phong phú. Thiên
nhiên ưu đãi rất nhiều làm cho ĐBSCL có nguồn tài nguyên cực kì dồi dào.
►KH&CN là yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững của các tỉnh, thành phố
và toàn vùng. Phát triển tiềm lực KH&CN cần phát triển nguồn lực; phát triển cơ sở hạ
tầng, các phòng thí nghiệm trọng điểm, các trung tâm nghiên cứu khoa học, đồi mới tổ
chức quản lý KH&CN, xây dựng hệ thống các doanh nghiệp KH&CN. Toàn vùng hiện
có 6 trường đại học và cao đẳng, 33 viện nghiên cứu và tổ chức hoạt động KH&CN. Là
vùng hội tụ đủ tiềm năng và thế mạnh mà thiên nhiên ưu đãi ĐBSCL đẫ và đang cố gắng
rất nhiều trong việc đầu tư KHCN để phát triển kinh tế. Năm 2014 hội thảo “Thực trạng
và giải pháp phát triển tiềm lực KH&CN vùng Đồng bằng sông Cửu Long” do do Ủy ban
nhân dân (UBND) thành phố Cần Thơ, Bộ KH&CN đồng tổ chức mới đây tại Thành phố
Cần Thơ đã được tổ chức khá thành công.
Trong 2 năm (2012-2014), ĐBSCL đã tiếp nhận và phối kết hợp triển khai 43
nhiệm vụ KHCN cấp Quốc gia; 465 nhiệm vụ KHCN ở địa phương được phê duyệt và
triển khai thuộc các lĩnh vực. Kết quả nghiên cứu và các tiến bộ kỹ thuật được áp dụng,
triển khai, nhân rộng đạt tỷ lệ từ 65%-85%. Nhiều sản phẩm KHCN được tạo ra với chất
lượng tốt, có khả năng ứng dụng cao vào thực tiễn sản xuất và đời sống, góp phần đáng
kể trong phát triển kinh tế-xã hội của vùng. Nguồn nhân lực KHCN của vùng được tăng
cường, hạ tầng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ phát triển KHCN được quan tâm đầu
tư.
Trong thời gian qua, các địa phương trong vùng ĐBSCL đã có những nghiên cứu,
chế tạo các thiết bị phục vụ tự động hóa dây chuyền chế biến gạo xuất khâu năng xuất 8 -
10 tấn thóc/giờ (Long An); Xây dựng mô hình nấm hàng hóa theo mô hình công nghiệp
tại tỉnh Long An; Áp dụng các giải pháp kỹ thuật quản lý tổng hợp nhằm phát triển vùng
xoài cát Hòa Lộc vùng Hòa Hưng, Cái Bè, Tiền Giang theo tiêu chuẩn GlobalGap; Ứng
dụng công nghệ sinh học để sản xuất sản phẩm và thương mại hóa các chế phẩm sinh học
phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững (Bến Tre)
Trong giai đoạn 2014 - 2016 và định hướng công tác đến năm 2020, hoạt động
KH&CN của vùng ĐBSCL dự kiến tập trung huy động các nguồn lực nhằm khai thác và

phát triển các sản phẩm lợi thế của vùng như: Tập trung nghiên cứu và phát triển mạnh
một số giống lúa chủ lực, có năng suất, chất lượng cao, có chất lượng cao, có khả năng
kháng chịu tốt với dịch hại và thích ứng với biển đổi khí hậu, tạo ra sản phẩm gạo chất
lượng cao mang thương hiệu Việt Nam, cạnh tranh tốt trên thị trường trong và ngoài
nước mang lại hiệu quả cho người sản xuất.
Đặc biệt, hoạt động KH&CN vùng ĐBSCL sẽ tập trung thực hiện cơ chế và chính
sách liên kết trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; thực hiện đồng bộ các
giải pháp KH&CN nhằm hạn chế, thích ứng đối với các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
và nước biển dâng; hiện tượng lũ lụt và xói lở bờ sông, bờ biển; tình trạng xâm nhập
mặn, vấn đề sâu bệnh hại cây trồng vật nuôi, vấn đề ô nhiễm môi trường.
►Thời gian lại là một nguồn lực, hơn nữa là nguồn lực rất quan trọng, nguồn lực
vô hình, không tái tạo, bình đẳng về quyền sử dụng giữa tất cả mọi người. Vẫn biết thời
gian qua đi không trở lại, nhưng con người hoàn toàn có thể làm chủ thời gian, rút ngắn
thời gian phát triển cũng như sử dụng thời gian hiệu quả để ĐBSCL phát triển một cách
đúng đắn.
►Trong thời đại công nghệ thông tin - truyền thông bùng nổ hiện nay thì sức
mạnh của thông tin cũng theo đó tăng gấp bội, một sức mạnh cả cứng và mềm. Để tận
dụng được nguồn lực này, cần tạo ra môi trường tự do lan tỏa được quy định bởi thể chế
tháo cởi, khuyến khích, thúc đẩy.
Đồng thời, có ràng buộc hợp lý để phòng chống sự lạm dụng thông tin phản lại
phát triển và tiến bộ. Ở đây cần một sự dũng cảm và tầm nhìn xa rộng, mà thực tế cho
thấy còn có hạn chế cần được giải quyết. Khi đã có được điều đó, vấn đề tiếp theo là phải
có đầu tư cho hạ tầng thể chế và kỹ thuật, cho đào tạo nhân lực chuyên môn và phổ cập
rộng cho mọi người có nhu cầu thông tin.
ĐBSCL nếu có thể nắm được hai nguồn lực thông tin và thời gian thì sẽ ngày càng
phát triển hơn nữa, rút ngắn khoảng cách về sự phát triển với ĐB sông Hồng và ĐNB.
_@`a64"04Ub`&'b\()  #*+ ,=>?
Dân số là nguồn lao động, là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã hội.
Ngay cả khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới hiện nay đang diễn ra với
những bước tiến kỳ diệu và đẩy mạnh tự động hoá quá trình sản xuất, thì người lao động

vẫn là yếu tố quan trọng nhất
Trong nền kinh tế thị trường khi mà tất cả các vấn đề về đầu ra và đầu vào của quá
trình sản xuất điều diễn ra trên thị trường đã hình thành nên nhiều thị trường như: thị
trường vốn, thị trường hàng tiêu dùng thị trường lao động cũng được hình thành. Thị
trường kinh doanh gồm các yếu tố như cung lao động và cầu lao động. Cung và cầu về
lao động không chỉ chịu sự tác động sâu sắc bởi sự phát triển kinh tế xã hội, môi trường
tự nhiên mà còn cả yếu tố dân số.
Dân số trong độ tuổi lao động là bộ phận dân số có đủ sức khoẻ và trí tuệ tham gia
vào sản xuất ra của cải vật chất. Bộ phận này gắn với một độ tuổi nhất định thường là tõ
15 đến 59 tuổi. Việc so sánh số người ngoài độ tuổi lao động và trong độ tuổi lao động
cho ta tỷ số phụ thuộc. Tỷ số này càng cao, mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng càng
căng thẳng. Ở nước ta tỷ số phụ thuộc không ngừng giảm xuống: Năm 1979 là 0,95, năm
1989 là 0,86, năm 1999: 0,7, đến năm 2014 sẽ chỉ còn khoảng 0, 475 tức là bằng nửa năm
1979.
Dân số và phát triển kinh tế - xã hội có tác động tương hỗ lẫn nhau trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Ngày nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đạt tới
đỉnh cao của sự phát triển thì nhân loại cũng đang phải đối mặt với thực tế là sự “bùng nổ
dân số” đã gây nhiều sức ép và cản trở đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Thực tế ở
nhiều nước cũng như ở nước ta cho thấy, với quy mô và cơ cấu dân số thích hợp thì dân
số có tác động tích cực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, ngược lại, nó sẽ trở thành lực
cản của quá trình này. Khi nền kinh tế phát triển, sẽ tạo điều kiện vật chất cho việc chăm
lo tới công tác giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ con người, nâng cao thể lực và trí
tuệ con người và có tác động tốt tới các quá trình dân số. Mối quan hệ giữa dân số và
phát triển kinh tế - xã hội là mối quan hệ nhân quả, tác động qua lại mật thiết với nhau.
Vì vậy, bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế - xã hội, việc đề ra và thực hiện
thành công chính sách dân số là điều rất quan trọng, vì nó có thể ảnh hưởng đến một hay
nhiều thế hệ công dân tương lai, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Dân số và tăng trưởng kinh tế.
Dân số vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng.
Dân số và giáo dục

Dân số và giáo dục tác động lẫn nhau trong sự liên hệ và tác động của nhiều yếu tố
khác như kinh tế, chính trị, truyền thống văn hoá, tôn giáo, Một sự thay đổi nào đó của
giáo dục không chỉ do tác động của dân số, mà có thể do tác động của các yếu tố kể trên.
Cũng như vậy, một sự biến đổi nào đó của dân số có thể do tác động của giáo dục và
cũng có thể do tác động của các yếu tố khác. Khi xem xét mối quan hệ giữa dân số và
giáo dục cần phải xem xét nó trong hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là yếu tố kinh tế - xã hội;
trong mối liên hệ, sự tương tác của các yếu tố khác.
Dân số và y tế
Sự phát triển của hệ thống y tế của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố
sau: trình độ phát triển kinh tế xã hội; điều kiện vệ sinh môi trường; tình hình phát triển
dân số; chính sách của nhà nước đối với y tế và các điều kiện chăm sóc sức khỏe nhân
dân. Như vậy, dân số là một yếu tố có tính chất khách quan và cùng với các yếu tố khác,
nó quy định sự phát triển của y tế về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu.
Dân số và đô thị hoá
Trong vòng 20 năm qua, ở hầu hết các nước đang phát triển, dân số có khuynh
hướng tập trung vào các đô thị, tạo nên sự phân bố không đồng đều giữa các vùng, các
khu vực, gây ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển. Một trong những nhân tố quan trọng
của sự tăng trưởng đô thị là sự di dân từ nông thôn ra thành thị. Trong quá trình đô thị
hóa, các biến động kinh tế như cơ hội tìm việc làm, sự chênh lệch về điều kiện văn hoá,
xã hội (giáo dục, y tế, thông tin liên lạc, điều kiện làm việc và nghỉ ngơi) đã kích thích
việc di dân từ nông thôn ra thành thị với hy vọng tìm được việc làm và điều kiện sống tốt
hơn.
Dân số và môi trường
Hiện nay, tác động của gia tăng dân số với môi trường và ảnh hưởng của môi
trường bị ô nhiễm đối với con người là một trong những chủ đề, nội dung của toàn cầu
hoá, được thảo luận rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới.
Dân số và vai trò, địa vị của phụ nữ
Phụ nữ chiếm hơn nửa dân số trên thế giới. Vai trò của phụ nữ ngày càng được
thừa nhận và là một yếu tố quan trọng của các kế hoạch phát triển. Cải thiện và nâng cao
địa vị của phụ nữ không chỉ là vấn đề nhân đạo mà còn là một trong những cách đầu tư

hiệu quả cho chương trình kế hoạch hoá gia đình và sự phát triển của đất nước.
►Dân số phát triển cơ học không có chất lượng sẽ làm nền kinh tế chậm phát
triển.
Ngược lại nếu dân số tăng có chất lượng (tay nghề, kĩ thuật…) thì sẽ góp phần làm
cho nền kinh tế phát triển. Dân số có chất lượng tốt mới có thể tiếp cận KHKT tốt, từ đó
mới có thể xuất khẩu lao động => Góp phần tăng trưởng kinh tế.
c; d2C`a64"042 T6B , +CBM<6 $&1 !" #$%"&'
()  #*e'A6f
Lý thuyết kinh tế thường không chỉ ra một cách rõ ràng về tác động của chi tiêu
chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất
với nhau rằng, trong một số trường hợp sự cắt giảm quy mô chi tiêu chính phủ có thể
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và trong một số trường hợp khác sự gia tăng chi tiêu chính
phủ lại có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, các nghiên cứu đã chỉ rõ ra rằng nếu chi
tiêu chính phủ bằng không sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế rất thấp, bởi vì việc thực thi các
hợp đồng kinh tế, bảo vệ quyền sở hữu tài sản, phát triển cơ sở hạ tầng… sẽ rất khó khăn
nếu không có chính phủ. Nói cách khác, một số khoản chi tiêu của chính phủ là cần thiết
để đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, chi tiêu chính phủ - một khi đã vượt quá ngưỡng cần thiết nói trên - sẽ
cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra sự phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả.
Đường cong phản ánh mối quan hệ giữa quy mô chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế
đã được xây dựng bởi nhà kinh tế Richard Rahn (1986), và được các nhà kinh tế sử dụng
rộng rãi khi nghiên cứu vai trò của chi tiêu chính phủ đối với tăng trưởng kinh tế.
Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư.
Toàn bộ thu nhập của một nước (GNP) trong quá trình sử dụng được chia làm 3
quĩ lớn: quĩ bù đắp, quĩ tích luỹ vốn và quĩ tiêu dùng. Quĩ bù đắp và quĩ tích luỹ là nguồn
để hình thành vốn đầu tư, trong đó quĩ đầu tư là bộ phận quan trọng nhất. Toàn bộ quĩ
tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Xu hướng chung là khi nền kinh tế càng
phát triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các n-
ước có thu nhập thấp thì qui mô và tỉ lệ tích luỹ đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát
triển kinh tế ngày càng đòi hỏi nguồn vốn lớn.

Hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và tạo
ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hóa vốn thành các tài sản phục vụ cho
quá trình sản xuất.
Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đối trong chi tiêu, do đó những thay đổi
trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công
ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho tổng cầu
dịch chuyển.
Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, có nghĩa là có thêm các nhà máy thiết bị,
phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất làm tăng khả năng sản xuất của nền
kinh tế. Sự thay đối này tác động đến tổng mức cung.
Mức chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm (hay mức nhập siêu) cũng là một thước
đo. Điều này có thể thấy rõ khi phân tích phương trình tổng cầu: GDP = C + I + G + EX
– IM. Theo phương trình trên, trong một nền kinh tế đóng, tỷ lệ tiết kiệm/GDP sẽ luôn
luôn bằng tỷ lệ đầu tư/GDP. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế mở, nhờ khả năng vay
mượn từ bên ngoài, một quốc gia có thể nâng tỷ lệ đầu tư/GDP cao hơn so với tỷ lệ tiết
kiệm/GDP và mức chênh lệch này, theo nguyên tắc tính tổng sản phẩm trong nước, luôn
luôn bằng tỷ lệ nhập siêu/GDP.
Sự tồn tại mối quan hệ giữa mức chênh lệch đầu tư/ GDP - tiết kiệm/GDP và tốc
độ lạm phát tại Việt Nam cũng đã được các số liệu thống kê khẳng định. Khi mức chênh
lệch giữa đầu tư/GDP và tiết kiệm/GDP trong năm (T-1) tăng lên, tỷ lệ lạm phát trong
năm (T) cũng có xu hướng tăng theo.
Về lý thuyết, không phải lúc nào hiệu số giữa đầu tư và tiết kiệm cũng phản ánh sự
dư thừa của tổng cầu. Trong một nền kinh tế thiếu vốn (tỷ lệ tiết kiệm/ GDP thấp và thừa
lao động), sự gia tăng khoảng cách giữa tỷ lệ đầu tư/GDP và tỷ lệ tiết kiệm/GDP có thể
giúp cho GDP tăng mạnh, giảm thất nghiệp mà không kéo theo lạm phát cao. Mặc dù
vậy, điều này khó có thể kéo dài mãi mãi. Chính vì vậy, mức chênh lệch giữa tỷ lệ đầu
tư/GDP và tỷ lệ tiết kiệm/GDP (hay mức nhập siêu/GDP) sẽ là thước đo hữu ích đối với
sự dư thừa của tổng cầu trong dài hạn (khi sản lượng xoay quanh mức tiềm năng) hoặc
khi mức dư thừa của tổng cầu tương đối lớn.

Tóm lại, chi tiêu, tiêt kiệm, đầu tư và sự phát triển kinh tế có mối quan hệ rất chặt
chẽ, do đó để đất nước có nền kinh tế phát triển theo chiều hướng tốt, chính phủ cần có
những biện pháp thích hợp để đưa VN phát triển cùng với các cường quốc năm châu.
SOgOEh5iPQR

j4 #k2J4"6[&`-e#:"$12B$12":'f
Nguồn vốn trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế, bao gồm: tiết kiệm
của khu vực dân cư, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp & tiết kiệm của Chính phủ được
huy động trong quá trình tái sản xuất xã hội. Nguồn vốn trong nước được phân ra làm 2
loại: nguồn vốn Nhà nước và nguồn vốn của dân cư & tư nhân.
Nguồn vốn nước ngoài là toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, tổ chức kinh tế &
Chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Nguồn vốn nước ngoài được phân thành 4 loại: tài trợ phát triển chính thức (ODF),
nguồn tín dụng từ các NHTM quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn huy động
qua thị trường vốn quốc tế.
Đối với sự tăng trưởng & phát triển của nền kinh tế một quốc gia, nguồn vốn trong
nước & nguồn vốn nước ngoài có quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau. Trong đó, nguồn
vốn trong nước có vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài có vai trò quan trọng.
Vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước được thể hiện ở nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vài trò định hướng cho việc thay đổi
cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp nền kinh tế quốc gia tăng trưởng &
phát triển đồng đều, toàn diện.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo cho sự phát triển toàn
diện, không lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng
trưởng & phát triển một cách bền vững.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư trong nước góp phần kiềm chế lạm phát, đẩy nhanh tiến
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng & phát triển kinh tế.
Thứ năm, nguồn vốn đầu tư trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một

trình độ nhất định, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như
tăng tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng
vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ sáu, sự lớn mạnh & ổn định của nguồn vốn đầu tư trong nước giúp hạn chế
những mặt tiêu cực của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tạo dựng khung xương
vững chãi cho nền kinh tế, giúp chống lại sóng gió từ thị trường quốc tế.
Vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài được thể hiện ở nhiều mặt, cụ
thể như sau.
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao năng lực sản xuất, tăng tỷ trọng của những ngành quan trọng cho sự tăng trưởng
& phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình chuyển giao
khoa học công nghệ, qua đó, nâng cao trình độ khoa học công nghệ của nước sở tại để từ
đó tạo đà cho tăng trưởng & phát triển kinh tế.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần tạo dựng môi trường cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế, tạo động lực cho sự tăng trưởng & phát triển kinh tế.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng góp đáng kể vào NSNN & cân đối vĩ
mô khác.
Thứ năm, nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng vào đào tạo việc làm,
tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực.
Thứ sáu, nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động hội nhập kinh tế với khu vực & thế giới.
Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước & nước ngoài rất chặt chẽ, chúng
bổ sung cho nhau để tạo thành một tổng thể thống nhất. Nguồn vốn trong nước tác động
tới nguồn vốn nước ngoài một cách gián tiếp thông qua cơ sở hạ tầng kỹ thuật, môi
trường đầu tư… Nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì bổ sung quan trọng vào tổng vốn đầu
tư toàn xã hội, có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác sử dụng nguồn vốn
đầu tư trong nước. Cùng với đó, nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng làm tăng trực tiếp
nguồn vốn trong nước thông qua ngân sách nhà nước. Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư nước
ngoài cũng tạo nguồn ngoại tệ giúp các doanh nghiệp trong nước thuận lợi hơn trong xuất

nhập khẩu.
l4 #k&'D2,2J4&`M<6 $ #\2 ,($12":'emnf
Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số các nguồn huy động từ nước ngoài.
Không chỉ có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội, mà biểu hiện cụ thể
thông qua ba tiêu chí:
• Kích thích công ty khác tham gia đầu tư
• Góp phần thu hút viện trợ phát triển chính thức
• Gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, do đó tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong
nước.
Ngoài ra FDI còn góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao trình độ công
nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế. FDI còn có vai trò
tích cực trong việc góp phần giải quyết việc làm và quan trọng hơn cả là đào tạo và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng lao động có việc làm và chuyên môn cao ở
trong nước ngày càng tăng, và điều cơ bản mà FDI đã làm được đó là không chỉ nâng cao
tay nghề mà còn thay đổi tư duy và phong cách lao động theo kiểu công nghiệp hiện đại,
là lực lượng tiếp thu chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ .
Từ đó mà hiệu quả làm việc và năng suất lao động cũng tăng nên thể hiện qua thị
trường quốc tế đẫ chấp nhận sản phẩm của các nước kém phát triển này. Chính vì vậy mà
FDI còn có vai trò mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài.
Từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (nay là L6I E<6 $!C.ooX) đến
nay, FDI đã góp phần tích luỹ vốn và tăng thu ngân sách cho Việt Nam. Thời kỳ 1996-
2000, không kể nguồn thu từ dầu thô, các doanh nghiệp có vốn FDI đã nộp ngân sách đạt
1,49 tỷ USD.
Tính đến hết tháng 6.2009, Việt Nam có 10.409 dự án FDI với tổng mức vốn đầu
tư đăng ký hơn 164,6 tỷ USD.
Tạo công ăn việc làm và đào tạo nghề là một trong những đóng góp quan trọng
của khu vực FDI. Tính đến năm 2007, doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo việc làm cho trên
1,2 triệu lao động trực tiếp, trong đó nhiều lao động đã được đào tạo ở nước ngoài.
FDI cũng góp phần mở rộng hợp tác đầu tư với các nước và thúc đẩy quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức

Thương mại thế giới (WTO).
Cuối cùng, vai trò của FDI thể hiện qua việc lành mạnh hoá các thể chế kinh tế -
tài chính và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô. Để có thể thu hút FDI, chúng ta phải đứng
trước yêu cầu cấp thiết cải tạo và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm xây
dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Có như thế chúng ta mới lọt vào tầm ngắm của các nhà
đầu tư nước ngoài.
'D2,
- Phần lớn các doanh nghiệp có vốn FDI tập trung vào khai thác lợi thế giá nhân
công rẻ, nguồn tài nguyên có sẵn, thị trường tiêu thụ dễ tính để lắp ráp, gia công sản
phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Các doanh nghiệp có vốn FDI hiện có đóng góp quan
trọng vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tuy nhiên cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam
không thay đổi, trong đó các mặt hàng nông, thuỷ sản, thực phẩm và các mặt hàng có giá
trị gia tăng thấp như dệt may, tạp phẩm chiếm đến 49,4%. Trong khi các ngành chế tạo
đòi hỏi công nghệ cao như máy công cụ, chế tạo ôtô, đồ điện tử chỉ chiếm 7,5% so với
54,6% tại các nước Đông á và ấn Độ.
- Sự liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn FDI và các doanh nghiệp nội địa còn
hạn chế. Do vậy, chưa hình thành được chuỗi liên kết sản xuất, cung ứng hàng hoá và các
ngành công nghiệp phụ trợ.
- Các doanh nghiệp có vốn FDI cũng đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
gây bức xúc trong dư luận thời gian qua. Chất thải của công ty VEDAN là một ví dụ tiêu
biểu. Rõ ràng là, những hậu quả về môi trường nếu không được xem xét kỹ lưỡng khi
quyết định cấp phép đầu tư sẽ làm giảm tính bền vững của tăng trưởng kinh tế.
- Các doanh nghiệp có vốn FDI chủ yếu tập trung vào đầu tư tại các khu vực đô
thị lớn mà chưa được phân bổ đều giữa các địa phương trong cả nước, điều này cũng là
một trong những nguyên nhân làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa vùng đô thị và
vùng nông thôn, giữa miền ngược và miền xuôi. Hơn nữa, FDI tập trung quá nhiều tại các
thành phố lớn sẽ càng gia tăng sức ép cho các đô thị này về dân số, hạ tầng đô thị.
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng FDI (Tham khảo)
Nhóm giải pháp về chính sách: Cần thu hút và sử dụng có lựa chọn nguồn FDI
hơn là chạy theo số lượng, cần tính đến hiệu quả kinh tế và sự phát triển bền vững cũng

như đảm bảo về môi trường. Hướng FDI vào các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao,
các ngành công nghệ cao, ít tiêu tốn năng lượng, không làm cạn kiệt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Thời gian gần đây, đặc biệt từ năm 2007, FDI hướng quá nhiều vào
bất động sản, sân golf, tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn tới bất ổn cho nền kinh tế. Thực tế
khủng hoảng tài chính ở châu á và gần đây ở Mỹ đãchứng minh điều này. Cần tạo ra sự
liên kết giữa khu vực FDI với các ngành sản xuất nội địa để tạo ra chuỗi liên kết sản xuất
và thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển cũng như tạo ra các ngành phụ trợ để hạn chế nhập
khẩu các thiết bị hay bộ phận mà Việt Nam có thể tự sản xuất được. Bên cạnh đó, cũng
cần có định hướng về quy hoạch phát triển các doanh nghiệp Việt Nam theo lĩnh vực và
theo nhóm ngành liên kết với khu vực FDI dựa trên thế mạnh và lợi thế so sánh của từng
khu vực và từng địa phương để thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI lâu dài.
Nhóm giải pháp về hạ tầng: Phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, quy hoạch hợp lý
các khu công nghiệp tại các địa phương, đặc biệt chú trọng hình thành các khu công nghệ
cao thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao hiệu quả của khu vực FDI. Cần có giải pháp
khuyến khích và thu hút FDI vào các địa phương trong cả nước, trong đó chú trọng tìm ra
các thế mạnh, lợi thế so sánh của từng địa phương để hướng FDI vào các địa phương và
cũng giúp giảm sức ép quá tải về hạ tầng cho các đô thị.
Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực: Giá nhân công rẻ, nguồn nhân lực
dồi dào là một lợi thế so sánh của Việt Nam khi thu hút FDI. Nhưng lợi thế này sẽ dần
mất đi khi nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy, lợi thế ở nguồn nhân lực sẽ được khai
thác ở khía cạnh nhân lực có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao, có kinh nghiệm quản lý, sẵn
sàng đáp ứng được với trình độ công nghệ mới và hiện đại. FDI là một kênh đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, cần chủ động phát triển nguồn nhân lực của Việt
Nam theo hướng chuyên môn hoá, tập trung đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật, tay nghề
và trình độ quản lý tốt để chủ động hơn, sẵn sàng nắm bắt và tiếp nhận công nghệ ở trình
độ cao.
Một ví dụ là, Tập đoàn IBM dự định sẽ tuyển 250 chuyên gia công nghệ thông tin
vào làm việc tại Trung tâm Dịch vụ toàn cầu của tập đoàn này tại Việt Nam, và Trung
tâm này có thể tiếp nhận từ 3.000 đến 5.000 lao động Việt Nam có trình độ cao về công
nghệ thông tin vào làm việc. Tuỳ thuộc vào tốc độ phát triển, tập đoàn này tuyên bố có

thể tiếp nhận 20.000 lao động có trình độ nếu Việt Nam đáp ứng đủ5. Tuy nhiên thực tế
hiện nay, Việt Nam chưa đáp ứng đủ số lượng lao động có trình độ cao theo yêu cầu của
khu vực FDI nói riêng và nhu cầu của xã hội nói chung.
Mặc dù còn có nhiều hạn chế, nhưng bằng những đóng góp cụ thể vào tăng
trưởng, tạo công ăn việc làm, tăng thu ngân sách, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy hội
nhập kinh tế quốc tế đã chứng minh vai trò quan trọng của FDI trong nền kinh tế của Việt
Nam.
Tuy nhiên vai trò của FDI chỉ thực sự phát huy hiệu quả và góp phần vào sự phát
triển bền vững khi nó được lựa chọn và khuyến khích vào những ngành, những khu vực
thật sự cần thiết cho nền kinh tế để đảm bảo tính bền vững cho phát triển lâu dài và phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam.
o"6[&`':A'a64 #p"Y -

 !"#$
%&'()*+,&-.)(/"
01(2,33$4
 /"
q4 #k2J4&` #:"$12
Theo kinh nghiệm phát triển thì đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi
phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước . Trong lịch sử phát triển các nước và
trênphương diện lý luận chung, bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là
chính . Sự chi viện bổ sung từ bên ngoài chỉ là tạm thời, chỉ bằng cách sử dụng nguồn
vốn đầu tư trong nước có hiệu quả mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được
các mục tiêu quan trọng đề ra của quốc gia.
56789:99;
059:99)<)=! **<)(9..,>/!
 *'*?@=(AB1')
C*,*'&>7=D@EF'*E7-
G/)7HE! /&-<-*C*I,
(!1*'GJ)"?KIB1&+,

FH?&9:99J(=4=LKM)!N
!"O*E>7*&9.!1,&-&!1
?673)*"O/-P.! 
9:99?K>H?73<%/P/&?K<Q3P
1,@&-<-*?<AGJ)&<-*?@7R
q "6[&` r+6&\2 $.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ
của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
qVốn đầu tư từ các doanh nghiệp
Đây là nguồn vốn có sự phát triển và đổi thay khá mạnh khi nền kinh tế có sự
chuyển biến. Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành
pháp luật. Nên nguồn vốn xuất phát từ nó có vai trò hữu hiệu hỗ trợ cho sự định hướng
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
qVốn đầu tư của nhân dân
Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu của các
hộ gia đình. Đây là một lượng vốn lớn. Nhờ có lượng vốn này mà đã góp phần giải quyết
tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp, nó cũng giải quyết được một phần lớn công
ăn việc làm cho lao dộng nhàn rỗi trong khu vực nông thôn từ đó thúc đẩy quá trình tăng
trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Như vậy vốn đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh
tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và lâu bền. Tuy
nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích luỹ thấp thì việc tăng
cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng.
*9*D.S/!1,&.
1T*D<+7! *P<<'*UI>V
*7E"01($W<-7
X)YZ+7D*S[)<)/"0
\*%&D*1)(]4W^_`+7
1$"T^_`7'-(1)5<$*"0.aL*I-S

EI5*8<*DN(>4bcde&EF
*bfdgR;
hiY0-<-*T)?*Q(G$*"
01IB17EL,K/./(*%7-G/
7-B4F$B!bW7'*$7E<4*-'
L**$,W!"
hZYj*@3/)=*
E&k<-*-HK1-(@*@(EG/B"
hZYj.SE*6?/(D6E1*?
"076l.=mK
N(>48cde;
061D*1?! Dfdg7*kJ.
-!1/"j1Qfdg<+7*"9*cde
.! *I\*FPE* &?
'D6E"QcdeI]W
/'*)*=
"
6I(B T6U7"&'M<6 $28C`a64$ ,':-L'Cb4:M*
!"&`-e'A6f
Tiết kiệm và đầu tư thấp => tốc độ tích lũy vốn thấp => Năng suất thấp => Thu
nhập bình quân thấp => Tiết kiệm và đầu tư thấp => …
K4($V") !"&`+;Us2:"'"
Việc tăng vốn từ cổ đông hiện hữu chỉ thuận lợi khi cổ đông hiện hữu có sức mạnh
tài chính và không muốn giảm tỷ lệ sở hữu; sẽ bất lợi nếu cổ đông hiện hữu không đủ sức
mạnh tài chính. Đặc biệt, nếu cổ đông hiện hữu bị yêu cầu phải rút vốn đầu tư ngoài
ngành và thanh khoản thị trường gặp khó khăn, việc tăng vốn từ cổ đông hiện hữu sẽ rất
khó.
Tăng vốn từ phát hành thêm cổ phiếu chỉ thuận lợi khi thị trường cổ phiếu tăng
trưởng tốt, song thị trường chứng khoán hiện đang khó khăn và chưa sớm khởi sắc, do
thanh khoản còn yếu.

Phương án tăng vốn qua bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài rất có
lợi, vì nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh và nhiều kinh nghiệm quản lý.
Trong khi phương án sáp nhập với ngân hàng nội chỉ phù hợp khi một ngân hàng mạnh
sáp nhập với ngân hàng yếu hơn.
Phương án cuối cùng là phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 trên thị trường quốc
tế. Ngân hàng có tên tuổi trên thị trường và có tiềm lực tài chính phù hợp với cách này,
bởi chi phí phát hành lớn hơn nhiều so với phát hành cổ phiếu. Thời điểm này, tôi nghĩ 3
phương án sau cùng là phù hợp nhất để ngân hàng tăng vốn.
)2()(C%#?"6Z#?"&`2J4"'" $V"CD
Biện pháp kinh tế
Biện pháp kinh tế là biện pháp dựa vào yếu tố mang tính vật chất mà ngân hàng
thông qua nó tác động đến nhu cầu và tâm lý của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
mình.
Để nâng cao hiệu quả huy động vốn, biện pháp kinh tế mà ngân hàng có thể áp
dụng đối với khách hàng là chính sách lãi suất huy động hấp dẫn, tổ chức khuyến mãi
tặng quà cho khách hàng gửi lớn, gửi nhiều, khách hàng truyền thống thông qua cơ chế
huy động.
Biện pháp kỹ thuật
Biên pháp kỹ thuật là những biện pháp mang tính kỹ thuật trong nghiệp vụ huy
động vốn nhằm tạo cho công tác huy động cũng như hoàn trả tiền gửi, thanh toán giao
dịch cho khách hàng một cách nhanh chóng thuận lợi và chính xác. Biện pháp kỹ thuật
trong mở rộng huy động vốn của ngân hàng sẽ bao gồm những giải pháp mang tính chất
công nghệ, tăng tiện ích phục vụ khách hàng và những giải pháp nâng cao trình độ nghiệp
vụ của nhân viên, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào công tác huy động vốn.
Biện pháp tâm lý
Tâm lý khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng ngoài việc được hưởng lãi suất
ngân hàng trả cao, phục vụ thanh toán kịp thời, còn là sự yên tâm và cảnh giác an toàn
cao. Vì vậy, đáp ứng được yêu cầu đó về mặt tâm lý đó của khách hàng, tức là tạo sự uy
tín và lòng tin đối với khách hàng là yếu tố thành công cho hoạt động huy động vốn của
ngân hàng. Ngày nay các NHTM luôn không ngừng hoàn thiện mình và nâng cao uy tín

trên thị trường để thu hút khách hàng. Việc ngân hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi đã
phần nào đêm lại sự yên tâm cho khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
Ngoài yếu tố khách hàng thì chính sách khuyến khích nhân viên ngân hàng đóng
vai trò quan trọng. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao tiền lương và thu nhập cho cán
bộ thì cần thiết phải chăm lo đời sống tinh thần cho nhân viên, đó là: Niềm vui và sự
thoải mái trong công việc, được kính trọng, được giao tiếp rộng rãi, khen thưởng kịp thời,
tạo điều kiện thăng tiến đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của ngân hàng.
Ngoài ra, việc quảng bá uy tín, tên tuổi của ngân hàng trên các phương tiẹn quảng
cáo, truyền thông cũng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp của ngân hàng. Từ đó củng cố niềm tin và
tâm lý yên tâm của khách hàng khi họ gửi tiền vào ngân hàng.
Các biện pháp kinh tế, kỹ thuật nêu trên cũng có tác dụng tác động vào tâm lý
khách hàng và nhân viên ngân hàng, từ đó tạo ra xu hướng tốt hơn trong công tác huy
động vốn của ngân hàng.
Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tâm lý có tác động tích
cực đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và tất yếu có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả
công tác huy động vốn của các NHTM.
KtPgiuv@wt
@
- Dự báo xu hướng thúc đẩy việc mở rộng quy mô vốn tự có của các NHTMCP
- Giải pháp từ phía các NHTMCP: Cân nhắc kĩ việc phát hành cổ phiếu. Chọn cổ
đông chiến lược là các tập đoàn ngân hàng nước ngoài và đa dạng hóa danh mục các đối
tác chiến lược. Xây dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở tình hình thực tế, sử dụng vốn
tăng thêm có hiệu quả. Cân đối quyền lợi của các cổ đông khi thực hiện chính sách chia
cổ tức bằng cổ phiếu. Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tự có tăng
thêm rõ ràng và chi tiết hơn. Các NHTMCP nhỏ nên hợp tác với nhau để tạo nên sức
mạnh tổng hợp.
`2J4@
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật của
ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là điều
kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần

kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay,
thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng
nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân
hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ xung thêm
vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của
ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc về
sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài để hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn
của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích khác
nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu tư hay góp vốn liên
doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh toán khi Ngân hàng gặp rủi ro.
Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định năng lực và sự phát triển của NHTM. Vốn tự
có của Ngân hàng được hình thành căn cứ vào hình thức tổ chức của NHTM là: NHTM
quốc doanh, NHTM cổ phần hay NHTM liên doanh…
Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động của ngân hàng gia tăng vốn của chủ
theo nhiều phưong thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và các quỹ như: Quỹ
dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt và quỹ khác.
Nguồn nội bộ (nguồn từ lợi nhuận): Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không,
chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành
vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy từ lợi
nhuận và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm có thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy
từ lợi nhuận sẽ cao hơn với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bên ngoài: Là nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng quy
mô hoạt động hoặc để đổim mới trang thiết bị hay để đáp ứng yêu cầu vốn của chủ do
ngân hàng nhà nước quy định.
• Nếu phát hành cổ phiếu thường phải chia sẻ quyền lực và lợi nhuận
• Nếu phát hành cổ phiếu ưu đãi thì không chia sẻ quyền lực và lợi tức là cố định
• Nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi thì không mất quyền sở hữu và lợi nhuận có

thể chuyển đổi ra tiền tiết kiệm nhưng trái phiếu vẫn là một khoản nợ và ngân hàng phải
để một khoản quỹ để trả nợ.
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thuờng xuyên song giúp ngân
hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
Các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Là quỹ được dùng với mục đích tăng cường vốn
tự có ban đầu. Lợi nhuận hàng năm bổ sung vào quỹ này cho đến khi đạt 50% vốn tự có
thì sẽ chuyển thành vốn tự có.
- Quỹ dự trữ đặc biệt: Là quỹ dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình kinh
doanh nhằm bảo toàn vốn.
- Các quỹ khác: Gồm có lợi nhuận chưa phân phối, quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố định.
Các quỹ trên thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành là từ thu nhập của
ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là
một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ xung) do nguồn này có một số đặc điểm
như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi
đến hạn.
Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh
toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng chỉ có
quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng thời hạn cả
gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút.Vốn huy động đóng vai trò rất quan
trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần kinh tế
trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở rộng tín dụng. Nhưng
nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp
lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động gồm có: Vốn tiền gửi và phát hành
những giấy tờ có giá.

.K()("W("$x"9: 6I( Y( !""6[&`n-
- Mở các lớp tập huấn giúp người dân hiểu rõ về nền kinh tế thị trường, hiểu rõ họ
muốn làm gì, đang làm gì và sẽ làm gì.
- Nhà nước hỗ trợ cho người dân tiếp cận vốn dễ dàng, bỏ bớt các thủ tục rườm rà.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế nông thôn toàn diện và hợp lý.
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế nông thôn toàn diện và hợp lý bao gồm cả nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ có vai trò to lớn trong giải quyết
việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Lao động nông thôn có trình độ hạn chế. Muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội
nông thôn, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn thì công tác đào tạo nghề là vô
cùng quan trọng. Công tác đào tạo nghề cần phải xem xét đến nhu cầu xã hội, đặc biệt là
khâu tiêu thụ sản phẩm.
- Nhà nước tăng cường cho nông dân vay vốn kết hợp với công tác khuyến nông
và khuyến công.
Việc cung cấp vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân là hết
sức cần thiết. Tuy nhiên, người nông dân nhiều khi không giám vay vốn vì không biết
đầu tư vào đâu, vay vốn làm gì và làm như thế nào. Vì thế cần kết hợp việc cung cấp vốn
cho nông dân với công tác khuyến công và khuyến nông, giúp người nông dân sử dụng
nguồn vốn có hiệu quả.
- Tăng cường áp dụng KHKT vào sản xuất kết hợp với đẩy mạnh cơ giới hóa.

×