Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mục lụC
Lời nói
đầu .. 4
Phần nội dung .
6
Chơng 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối liên hệ phổ
biến
.. 6
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến . 6
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi phải rút ra quan điểm toàn
diện và quan điểm lịch sử cụ
thể ... 8
Chơng 2: Biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc
tế . 9
1. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế-xu thế, thời cơ và thách
thức
9
2. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tạo thế cân bằng giữa lợi ích của
quốc gia dân tộc với lợi ích kinh tế toàn
cầu .. 15
3. Hội nhập kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là mối liên hệ
phổ biến mang tính khách quan
. 17
Chơng 3: Hội nhập kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nớc ta
hiện
nay ..
17
1. Tình hình kinh tế nớc ta hiện
nay ... 17
2. Nớc ta xác định: phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực
từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền
vững . 20
3. Giải
Pháp .. 21
Lời
kết24
Các tài liệu tham khảo .. 25
Các kí hiệu viết tắt
2
CNDVBC Chủ nghĩa duy vật biện chứng
KHCN Khoa học công nghệ
KHKT Khoa học kĩ thuật
TCH Toàn cầu hóa
HNKT Hội nhập kinh tế
XHCN Xã hội chủ nghĩa
GDP Thu nhập bình quân
FDI Đầu t trực tiếp nớc ngoài
Lời nói đầu
3
Sau hơn mời năm đổi mới, có thể nói kinh tế Việt nam đã đạt đợc
những thành tựu vô cùng to lớn. GDP đạt trung bìmh 7.6% từ năm 1999 đến
năm 2000, mức sống ngời dân đợc nâng lên rõ rệt và quan trọng nhất là chúng
ta làm cho thế giới có một cách nhìn mới về Việt Nam: Việt Nam không chỉ là
đất nớc của chiến tranh, Việt Nam còn là một đất nớc đầy tiềm năng phát triển
kinh tế. Tuy nhiên chúng ta cũng phải thừa nhận rằng kinh tế Việt Nam tuy đạt
đợc nhiều thành tựu nhng vẫn còn kém phát triển, khoa học kĩ thuật còn lạc hậu
ngay cả khi so sánh với các nớc trong khu vực. Chúng ta mới chỉ ra cho thế giới
thấy một Việt Nam đầy tiềm năng nhng chúng ta cha biến các tiềm năng đó
thành sự thực. Nếu đem so sánh với Nhật Bản, chúng ta thấy rằng: Nhật Bản là
một nớc hầu nh không có tài nguyên thiên nhiên lại hay gặp phải thiên tai trong
khi chúng ta luôn tự hào rằng chúng ta có rừng vàng, biển bạc. Con ngời Việt
Nam cũng không hề thua kém con ngời Nhật. Chúng ta thông minh, cần cù,
chịu khó và cũng không ít nhân tài. Nhng thực tế thì sao? Nớc Nhật chỉ trong
vòng hai mơi năm, từ một nớc chịu hậu quả nặng nề nhất trong chiến tranh thế
giới II, đã vơn lên đứng thứ 2 trên thế giới về phát triển kinh tế. Còn Việt Nam
chúng ta sau hơn 10 năm đổi mới vẫn mới chỉ thu đợc một số thành tựu và cho
đến năm 2000, với GDP 400 USD/ngời, Liên Hợp Quốc vẵn xếp nớc ta là một
trong những nớc ở mức under-poverty (dới mức nghèo đói). Câu hỏi đặt ra là:
chúng ta có nhiều tiềm năng hơn hẳn Nhật Bản nhng tại sao chúng ta vẫn cha có
một nền kinh tế phát triển thần kì nh Nhật Bản? Chúng ta luôn lấy lí do rằng
chúng ta phát triển kinh tế từ một xuất phát điểm thấp nhng cũng phải thừa nhận
rằng việc phân tích, đánh giá tình hình kinh tế thế giới và khu vực của chúng ta
còn kém dẫn đến chúng ta bỏ lỡ quá nhiều cơ hội trong tầm tay.
Hiện nay, toàn cầu hoá kinh tế đang trở thành một xu thế của thời đại.
Tích cực mà toàn cầu hoá đem lại cũng nhiều mà tiêu cực thì cũng không ít. Nói
về toàn cầu hoá, có ngời cho rằng toàn cầu hoá đem lại rất nhiều lợi ích. Toàn
cầu hoá đem lại vốn, công nghệ cho các quốc gia để phát triển kinh tế trong n-
ớc, nh là một chiếc phao cho những nớc đang phát triển vịn lấy để bơi đến
4
con thuyền kì diệu của những nền kinh tế phát triển. Theo đó mà Việt Nam
cần phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phải mở rộng cửa ngay để nắm lấy
cơ hội trong tầm tay này. Lại có ngời cho rằng toàn cầu hoá chỉ là công cụ của
những nớc phát triển đặc biệt là Mỹ và các nớc phơng tây, sử dụng để chèn ép
các nớc đang phát triển nhằm thu đợc những lợi nhuận kếch xù. Toàn cầu hoá là
cái phao thật đấy nhng dây phao thì có thể thành dây thòng lọng với bất
kì nền kinh tế nào. Chính bởi vậy mà Việt Nam cần phải thận trọng, dè dặt, phải
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, không nên nôn nóng vội vàng. Vậy thực
sự, toàn cầu hoá là gì? Và Việt Nam chúng ta cần phải làm gì để tận dụng đợc
tối đa những mặt tích cực mà toàn cầu hoá đem lại? Qua việc nghiên cứu về một
nguyên lý rất cơ bản của chủ nghĩa duy vật biên chứng Mác-Lênin về mối liên
hệ phổ biến, bài tiểu luận này sẽ giải thích vì sao chúng ta phải xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ trong khi vẫn phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta sẽ thấy rằng mối liên hệ, tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế hiện nay chỉ là một sự vận dụng tài tình của nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến. Không có một quốc gia nào nằm ngoài mối liên hệ và Việt Nam
với tiềm năng sẵn có của mình, thông qua toàn cầu hóa hoàn toàn có thể có một
nền kinh tế phát triển thần kì nh Nhật Bản nếu chúng ta có kế sách và hớng đi
đúng.
Phần Nội Dung
5
Chơng 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối
liên hệ phổ biến
1/ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mối liên hệ phổ biến là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật hiện tợng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tợng
trong thế giới.
Nh vậy, theo quan điểm của CNDVBC thì các sự vật hiện tợng vừa tồn
tại độc lập, lại vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng
hạn nh lực hấp dẫn giữa mặt trăng và trái đất tạo nên hiện tợng thủy triều, và
hiện tợng thủy triều, đến lợt nó sẽ tác động đến mọi hoạt động của con ngời trên
trái đất. Hay nh sự bùng nổ dân số sẽ tác động trực tiếp đến các vấn đề kinh tế,
giáo dục, y tế, môi trờng Quan điểm này cũng đồng thời bác bỏ quan điểm
siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tợng tồn tại biệt lập , tách rời nhau, cái này
tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì đó chỉ là những quy định bên
ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Hay nếu có những mối liên hệ vô cùng đa dạng
giữa các sự vật, hiện tợng thì không thể có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối
liên hệ.
CNDVBC cũng khẳng định cơ sở của mối liên hệ này chính là tính
thống nhất vật chất của thế giới. Do đó, các sự vật, hiện tợng dù có phong phú,
đa dạng đến mấy thì cũng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Vì vậy, mà sự vật, hiện tợng trong thế
giới không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Và chúng cũng chỉ bộc
lộ đợc bản chất, tính quy luật và biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận
động, sự tác động qua lại lẫn nhau đó. Cũng nh chúng ta chỉ có thể đánh giá bản
6
chất của một con ngời cụ thể thông qua mối liên hệ, sự tác động của con ngời
đó với ngời khác, với xã hội, tự nhiên, thông qua hoạt động của chính ngời ấy.
Ngay cả tri thức của con ngời, cũng chỉ có giá trị khi chúng đợc vận dụng vào
hoạt động cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính con ngời.
1.2. Tính chất của mối liên hệ:
Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tợng đều là khách quan, vốn có
của mọi sự vật, hiện tợng. Ngay cả những vật vô chi, vô giác cũng đang hàng
ngày chịu tác động của các sự vật, hiện tợng bên ngoài nh nhiệt độ, độ ẩm, áp
suất và đôi khi là cả sự tác động của con ng ời. Con ngời-một sinh vật phát
triển cao nhất trong tự nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn phải chịu tác động
bởi các sự vật, hiện tợng khác và ngay cả những yếu tố trong chính bản thân con
ngời. Là một bông hoa rực rỡ của tự nhiên, ngoài sự tác động của tự nhiên nh
mọi sinh vật khác, con ngời còn chịu tác động bởi vô vàn các mối quan hệ xã
hội, và chính các mối quan hệ xã hội này giúp cho con ngời hình thành nhân
cách. Vấn đề đặt ra là con ngời phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng
vào hoạt động của mình, giải quyết các mối quan hệ sao cho phù hợp nhằm
phục vụ nhu cầu, lợi ích của xã hội và của bản thân con ngời.
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ
biến. Thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tợng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tợng
khác, không có sự vật, hiện tợng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại
ngày nay, không có một quốc gia nào không có mối liên hệ với các quốc gia
khác về kinh tế cũng nh mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên
thế giới xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt của đời sống kinh
tế xã hội. Nhiều vấn đề đã trở thành vấn đề toàn cầu nh: đói nghèo, ô nhiễm môi
trờng, sự bùng nổ dân số
Thứ hai, mối liên hệ có thể biểu hiện dới những hình thức riêng biệt, cụ
thể tùy theo điều kiện nhất định. Song dù dới hình thức nào, chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
7
Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tợng trong thế giới ta còn
thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ
bên ngoài; có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ chung
bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh
vực riêng biệt của thế giới đó; có mối liên hệ bản chất, có mối liên hệ không
bản chất Tính đa dạng đó là do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và
phát triển của chính các sự vật và hiện tợng quy định. Các loại liên hệ khác
nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tợng.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự
vật; nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự
vật đó. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tợng khác
nhau nói chung, nó không có ý nghĩa quyết định; hơn nữa, nó thờng phải thông
qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động và phát
triển của sự vật. Chẳng hạn sự phát triển của một cơ thể động vật trớc hết và chủ
yếu là do các quá trình đồng hóa và dị hóa trong cơ thể đó quyết định; môi tr-
ờng (thức ăn, không khí ) dù có tốt đến mấy chăng nữa nh ng khả năng hấp thụ
kém thì con vật ấy cũng không thể lớn nhanh đợc. Tơng tự nh vậy, toàn cầu hóa
kinh tế đang là một xu thế trên thế giới, vừa tạo ra thời cơ, vừa tạo ra thách thức
to lớn đối với tất cả các nớc đang phát triển. Nớc ta có tranh thủ đợc thời cơ hay
không, có hạn chế đợc những mặt tiêu cự của toàn cầu hóa hay không, trớc hết
phụ thuộcvào năng lực của Đảng, của Nhà nớc và của nhân dân ta.
Song cơ thể cũng không thể sống đợc nếu thiếu môi trờng. Chúng ta
khó có thể phát triển kinh tế, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, không tận dụng đợc những thành tựu KHCN
mà thế giới đã đạt đợc. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng rất quan
trọng, đôi khi đóng vai trò quyết định.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ này chỉ mang tính tơng đối, vì mỗi
loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên
8
hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa cho nhau
tùy theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát
triển của chính các sự vật.
2/ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi phải rút ra đợc quan điểm
toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể:
Từ việc nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tợng,
chúng ta cần rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự
vật, hiện tợng cũng nh trong hoạt động thực tiễn.
Với t cách là một nguyên tắc phơng pháp luận trong việc nhận thức các
sự vật và hiện tợng, quan điểm toàn diện đòi hỏi: để có đợc một nhận thức đúng
về sự vật, chúng ta cần phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó và trong cả
mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các vật khác (kể cả trực tiếp và gián
tiếp).
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức đợc sự vật,
chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con ngời.
ứng với mỗi con ngời, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định,
con ngời bao giờ cũng chỉ phản ánh đợc số lợng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi
vậy, tri thức đạt đợc về sự vật cũng chỉ là tơng đối, không đầy đủ, không trọn
vẹn. ý thức đợc điều đó chúng ta sẽ tránh đợc việc tuyệt đối hóa những tri thức
đã có về sự vật, và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể
bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức đợc sự vật, chúng ta cần phải
nghiên cứu tất cả các mối liên hệ , cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề
phòng cho chúng ta những sai lầm và sự cứng nhắc (V.I.Lênin).
Xem xét toàn diện các mối liện hệ của sự vật không phải là xem xét
một cách dàn trải, đồng loạt nh nhau mà phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của
từng mối liên hệ. Từ trong mối liên hệ ấy, trớc hết phải rút ra đợc những mối
liên hệ cơ bản chủ yếu-những mối liên hệ quy định bản chất và phơng hớng vận
9
động, phát triển của sự vật đang chi phối những mối liên hệ khác, và do đó, cho
phép thống nhất tất cả các mối liên hệ của sự vật thành một hệ thống hoàn
chỉnh. ở đây, từ yêu cầu xem xét toàn diện chuyển thành yêu cầu xem xét có
trọng tâm, trọng điểm. Nhờ đó mà nhận thức đợc bản chất của sự vật.
Sau khi vạch ra đợc mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, chủ thể phải xuất phát
từ mối liên hệ ấy để giải thích các mối liên hệ khác của sự vật. Nh thế là từ việc
xem xét có trọng tâm, trọng điểm lại chuyển thành việc lý giải toàn diện sự vật.
Nhng đến đây, tính toàn diện đã khác hẳn: nếu trớc đây tất cả các mối liên hệ đ-
ợc xem xét cái này bên cạnh cái kia, có vai trò nh là căn cứ đầy đủ để từ đó rút
ra đợc một cách chính xác mối liên hệ căn bản, thì bây giờ chúng đợc xem xét
trong mối liên hệ tác động qua lại với nhau, phù hợp với mối liên hệ cơ bản, với
vai trò nh là điều kiện để giải quyết mối liên hệ cơ bản, bảo đảm tính đồng bộ
trong việc nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn của sự vật, thúc đẩy sự vật
phát triển.
Tóm lại nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét tất cả các mối liên
hệ của sự vật, coi chúng là cơ sở, là căn cứ đầy đủ rút ra đợc bản chất của sự
vật. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải chống lại chủ nghĩa chiết trung, luôn tỏ
ra chú ý đến nhiều mặt nhng thực lại không biết rút ra đợc mặt bản chất, mối
liên hệ căn bản, dẫn tới xem xét mối liên hệ một cách bình quân, kết hợp vô
nguyên tắc, khiến cho sự vật trở nên hỗn tạp, cuối cùng dẫn đến sự lúng túng
bất lực trớc chúng. Nguyên tắc toàn diện cũng bác bỏ thuyết ngụy biện khi quy
tất cả các mặt riêng biệt thành mặt phổ biến, dẫn đến xuyên tạc mối liên hệ toàn
diện và tính chất mềm dẻo, linh hoạt của các khái niệm, phạm trù.
Cần lu ý rằng mọi sự vật đều tồn tại trong không gian, thời gian nhất
định và mang dấu ấn của không gian, thời gian đó. Do vậy, chúng ta cần có
quan điểm lịch sử-cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt
ra. Việc quán triệt quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới
hoàn cảnh, lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển
của nó, tới bối cảnh hiện thực-cả khách quan lẫn chủ quan. Khi xem xét một
10
quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những mối quan hệ nh vậy.
Chân lý sẽ trở thành sai lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn của nó.
Nh vậy, muốn đánh giá đúng tình hình, muốn nhận thức đợc bản chất
của sự vật và giải quyết tốt sự việc ta cần phải quán triệt quan điểm toàn diện.
Bên cạnh đó cũng cần phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể để có thể xác
định đợc xu hớng phát triển của sự vật, hiện tợng, hạn chế đợc những mặt tiêu
cực, phát huy đợc nhân tố tích cực của điều kiện, hoàn cảnh khách quan.
Chơng 2: Biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
1/ Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế-xu thế, thời cơ và thách thức.
1.1. Bản chất của toàn cầu hóa:
Toàn cầu hóa là một thuật ngữ xuất hiện nhiều nhất kể từ thập niên 90
của thế kỉ XX đến nay. TCH là một quá trình có tính đa diện, nó tác động đến
mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Có thể nói TCH đã và đang trở thành một
trong những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế đơng đại.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về toàn cầu hóa, đã có hàng
trăm khái niệm về TCH khác nhau đợc các học giả trong và ngoài nớc đề cập
đến. Một số học giả coi nó là một khái niệm chính trị; một số khác cố gắng làm
sáng tỏ khái niệm toàn cầu hóa trong phạm vi phát triển kinh tế; lại có những
ngời chú trọng phân tích các tác động tích cực hoặc tiêu cực của TCH. Nhng dù
đánh giá ở góc độ nào, cuối cùng đa số đều đi đến một khái niệm hàm chứa đầy
đủ những đặc trng của TCH-một khái niệm chung nhất với những nội dung cơ
bản:
Toàn cầu hóa là quá trình làm tăng lên mạnh mẽ những mối liên
hệ ảnh hởng, tác động lẫn nhau, của tất cả các khu vực, các quốc gia, các
dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến cố có quan hệ lẫn nhau mà
từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới. Toàn cầu hóa khiến
11
cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, làm sâu sắc hơn sự chuyên môn hóa
và phân công lao động quốc tế, kích thích gia tăng sản xuất không chỉ ở cấp
độ quốc gia mà còn mở rộng ra trên toàn thế giới.
Khái niệm trên đa đến cho chúng ta nhận thức rằng, TCH đang đụng
chạm đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhng biểu hiện rõ nhất là toàn
cầu hóa về kinh tế. Vậy TCH bắt nguồn từ đâu? Do điều kiện khách quan hay
cho ý muốn chủ quan của con ngời? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ở phần tiếp theo
này.
1.2. Nguyên nhân của toàn cầu hóa:
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngời, TCH nói chung bắt nguồn
từ những giao lu văn hóa, từ buôn bán, di dân, từ sự mở rộng các tôn giáo ra
ngoài phạm vi biên giới các quốc gia và cho đến nay là sự phát triển của một
loạt các công ty xuyên quốc gia, các ngân hàng và các tổ chức quốc tế, là sự
trao đổi công nghệ, sự phát triển gắn với hiện đại hóa
Gốc rễ xâu xa củaTCH, làm cho sự xuất hiện và biến đổi của nó trở
thành một xu thế khách quan và phổ biến với đời sống quốc tế là ở sự phát
triển của lực lợng sản xuất đã vợt ra khỏi khuôn khổ của từng nớc, từng khu
vực, trở thành lực lợng sản xuất có tính chất quốc tế và quy mô thế giới.
Chúng ta không thể phủ nhận rằng, ở khắp mọi nơi, trong từng văn phòng, trong
từng công ty, các viện nghiên cứu, các trờng đại học trên toàn thế giới ngời ta
đang soạn thảo các báo cáo, văn bản với một công cụ hỗ trợ giống nhau là một
máy tính cá nhân với phần mềm Microsoft Word, quản lý thống kê tài chính với
phần mềm Excel , ở bất cứ một bệnh viện nào trên toàn cầu ng ời ta cũng thấy
có các máy chụp X-quang cắt lớp, các dao phẫu thuật sử dụng tia laze, các thiết
bị nội soi , các nhà quản lý kinh tế đều đ ợc trang bị những kiến thức nh nhau
để quản lý và điều hành các công ty Có thể nói, lực l ợng sản xuất đã mang
tính xã hội hóa trên toàn thế giới.
Nguyên nhân thứ hai của TCH là phân công lao động quốc tế đã đạt
tới trình độ rất cao, không chỉ giới hạn ở chuyên môn hóa sản phẩm mà đã là
chuyên môn hóa các chi tiết sản phẩm cho mỗi quốc gia. Phơng châm kinh
12
doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nớc làm phân xởng của mình,
mà qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng đợc u thế kĩ thuật, tiền
vốn, sức lao động và thị trờng của các nớc, góp phần thúc đẩy quốc tế hóa sản
xuất phát triển lên nhanh chóng. Thí dụ, một loại xe của hãng Toyota, mặc dù
sản xuất tại Nhật Bản nhng có đến 25% linh kiện đợc sản xuất ngoài nớc.
Việc phát triển lực lợng sản xuất và phân công lao động trên phạm vi
quốc tế có sự đóng góp rất lớn của những thành tựu KHCN và sự tích tụ, tập
trung sản xuất. Cách mạng khoa học-công nghệ hiện nay, đặc biệt với các
ngành công nghệ mũi nhọn nh công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa đã và đang thúc đẩy sự phát triển v-
ợt bậc của lực lợng sản xuất. Giao thông vận tải và thông tin liên lạc cũng đang
ngày càng phát triển, góp phần không nhỏ tạo nên thị trờng thế giới mà ở đó có
sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tất yếu giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia
dân tộc.
Cùng với các nhân tố nêu trên, sự xuất hiện và bành trớng của các
công ty xuyên quốc gia với những lợi thế về quy mô vốn lớn, kĩ thuật hiện
đại, quản lý tiên tiến và mạng lới thị trờng rộng lớn, chi phối hầu hết các
hoạt động đầu t nớc ngoài cũng là một nhân tố làm xuất hiện và phát triển
mạnh mẽ xu thế toàn cầu hóa. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia cho
phép họ lựa chọn các nguồn nguyên liệu, mở rộng sản xuất và chinh phục thị tr-
ờng các nớc khác, đồng thời thích ứng đợc với những điều kiện không ngừng
thay đổi. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, năm 1996, thế giới có 44.000 công
ty xuyên quốc gia, theo đó có vào khoảng 28 vạn công ty con, tổng giá trị sản
xuất chiếm 40% GDP thế giới, mậu dịch chiếm 50% của thế giới, tổng kim
ngạch tài sản năm 1996 lên đến 3200 tỷ USD, đầu t trực tiếp nớc ngoài của các
công ty này chiếm đến 90% đầu t trực tiếp của thế giới. Bên cạnh đó, để tồn tại
và phát triển đợc trong cạnh tranh, hiện nay cũng có nhiều công ty tìm đến con
đờng là sát nhập để tăng vốn và mở rộng thị trờng. Chẳng hạn nh vụ sát nhập
của 3 ngân hàng lớn ở Nhật Bản vào tháng 8-1999 với số vốn lên đến 1200 tỷ
USD đã bằng tổng giá trị vốn sát nhập của 7700 vụ sát nhập năm 1998.
13
Nguyên nhân tiếp theo dẫn đến TCH là tự do hóa thơng mại và các
hình thức tự do kinh tế khác, đã khiến các quốc gia phải hạn chế chính sách
bảo hộ mậu dịch và làm cho mậu dịch thế giới trở nên tự do hơn. Kết quả là
biểu giá giảm mạnh, nhiều rào cản thuế quan trong buôn bán hàng hóa và dịch
vụ bị loại bỏ. Các hình thức tự do hóa khác đã làm gia tăng sự chuyển dịch vốn
vào các yếu tố sản xuất còn lại.
Sự phát triển của toàn cầu hóa còn là do có sự đồng thuận toàn cầu
giữa các quốc gia dân tộc không kể chính trị xã hội về kinh tế thị trờng và hệ
thống mậu dịch tự do. Điểm khởi đầu của sự việc này đợc đánh dấu bằng cuộc
cải cách đợc tuyên bố ở Trung Quốc vào năm 1978 và sau là sự kết thúc chiến
tranh lạnh. Quá trình này dẫn đến một t tởng: thay cho mâu thuẫn giữa kinh tế
thị trờng của các nớc t bản Phơng Tây và kinh tế XHCN ở Liên Xô cũ và một số
các nớc ở Phơng Đông, trên thực tế hiện nay chỉ còn tồn tại cách nhìn thống
nhất toàn cầu về hệ thống kinh tế thị trờng, tạo điều kiện rất thuận lợi cho TCH
kinh tế.
Sự liên kết kinh tế giữa các quốc gia khiến cho một loạt các tổ chức
kinh tế, thơng mại, tài chính ra đời. Đó là tổ chức thơng mại thế giới WTO,
qũy tiền tệ thế giới IMF, ngân hàng thế giới WB, liên minh Châu Âu EU, khu
vực thơng mại tự do bắc Mỹ NAFTA, liên minh các nớc Đông nam á ASEAN
Thông qua các tổ chức kinh tế, thơng mại tài chính này, qui mô lu thông vốn
quốc tế phát triển cha từng thấy, tốc độ tăng trởng mậu dịch thế giới vợt xa tốc
độ tăng trởng kinh tế; các lĩnh vực hợp tác trong kinh tế không ngừng phát triển.
Bên cạnh đó, nhờ các thể chế riêng, các tổ chức này cũng góp phần bảo vệ
quyền lợi cho các thành viên. Do đó, việc liên kết kinh tế giữa các quốc đã và
đang trở thành một xu hớng chung.
Quá trình liên kết về kinh tế hiện đại tác động đến lĩnh vực chính trị,
dẫn đến sự hình thành các tổ chức phi chính phủ mà lớn nhất là Liên Hợp
Quốc. Liên Hợp Quốc cùng với các tổ chức của nó nh: WHO (tổ chức y tế thế
giới), FAO (tổ chức lơng thực thế giới, UNESCO (tổ chức văn hóa thế giới),
UNICEF (tổ chức về vấn đề trẻ em Liên Hợp Quốc) đang có ảnh h ởng lớn đến
14