Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Phân tích thực trạng tài nguyên rừng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.52 KB, 53 trang )

1
I . MỞ ĐẦU
Rừng là nguồn tài nguyên quan trọng của đất nước ta. Rừng không
những là cơ sở để phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng
sinh thái cực kì quan trọng: rừng tham gia vào quá trình điều hoà
khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxi, và các nguyên tố cơ bản khác
trên hành tinh, duy trì tính ổn định màu mở của đầt làm giẩm nhẹ
sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai bảo tồn nguồn nước và làm
giảm mức ô nhiễm không khí.
Tuy nhiên có một số nguyên nhân làm cho tài nguyên rừng ngày
càng thu hẹp, đó là áp lực về dân số của các vùng tăng nhanh,
nghèo đói, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên
rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn thấp kiến thức bản địa
chưa được phát huy hoạt động khuyến nông khuyến lâm chua phát
triển, chính sách nhà nước về quản lý rừng còn nhiều bất cập cơ
cấu xã hội truyền thống có nhiều thay đổi…
2
Vì vậy vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được
coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự phát triển kinh
tế xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi để thực hiện thành
công nhiệm vụ này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự
tham gia tích cực của cộng đồng dân cư và công tác quản lý bảo vệ
phát triển. Trong những năm gần đây nhà nước đã ban hành và áp
dụng nhiều chính sách tác động mạnh đến đời sống nhân dân như:
giao đất lâm nghiệp, khoán quản lý bảo vệ rừng, quy chết về quản
lý rừng phòng hộ quy chế hưởng lợi. Trong khi xây dựng các quy
định về quản lý bảo vệ rừng trong phạm vi cả nước phải nghiên
cứu và tính toán nhu cầu thực tế chính đáng của người dân mới có
thể đảm bảo tính khả thi của các quy định, đồng thời đảm bảo cho
rừng không bị khai thác quá mức ảnh hưởng xấu đến chức năng
của rừng tự nhiên.


3
II.NỘI DUNG
1. Hiện trạng:
Nằm trong vùng thuộc khu hệ rừng mưa nhiệt đới, rừng nước ta
nổi tiếng về tài nguyên gỗ, nhất là đặc sản có giá trị.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có tình trạng chung như những nước
đang phát triển khác, diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng. Theo
bản đồ rừng của Maurand vào năm 1945 thì nước ta có 14,352
triệu ha rừng, chiếm tỷ lệ 43,8% so với diện tích tự nhiên.
Theo số liệu điều tra của viện qui hoạch rừng thì đến năm 1975
còn 9,5 triệu ha rừng, chiếm 29,1% diện tích tự nhiên, đến năm
1981 còn 7,4 triệu, chiếm 24%, đến năm 1989 có 9,3 triệu, trong
đó có những rừng mới trồng.
4
Diện tích rừng ở Việt Nam so với diện tích đất tự nhiên
STT Khu vực Diện tích
đất tự nhiên
(1000 ha)
Diện tích
rừng (1000
ha)
Tỷ lệ %
diện tích
rừng/đất tự
nhiên (%)
1 Bắc Bộ 11.570 6.955 60,0
2 Trung Bộ 14.754 6.580 44,6
3 Nam Bộ 6.470 8.17 44,6
4 Cả nước 32.794 14.352 43,8
(Theo Maurand, 1945)

Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 -
1995). Rừng ngập mặn ven biển cũng bị suy thoái nghiêm trọng
5
giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các ao - đầm nuôi trồng
thuỷ hải sản thiếu quy hoạch.
Gần đây, diện tích rừng tuy có tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ
lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở mức khoảng 8% so với 50%
của các nước trong khu vực.
Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với
biến đổi khí hậu, trong các hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2010
của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn
và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo
vệ tài nguyên nước, giảm phát thải CO
2
.
• Trong vòng 25 năm qua, toàn bộ vùng rừng tự nhiên mất đi hơn 5
triệu ha ở cả vùng cao và vùng ven biển, trung bình mỗi năm mất
đi khoảng 250.000 ha. Trong mấy năm qua, diện tích rừng có chiều
6
hướng tăng lên, 28,2% theo thống kê đến năm 2004 thì độ che phủ
rừng toàn quốc lên đến 36,7% (bảng 3.2)
Bảng 3.2. Diễn biến về diện tích rừng ở Việt Nam (đơn vị
tính: 1.000.000ha)
Năm 194
5
197
6
198
0
198

5
199
0
199
5
199
9
200
2
200
4
Tổngdiệntích
(ha)
14,
30
11,
16
10,
60
9,8
9
9,1
7
9,3
0
10,
99
11,
78
12,

30
Rừng trồng
(ha)
0,0
0
0,0
1
0,4
2
0,5
8
0,7
4
1,0
5
1,5
2
1,9
1
2,2
1
Rừng tự
nhiên(ha)
14,
30
11,
07
10,
18
9,3

0
8,4
3
8,2
5
9,4
7
9,8
6
10,
89
Độ che phủ
(%)
43,
00
33,
80
32,
10
30,
00
27,
80
28,
20
33,
20
35,
8
36,

7
7
(nguồn:Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, Phần Đa dạng
sinh học, 2005)
2. Các kiểu rừng chính ở Việt Nam
Điều kiện tự nhiên khí hậu và các nhân tố khác đã tạo cho cây rừng
sinh trưởng và phát triển quanh năm, thảm thực vật rừng phong
phú đa dạng với nhiều kiểu rừng. Theo các nhà Lâm nghiệp, người
ta chia ra các kiểu rừng sau : (Báo cáo về hiện trạng môi trường
Việt Nam năm 1994, Cục Môi trường).
2.1. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới
Người ta còn gọi là rừng mưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới ẩm, kiểu
rừng này thường gặp trên các vùng núi cao, dưới 800 m ở phía
Bắc, cao trên 1000 m ở phía Nam, là kiểu rừng hỗn loài thuộc họ
quen thuộc ở vùng nhiệt đới như họ Đậu (Papilionoideae), họ Dầu
(Dipterocarpaceae), chúng phát triển tươi tốt thành nhiều tầng với
nhiều năm tuổi khác nhau. Ở kiểu rừng này còn có rất nhiều thực
8
vật phụ sinh như phong lan và cây dây leo thân cỏ (song mây) và
thân gỗ.
Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới có năng suất sinh học rất cao,
và có nhiều loài gỗ quí. Sự thuận lợi về môi trường, phong phú về
thức ăn đã tạo ra một quần thể động vật phong phú về chủng loại
và số lượng.
2.2 Rừng khộp
Còn gọi là rừng thưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới rụng lá, thường thấy
ở miền Nam tại các vùng có độ cao dưới 1000 m. Thành phần gồm
cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức độ khác nhau.
Trên nhiều vùng đất bằng phẳng ở Tây Nguyên thường đọng nước
trong mùa mưa, và cạn nước trong mùa khô, thêm vào đó lửa rừng

tàn phá thường xuất hiện rừng Khộp nghèo với vài loài cây họ Dầu
mọc thưa thớt, sinh trưởng chậm.
9
Trên sườn dốc, nơi có tầng đất sâu hơn hoặc có nước tương đối
thuận lợi hơn, nhất là ở vùng đất đỏ bazalt và ven sông suối thường
xuất hiện rừng khộp giàu có, thành phần loài phong phú, cây mọc
dầy thành nhiều tầng xanh tươi, cho nhiều gỗ cứng, gỗ quí với kích
thước lớn như : Giáng hương, Trắc, Cẩm lai, Gụ, Mun và nhiều
loài gỗ Sao, Dầu.
Rừng khộp là nơi tập trung của nhiều loài thú nổi tiếng vùng Châu
Á như: Hươu, Nai, Voi, Khỉ, Vượn trong đó có các loài thú quí
hiếm của thế giới như Bò xám Cuprey, Tê Giác.
Rừng khộp nghèo để tạo thành đồng cỏ chăn nuôi. Đất rừng khộp
giàu để phát triển cây công nghiệp, cây lương thực và cây ăn trái
Ở rừng này, người ta thường áp dụng lối canh tác nông lâm kết
hợp.
2.3. Rừng lá kim
Ở các vùng cao trên 1000 m ở phía Nam thích hợp với các loài
thực vật lá kim (Tùng, Bách, Thông 2 lá, Thông 3 lá) đã tạo nên
10
những cánh rừng bạt ngàn trên cao nguyên Lâm Đồng. Tùy theo độ
cao và chế độ ẩm cụ thể mà rừng thông có thể xen lẫn với cây lá
rộng của rừng Khộp hoặc của rừng thường xanh Á nhiệt đới.
Rừng thông ở đây cung cấp gỗ xây dựng, gỗ gia dụng, làm bột
giấy. Nhựa thông dùng để chế biến colofan, dầu thông, nhiều loại
hóa chất khác nhau là những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Ở
dưới tán rừng thông hoặc xen kẻ với cây công nghiệp, cây thuốc,
cây ăn trái hoặc các đồng cỏ chăn nuôi.
Ở các vùng cao trên 1500 m thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn cũng
có rừng lá kim, nhưng khu vực nhỏ hơn, thường gặp là thông,

Pơmu là loại quí.
2.4. Rừng thường xanh lá rộng Á nhiệt đới
Thường gặp ở các vùng núi cao trên 800 m ở phía Bắc, phần lớn
gồm các cây hiện diện thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Long Não
(Lauraceae), họ Thạch Nam (Ericaceae) và các cây Tre, Nứa (họ
11
Poaceae). thực vật phụ sinh phát triển mạnh, thường là Phong lan
(Orchidaceae), ráng đuôi phụng, ráng tổ rồng (Polypodiaceae) và
các cây Thảo quả (họ Zingiberaceae). Ở vùng rừng này, người ta
thường trồng những cây thuốc như: Đỗ Trọng (họ Eucommiaceae),
Quế (họ Lauraceae), Nhân sâm (họ Araliaceae)
2.5. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi
Thành phần thực vật trên núi đá vôi khá phong phú, chủ yếu là
rừng thường xanh, cây rụng lá chiếm tỷ lệ nhỏ. Các loài cây đặc
hữu của vùng này gồm : Nghiến (họ Tilliaceae), cây Kim giao (họ
Podocarpaceae), cây Trai ly (họ Clusiaceae) là những loại gỗ quí,
thường chúng có đặc điểm chung là ưa Calci, chịu hạn, ít chịu
chua. Nhiều loài vừa có bộ rễ phát triển sâu, vừa có khả năng kiềm
chế thoát nước trên mặt lá. Nhưng cũng có những loài rễ cạn,
chúng sinh trưởng nhanh trong mùa mưa ẩm và rụng lá vào mùa
khô. Nơi gần đầu nguồn do hang động đưa nước từ nơi khác đến,
nên chúng ta thường gặp cây nhiệt đới thường xanh và Tre, Trúc.
Rừng này thích hợp cho các loài vật cần hang động để lẫn trốn thú
12
dữ như: Sơn dương, khỉ, vượn Đây là loại rừng đặc sắc đối với
con người vì nơi đây còn giữ lại nhiều nguồn gen, quí, có giá trị
cao trong nghiên cứu khoa học, rừng quốc gia Cúc Phương được
thành lập theo kiểu này.
2.6. Rừng ngập mặn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những nguồn tài nguyên rừng ngập mặn đã được sử

dụng bởi nhân dân sống trong vùng biển nhiều thế kỷ không gây ra
sự mất cân bằng sinh thái. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự
gia tăng dân số (đặc biệt sự di dân), lợi tức của nhân dân địa
phương thấp, và sự phát triển nhanh chóng kinh tế đã gây ra sự
khai thác quá mức và sự phá hoại gây hậu quả cho những khu rừng
ngập mặn. Vả lại, chính sách của Việt Nam cho sự tái xây dựng
kinh tế làm phát triển sự khai thác những nguồn tài nguyên thiên
nhiên, dưới chính sách này, sự phát triển nuôi tôm trong những khu
vực rừng ngập mặn là một trong những chiến lược phát triển quốc
gia. Chính vì vậy mà thủy canh được xem như một trong những
mối đe dọa quan trọng của rừng ngập mặn Việt Nam.
13
Việt Nam có bờ biển dài 3200 km với nhiều cửa sông giàu phù sa,
nên rừng ngập mặn sinh trưởng tốt, đặc biệt là bán đảo Cà Mau
(tỉnh Cà Mau).
Trước năm 1945, ở Cà Mau có trên 150.000 ha rừng già, cây to
cao, trong tổng số 400.000 ha rừng ngập mặn của cả nước. Nhưng
trong thời gian chiến tranh từ năm 1962 đến 1971, chất độc hóa
học của Mỹ đã hủy diệt nhiều khu rừng rộng lớn ở Cà Mau và
huyện Cần Giờ (TP.HCM)
Sau chiến tranh, Bộ Lâm Nghiệp đã cố gắng phục hồi, có kế hoạch
chỉ đạo trồng lại rừng ngập mặn, nhưng do nhiều cơ quan và nhân
dân lại phá rừng làm đầm nuôi tôm nên diện tích rừng ngập mặn bị
thu hẹp nhanh chóng.
Theo GS. Phan Nguyên Hồng thì rừng ngập mặn ở Việt Nam có
khoảng hơn 50 loài cây, phân bố không giống nhau ở các khu vực
ven biển. Có 4 khu vực chủ yếu như sau :
14
- Khu vực ven biển Đông Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ
Sơn (Hải Phòng).

Rừng ngập mặn phát triển nhờ các đảo che chắn ở phía ngoài. Các
loài cây chủ yếu là : đước, vẹt, vẹt dìa, sú mấm. Do có mùa Đông
lạnh nên cây chỉ cao từ 1,5 m đến 7 m.
- Khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến Cửa Lạch
Trường (Thanh Hóa)
Tuy có các bãi bồi rộng, giàu phù sa, nhưng ở đây bãi biển trống
trãi, không có các đảo che chắn gió nên chỉ có một ít rừng ngập
mặn trong các cửa sông, với các loài ưa nước lợ như: bần, vẹt dìa,
sú, ô rô Bần có kích thước khá lớn, cao từ 8 m đến 12 m, đường
kính từ 15 đến 25 cm.
- Khu vực ven biển miền Trung : kéo dài từ Lạch Trường đến
Vũng Tàu.
15
Bãi bồi hẹp, ít phù sa do bờ biển dốc, nhiều gió bão nên chỉ có
những dãi rừng hẹp ở phía trong các cửa sông, chủ yếu là các cây
nhỏ, cây bụi, gồm có đước, đưng, vẹt, sú, mấm
- Khu vực Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Hà Tiên :
Nơi đây có nhiều bãi bồi rộng, giàu phù sa, do hệ thống sông Đồng
Nai, Cửu Long cung cấp, ít gió bão nên rừng ngập mặn phát triển
tốt, nhất là ở Cà Mau. Rừng có nhiều loài cây như : đước, dưng,
vẹt, dà, mấm, dừa nước. Chúng ta có các rừng ngập mặn ở các tỉnh
: Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau và huyện
Cần Giờ (TP.HCM). Riêng tỉnh Bến Tre, các rừng ngập mặn ở
huyện Bình Đại, Thạnh Phú, sau thời gian chiến tranh, đến nay
phần lớn là rừng trồng mới, và mang tính cách rừng phòng hộ môi
trường hơn là kinh tế, còn ở rừng ngập mặn Ba Tri có sân chim Mỹ
Hòa, khá phong phú về giống loài động vật và thực vật : về thực
vật có 59 loài, trong đó có 39 loài thực vật trồng và 20 loài hoang
dại, tất cả thuộc 33 họ (Nguyễn Thị Ngọc Ẩn, 1996), và 84 loài
chim thuộc 35 họ (Trần Thanh Tòng, 1996)

16
Tuy nhiên, hiện nay rừng ngập mặn 9+bị tàn phá nhiều để lấy đất
làm đầm nuôi tôm, hoặc lấy gỗ, củi Rừng đã và đang suy thoái
nghiêm trọng, chính nó đã gây ảnh hưởng xấu cho nhân dân khi có
thiên tai hoặc khí hậu thay đổi. Được đánh giá là rừng phòng hộ
môi trường có biện pháp quản lý tốt qua chính sách giao đất, khoán
rừng, nổi bật và đáng kể nhất là rừng ngập mặn Cần Giờ, và nên
chú ý bảo quản cây chà là
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân trực tiếp
 Chiến tranh:
Chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là
nguyên nhân sâu xa gây suy thoái ĐDSH. Trong giai đoạn 1945
đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh và 2 cuộc xung
đột biên giới hết sức khốc liệt.
Chỉ trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72
triệu lít chất độc hoá học do Mỹ rải xuống chủ yếu ở miền Nam
17
Việt Nam đã huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng (WB, 1995). Sau
khi kết thúc chiến tranh diện tích rừng cả nước chỉ còn lại khoảng
9,5 triệu ha – với 10% rừng nguyên sinh, chiếm khoảng 28% diện
tích cả nước.
Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bố dân cư giữa các
vùng, đồng thời một diện tích lớn đất rừng bị khai phá để trồng cây
lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho quân và dân. Không
những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ
khí do chiến tranh để lại sau đó.
 Khai thác quá mức.
- Khai thác gỗ:
Là mối đe dọa lớn đối với ĐDSH. Nó không những làm

nghèo kiệt tài nguyên gỗ tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm
trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng lớn đối với vùng cư trú
của các loài động vật hoang dã.
18
Trong giai đoạn từ năm 1986 – 1991, bình quân lượng gỗ bị
khai thác là 3,5 triệu m
3
/năm và khoảng 1-2 triệu m
3
ngoài kế
hoạch (khoảng 80.000 ha bị mất mỗi năm); giai đoạn 1992 -1996
khoảng 1,5 m
3
gỗ/năm; Từ năm 1997 tới nay khoảng 0,35 triệu m
3
gỗ/năm được khai thác theo kế hoạch từ rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Hình 2.1. Khai thác quá mức tài nguyên rừng
Nạn khai thác gỗ trộm xảy ra ở nhiều nơi, kể cả trong các khu
rừng phòng hộ và rừng đặc dụng cũng làm cho tài nguyên rừng bị
19
cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân chính dẫn tới việc khai thác gỗ
trái phép xảy ra nghiêm trọng và khó kiểm soát vì nhu cầu dùng gỗ
trong nước và việc xuất khẩu ngày càng tăng trong khi trữ lượng
gỗ ngày càng giảm. Việc kinh doanh gỗ có lãi lớn nhưng lực lượng
bảo vệ rừng chưa đủ mạnh, hiệu quả kiểm soát thấp, việc xử lý
những vụ vi phạm khai thác và vận chuyển gỗ trái phép còn hạn
chế.
Ngổn ngang gỗ lậu.
- Khai thác củi làm nhiên liệu:
20

Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát,
đây cùng là mối đe dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng
từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng lượng của đất nước, ước
tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ rừng
tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác
hàng năm, bên cạnh đó còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt
than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thế của nhiều người
vùng núi.
- Khai thác, buôn bán các sản phẩm ngoài gỗ
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản
ngoại gỗ như song, mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng
1.000 loài)
Chúng được khai thác với những mục địch khác nhau: để dùng,
để bán trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là khu hệ
động vật hoang dã đã bị khai thác một cách bừa bãi và kiệt quệ. Có
21
khoảng 70 loài thuộc các lớp chim thú bò sát bị khai thác thường
xuyên để khai thác sử dụng cho các loại mục đích khác
việc kinh doanh các loài hoang dã nhát là rắn,rùa,baba ,tắc kè …để
làm món ăn đặc sản ,làm thuốc,đồ lưu niệm …và xuất khẩu bất
hợp pháp ngày càng tăng.
Trong khi đó khai thác lâm sản vốn là nguồn sống lâu đời của một
bộ phận khá lớn người dân
 Xây dựng cơ sở hạ tầng.
22
Cùng với tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
việc xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm đường giao thông, cầu phà,
bến cảng, mạng lưới điện, hệ thống cấp thoát nước là một tất yếu.
Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng nói trên một cách thiếu quy

hoạch, thiếu cơ sở khoa học có ảnh hưởng mạnh đối với ĐDSH.
Chẳng hạn như việc xây dựng các tuyến đường giao thông xuyên
qua các vùng rừng rộng lớn như đường Trường Sơn, các tuyến
đường bộ đi qua vùng Đồng Tháp Mười, nối Hà Tiên với Cà Mau,
đường dây điện 500kv , ít nhiều đã làm mất đi tính liên tục của
vùng phân bố các loài, gây nhiễu loạn và làm suy thoái môi trường
tự nhiên, chỉ tính riêng các hồ chứa nước được xây dựng hàng năm
đã làm mất đi khoảng hàng ngàn ha rừng (Do nhiều loài sinh vật bị
tiêu diệt do đất đá vùi lấp, do ngập sâu dưới nước. Nhiều loài sinh
vật mất nơi cư trú, mất môi trường sống, mất nguồn thức ăn, mất
nơi sinh đẻ nên một khối lượng lớn cá thể bị chết, các chuỗi dinh
dưỡng bị xáo trộn, cân bằng sinh thái bị tổn thương. Việc ngăn
23
sông, xây đắp làm hồ chứa có thể làm mất đường di cư sinh sản
của một số loài sinh vật như Cá Chình.
 Cháy rừng
Hiện nay, Việt Nam có trên 6 triệu ha rừng dễ cháy, bao gồm
rừng thông, rừng tràm, rừng tre nứa, rừng bạch đàn, rừng khộp
Cùng với diện tích rừng dễ cháy tăng thêm hàng năm thì tình hình
diễn biến thời tiết ngày càng phức tạp và khó lường ở Việt Nam
đang làm nguy cơ tiềm ẩn về cháy rừng ngày càng nghiêm trọng
hơn.
24
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục Kiểm lâm về
cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng gây ra trong 42 năm qua (1963
-04/2005) tổng số vụ cháy rừng là trên 49.600 vụ, diện tích thiệt
hại trên 646.900 ha rừng (chủ yếu là rừng non), trong đó có
274.251 ha rừng trồng và 377.606 ha rừng tự nhiên. Riêng năm
2002 đã xảy ra 1.098 vụ cháy, năm 2003 xảy ra 642 vụ cháy, trong
đó vụ cháy rừng Tràm U Minh là nghiêm trọng nhất.

Sự kiện cháy rừng vào thàng 3,4 năm 2002 tại Vườn Quốc
Gia U Minh – Thượng là một tai họa điển hình về cháy rừng đối
với tài nguyên sinh vật và ĐDSH. Tại U Minh Thượng trước khi bị
cháy rừng đã thống kê được 32 loài thú. Sau khi bị cháy, ít nhất có
25 loài thú (78,2%) bị ảnh hưởng với các mức độ khác nhau. Một
số loài có nguy cơ không gặp lại ở HST độc đáo này: Dơi ngựa lớn
Pteropus vampyrus; Sóc lửa Callosciurus finlaysoni; Rái cá lông
mũi Lutra sumatrana; Rái cá vuốt bé Aonyx cinerea; Mèo cá
25
Drionailurus viverrinus; Tê tê Manis javanica; Cầy giông đốm lớn
Viverra megaspila (nguồn Cục Kiểm lâm, 2005)
3.2. Nguyên nhân sâu xa gây suy thoái tài nguyên rừng ở Việt
Nam.
 Gia tăng dân số và di cư.
Tăng dân số nhanh đã là một trong những nguyên nhân chính
làm suy thoái tài nguyên rừng của Việt Nam. Sự gia tăng dân số
dẫn đến tăng nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu khác trong khi
lượng tài nguyên có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông
nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn tới là phải mở rộng đất nông nghiệp,
xâm lấn vào đất rừng, làm suy thoái ĐDSH.
.Sự nghèo đói.
Việt Nam được xếp loại là một trong những nước nghèo trên
thế giới với gần 80% dân số sống ở nông thôn, hoạt động kinh tế
chủ yếu là nông – lâm – ngư nghiệp, đời sống kinh tế còn nhiều
khó khăn

×