Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

ÁP DỤNG NHIỀU PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG DẠY MÔN ĐỊA LÝ LỚP 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.33 KB, 10 trang )

Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
ÁP DỤNG NHIỀU PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG DẠY
MÔN ĐỊA LÝ LỚP 12
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học ( PPDH) là một vấn đề đã
được đề cập và bàn luận rất sôi nổi từ nhiều thập kỉ qua. Các nhà nghiên cứu PPDH đã
không ngừng nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lý luận dạy học hiện đại để
đưa nền giáo dục nước ta ngày càng hiện đại hơn đáp ứng được nhu cầu học tập ngày
càng cao của nhân dân. Những năm gần đây, định hướng đổi mới PPDH đã được thống
nhất theo tư tưởng tích cực hoạt động hóa hoạt động của học sinh dưới sự tổ chức hướng
dẫn của giáo viên: Học sinh tự giác chủ động tìm tòi, phát hiện giải quyết nhiệm vụ nhận
thức và có ý thức vận dụng linh hoạt sáng tạo các kiến thức kỹ năng đã thu nhận được.
Nhưng những định hướng này cũng mới chỉ đến với giáo viên qua những tài liệu mang
tính lý thuyết hơn là hướng dẫn thực hành. Hoạt động chỉ đạo chuyên môn hay bồi dưỡng
giáo viên thường xuyên vẫn còn thiên nhiều về việc tìm hiểu nội dung môn học hơn là
tìm hiểu những vấn đề chính của PPDH. Vì thế không tránh khỏi việc hiểu và vận dụng
đổi mới PPDH một cách máy móc, thậm chí sai lệch ở một số giờ dạy của giáo viên.
Trong năm học vấn đề sử dụng phương tiện dạy học, đặc biệt là bản đồ giáo
khoa, tranh ảnh, các mẫu vật của bộ môn địa lí được thực hiện ở chương trình địa lí
lớp 12 . Đây là một chương trình giúp các em hiểu sâu về địa lí tự nhiên – kinh tế xã hội
Việt Nam, và liên hệ các châu lục, các quốc gia trên thế giới. Khi đã hiểu rõ, nắm chắc
các kiến thức đó các em sẽ có cơ sở áp dụng các biện pháp để khai thác kiến thức từ bản
đồ giáo khoa, giúp các em hiểu rõ hơn về tự nhiên – kinh tế xã hội và con người Việt
Nam, tạo điều kiện cho hoạt động học tập và lao động có hiệu quả và chất lượng, đáp ứng
yêu cầu của đất nước ta hiện nay là mở cửa hội nhập.
Trước đây khi chưa thực hiện đồng bộ kết hợp nhiều phương pháp dạy trên lớp.
Kết quả học tập chưa đạt hiệu quả tối ưu. Phần lớn giáo viên chưa chú trọng khâu chuẩn
bị : Soạn bài, bản đồ, tranh ảnh, các mẫu vật, mô hình, sơ đồ nhất là các hình động trên
máy tính. … nên kết quả của một giờ lên lớp chưa cao. Qua những năm tháng giảng dạy
tôi thấy : Nếu chỉ sử dụng các phương pháp giảng dạy đơn thuần giáo viên hướng dẫn các
em quan sát mà không đi sâu vào phương pháp hướng dẫn các em cách quan sát sử dụng


bản đồ, mẫu vật thật, mô hình, thì các em chỉ như cái máy nhớ rồi lại quên không khắc
sâu được kiến thức cho các em .
Trong một giờ học áp dụng nhiều phương pháp để đạt hiệu quả cao nhất, cần phối
hợp đồng bộ giữa các phương pháp với nhau để học sinh nắm chắc kiến thức ngay tại lớp,
bằng các kiến thức mình tự tìm tòi và cùng nhóm xây dựng lên, chứ không phải là kiến
thức mà thầy cô truyền thụ cho mình. Trong đề tài này phương pháp chủ yếu tôi muốn
cùng đồng nghiệp chúng ta quan tâm đến đó là : Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ
động tìm tòi kiến thức của học sinh, qua các dạng bản đồ, hình ảnh, mô hình, tranh ảnh,
mẫu vật cụ thể để các em tự xác định được.
Làm thế nào để các em tiếp thu bài ngay trên lớp, hiểu sâu về kiến thức đòi hỏi
người GV phải có nhiều phương pháp giảng dạy để giúp các em học tập năng động thoải
mái sáng tạo, phát huy trí thông minh của các em. Đó là lý do tôi muốn trao đổi với các
bạn đồng nghiệp kinh nghiệm. “áp dụng nhiều phương pháp dạy học trong dạy môn
địa lí lớp 12”
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
1. Cơ sở lý luận :
Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo học sinh thành những con người năng
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, kỹ thuật hiện đại, biết
vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và
xã hội. Thì việc giảng dạy học sinh vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế là điều
thầy cô mong muốn.
Với nội dung học tập của môn Địa lí 12 chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh
động và phong phú, hấp dẫn, dễ kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh, tạo điều
kiện cho việc hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú học tập của học
sinh. Địa lí là môn khoa học của các môn khoa học, tri thức địa lí chủ yếu được hình
thành bằng các phương pháp quan sát, mô tả thực nghiệm, thực hành, tưởng tượng, liên
hệ địa phương Muốn thực hiện các bài học trên lớp. Giáo viên phải là người hướng dẫn
các em chủ động trong giờ học. Qua thực tế hiện nay để đạt một giờ dạy tốt là cả một vấn
đề mà mỗi thầy cô chúng ta cần quan tâm : Có những giờ dạy rất thành công, nhưng cũng

có những giờ dạy chưa đạt được mục đích của bản thân mỗi giáo viên đứng lớp. Vì những
cơ sở trên đây tôi muốn trao đổi với các bạn tìm ra những phương pháp tối ưu nhất để các
giờ dạy địa lí đạt kết quả cao nhất.
2. Thực tiễn :
Trong chương trình SGK lớp 12 có 4 nội dung chính đó là
Phần địa lý tự nhiên
Phần địa lý dân cư
Phần địa lý kinh tế
Phần địa lý địa phương
. Dù là dạy địa lí tự nhiên hay địa lý dân cư, địa lý kinh tế Việt Nam chúng ta cũng cần
hình thành cho các em học sinh những nội dung cơ bản sau :
-Về kiến thức : Cần nắm những kiến thức cơ bản nào?
-Về kỹ năng : Cần rèn luyện kỹ năng gì?
-Về thái độ : GD học sinh về thái độ … -> tìm ra biện pháp thực hiện.
Trong các giờ lên lớp những bài dạy nào có bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật thật là tốt nhất vì
học sinh không thể đi đến tận nơi, thấy tận mắt tất cả những nơi trên lãnh thổ Việt Nam
để quan sát thực tế địa phương
Ví dụ : Dạy bài “Đất nước nhiều đồi núi” .
Giáo viên sử dụng bản đồ tự nhiên Việt Nam Átlat địa lý Việt Nam tranh ảnh về cảnh
quan các dạng địa hình, bản đồ trống Việt Nam.
Học sinh quan sát.
Về đặc điểm chung của địa hình:
- Màu chiếm phần lớ trên bản đồ là màu gì? Thể hiện dạng địa hình nào?
- Các dạng địa hình ở Việt Nam
- Cách phân loại điạhình theo độ cao: Địa hình cao, địa hình núi trung bình và địa hình
có độ cao dưới 1000m
Quan sát bản đồ và Átlat
- Hãy xác định hướng nghiêng chung của địa hình và của các dãy núi, kể tên các dãy
núi hướng vòng cung và hướng tây bắc - đông nam
- Qua đó nhận xét về cấu trúc địa hình….

Vế các khu vực địa hình
- Cho HS quan sát bản đồ Átlat xác định phạm vi của các khu vực địa hình và nêu lên các
đặc điểm chính của các khu vực địa hình đồng thời nêu lên ảnh hưởng của các khu vực
địa hình đến phát triển kinh tế xã hội
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
- Với những bài dạy không có bản đồ, mẫu vật để quan sát . Giáo viên cho học sinh quan
sát tranh ảnh, bảng số liệu có đủ thời gian để quan sát. Có thể đưa ra yêu cầu trước hoặc
cho học sinh quan sát xong mới đưa yêu cầu.
Ví dụ : Dạy bài “Đất nước nhiều đồi núi” .
Yêu cầu cho học sinh quan sát lược đồ tự nhiên Việt Nam treo tường, Átlat và sách giáo
khoa, để nhận xét về đặc điểm địa hình Việt Nam , sự phân bố của các dạng địa hình ở
Việt Nam
- Sau khi đã xác định được mục tiêu của bài ta thấy cần áp dụng những phương pháp nào
cho phù hợp. Tuỳ theo mỗi bài dạy có những phương pháp khác nhau áp dụng ở mỗi lớp
khác nhau. Tuy vậy nhưng ở chương trình lớp 12 những phương pháp tôi cho là phù hợp
có thể áp dụng được để giảng dạy đạt hiệu qủa, đó là :
+ Quan sát bản đồ, lược đồ, mẫu vật, mô hình, băng hình, tranh ảnh.
+ Phương pháp sử dụng số liệu thống kê và biểu đồ
+ Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp hoạt động nhóm : Phát huy tính chủ động tìm tòi, tìm ra những kiến thức
mới của học sinh.
+ Phương pháp kiểm tra đánh giá.
a.Phương pháp sử dụng bản đồ, sơ đồ, biểu đồ,mẫu vật, hình ảnh động trên màn
hình, tranh ảnh, thí nghiệm.
- Hệ thống bản đồ trong dạy học địa lý rất đa dạng, phong phú. Dựa theo nội dung
thì có các bản đồ địa lý tự nhiên, các bản đồ kinh tế xã hội; dựa theo tỉ lệ thì có cá bản đồ
tỉ lệ lớn, trung bình và tỉ lệ nhỏ; dựa theo loại hình thì có bản đồ treo tường, bản đồ SGK,
Át lát địa lý, bản đồ bài tập…
- Mỗi loại bản đồ có một chức năng riêng, vì vậy trong dạy học địa lý GV phải biết

sử sụng phối hợp các bản đồ với nhau để tận dụng tối đa chức năng, ơu thế của từng loại
bản đồ đồng thời cũng tạo điều kiện cho học sinh tiếp súc với bản đồ, biết cách tìm kiếm
thông tin từ các loại bản đồ riêng lẻ hoặc đối chiếu , so sánh phối hợp các bản đồ với
nhau trên cơ sở đó nắm vững tri thức, phát triển tư duy và kỹ năng sử dụng bản đồ.
- Từ bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật có thể bồi dưỡng cho học sinh thế giới duy vật
biện chứng, bồi dưỡng năng lực tư duy, tự học, tự nghiên cứu. Do đặc điểm của các đối
tượng sự vật địa lí được trải rộng trong không gian, giáo viên không thể dẫn học sinh đến
tận nơi được. Vì vậy dạy học không thể thiếu bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật Trong giảng
dạy địa lí mở đầu bằng bản đồ kết thúc bằng bản đồ. Đây là đặc trưng của bộ môn khoa
học địa lí mà không một môn khoa học nào có thể so sánh được. Cho nên khi lên lớp giáo
viên phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của bài học để đưa ra một hệ thống câu hỏi, bài tập
hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trên bản đồ một cách có hiệu quả.
Ví dụ :Khi sử dụng bản đồ để tìm ra đặc điểm của đồng bằng ven biển Miền Trung
thì việc làm đầu tiên là HS phải dựa vào màu sắc , chữ viết trên bản đồ tự nhiên Việt Nam
để tìm vị trí của các đồng bằng ven biển miền Trung trên bản đồ, sau đó HS phải dựa vào
bản đồ so sánh độ lớn của các đồng bằng miền Trung với các đồng bằng khác của cả
nước ( ĐBSCL, ĐBSH) để rút ra đặc điểm: Các đồng bằng miền Trung đều nhỏ hẹp, cao
hơn nữa HS dựa vào bản đồ và các kiến thứcđể nêu được ý vì dãy Trường Sơn tiến sát ra
biển , các sông ở Miền Trung đều ngắn nhỏ, ít phù sa đó là nguyên nhân làm cho các
đồng bằng miền Trung nhỏ hẹp.
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
Phải sứ dụng bản đồ theo quan niệm coi đây là nguồn cung cấp kiến thức quan
trọng, chứ không sử dụng bản đồ theo cách coi đó là phương tiện minh họa cho kiến thức.
Vì vậy trong quá trình soạn bài, lên lớp, GV luôn phảu căn cứ vào yêu cầu của bài học,
vào bản đồ mà đưa ra được hệ thống câu hỏi, bài tập để giúp HS rèn luyện kỹ năng sử
dụng bản đồ và khai thác kiến thức từ bản đồ dưới nhiều hình thức khác nhau như tìm và
chỉ vị trí các đối tượng địa lý trên bản đồ, đo tính khoảng cách trên bản đồ trình bày và
giải thích về một số đối tượng địa lý, “ đi du lịch” trên bản đồ, trò chơi dựa vào bản đồ ,
điền bản đồ trống vv…
Cần phối hợp giữa sử dụng bản đồ với các phương tiện dạy học khác như tranh

ảnh, băng đĩa hình, các cuộc tham quan, khảo sát địa phương và các PPDH khác ( mô tả,
thảo luận…) để tạo biểu tượng cụ thể, sinh động về các đối tượng địa lý cho HS, đồng
thời phát huy cao độ tính tích cực trong học tập của HS.
VD: Khi nhìn vào chú giải của bản đồ địa hình Việt Nam HS dễ dàng nhận biết
được các dạng địa hình có ở VN và dạng địa hình nào chiếm diện tích lớn nhất
Nhìn vào đó HS dễ dàng chỉ ra được những cánh cung chúng nào, phân bố chủ yếu
ở đâu, các dãy núi cao phân bố ở đâu , các dãy núi chính…
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
BẢN ĐỒ ĐỊA HÌNH VIỆT NAM
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
b. Phương pháp sử dụng số liệu thống kê và biểu đồ
Bản thân các số liệu thống kê hoàn toàn là kiến thức nhưng chúng có ý nghĩa lớn
trong dạy học địa lý
Trước hết số liệu thống kê và các hình thức biểu hiện trực quan của nó dùng để minh
họa, cụ thể hóa nội dung, các khái niệm ,các mối quan hệ, các quy luật VD các số liệu về
độ cao, độ sâu, nhiệt độ, lượng mưa, dân số và tình hình tăng dân số , tình hình phát triển
của các ngành kinh tế. Bởi vậy các số liệu có vai trò làm sáng tỏ các kiến thức địa lý.
*Biểu đồ là một loại phương tiện trực quan giúp HS hiểu ngay vấn đề khi nhìn vào
chúng và từ đó ruta ra được kết luận về một vấn đề địa lý nào đó
Biểu đồ biến đổi dân số ở nước ta
+ Khi HS nhìn vào biểu đồ HS dễ dàng nhận ra dân số nước ta có sự biến đổi là
tăng liên tục qua các năm
+ Tỉ lệ gia tăng tự nhiên có sự thauy đổi theo từng giai đoạn
* Số liệu thống kê giúp cho người học lượng hóa được và có cách nhìn đúng đắn
về đối tượng nhiên cứu
Thông qua việc phân tích, so sánh, đối chiếu các số liệu, HS pphats triển được năng
lực tư duy, kỹ năng làm việc vứi cá số liệu thống kê. Chẳng hạn, khi dạy về một trong
những đặc điểm về nhiệt độ của khí hậu Việt Nam là: “ nhiệt độ trung bình của nước ta có
sự thay đổi từ Bắc vào Nam”, trong trường hợp không có số liệu thống kê thì HS rất khó
hình dung và chỉ có thể học thuộc lòng đặc điểm này một cách máy móc, nhưng nếu GV

cho HS quan sát , phân tích bảng số liệu về “ nhiệt độ trung bình năm của một số địa
phương “ dưới đây:
Địa điểm Nhiệt độ trung bình năm (
o
C)
Lạng Sơn
HÀ Nội
Huế
Đà Nẵng
21.2
23.5
25.1
25.7
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
Quy Nhơn
TP Hồ Chí Minh
26.8
27.1
Nhìn vào bảng số liệu HS dễ dàng nhận biết được nhiệt độ trung bình tăng dần từ
Bắc vào Nam…
c.Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tìm tòi kiến thức của học
sinh.
Sau khi học sinh đã quan sát cụ thể một mẫu vật, sơ đồ, bảng số liệu thống kê, hình
ảnh … nào đó hoặc các kiến thức đã qua thực tế - Giáo viên cần phát huy tối đa hoạt động
tư duy tích cực của học sinh bằng các tình huống để các em dự đoán nên giả thuyết tranh
luận giữa những ý kiến trái ngược…
Ví dụ : Quan sát tranh khai thác rừng em có nhận xét gì?:
TRANH ẢNH VỀ CẢNH PHÁ RỪNG Ở MỘT SỐ NƠI
+ Em dự đoán xem, hậu quả của việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng, tại
sao con người lại khai thác quá mức nguồn tài nguyên rừng, có ảnh hưởng gì tới tương

lai?
+ Em thử đoán xem khai thác hợp lí nguồn tài nguyên rừng là biện pháp tích cực
hay tiêu cực?
+ Để bảo vệ nguồn tài nguyên rừng chúng ta cần phải làm gì ?
d. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh (PHSS) : là một trong những phương pháp chung của hoạt
động tư duy song nó cũng đã trở thành một phương pháp có tính chất đặc trưng của bộ
môn địa lý . Sử dụng tôt PPSS trong dạy học địa lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hình thành và khắc sâu các biểu tượng, khái niệm địa lý cho HS làm cho HS dễ nhận ra
các thuộc tính cơ bản của đối tượng địa lý, tránh những hiểu biết mơ hồ , nhầm lẫn. Đồng
thời nó cũng làm cho các kiến thức địa lý bớt trìu tượng và trở nên sinh động, hấp dẫn ,
dễ nhớ và nhớ được vững chắc hơn
VD: Muốn cho HS nắm vững và phân biệt được các biểu tượng, khái niệm
đồng bằng và cao nguyên thì không có PP nào hay hơn là cho HS so sánh chúng để
tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa đồng bằng và cao nguyên, hoặc khi cần
có một kết luận về sự gia tăng dân số của một quốc gia thì HS cũng phải so sánh các
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
số liệu về số dân trong một thời kì nhất định vv… vì vậy trong dạy học địa lý GV
cần triệt để vận dụng PPSS dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm nâng cao chất
lượng dạy học của bộ môn.
VD : cho bảng số liệu về cơ cấu diện tích gieo trồng cây công nghiệp
(giai đoan 1980 – 2005) ĐV: %
Năm Cây công nghiệp hàng năm Cây công nghiệp lâu năm
1980 59.2 40.8
1985 56.1 43.9
1990 45.2 54.8
1995 44.3 55.7
2000 34.9 65.1
2005 34.5 65.5
Khi nhìn vào bảng số liệu HS dễ dàng so sánh được cơ cấu dienj tích cây công

nghiệp có sự thay đổi rỏ rệt
Để có thể đạt hiệu quả cao trong việc sử dụng PPSS, GV cần chú ý các điểm sau
đây
+ Cần xác định rõ của việc so sánh : khi sử dụng PPSS , GV cần trả lời câu hỏi: So
sánh để nhằm mục đích gi?( hình thành biểu tượng, khái niệm địa lý, khắc sâu các khái
niệm địa lý, để hệ thống hopas kiến thức…)
+ Cần chọn kỹ các đối tượng cần so sánh và làm nổi bật lên các vấn đề cần so sánh
+ Phải biết kết hợp PPSS với các PPDH khác như phương pháp sử dụng bản đồ ,
hình vẽ các biểu đồ, số liệu thống kê… hoặc phương pháp thảo luận, trò ch[i vv…
+ Cần phát huy cao độ tính tích cực của HS trong khi so sánh điều náy chie có thể
thực hiệnđược khi GV biết khơi dậy ở HS nhu cầu tìm hiểu kiến thức và biết đề ra các
loại câu hỏi, bài tập dưới nhiều hình thức khác nhau để HS làm.
e.Phương pháp hoạt động nhóm :
Với những câu hỏi khó, những tình huống chưa giải quyết, cá nhân các em có thể
đưa ra ý kiến thảo luận trong nhóm để thống nhất ý kiến.
Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất sự đổi mới trong phương pháp dạy học,
lấy học sinh làm trung tâm.:
Hoạt động nhóm là hoạt động đòi hỏi tính tự giác của học sinh rất cao, em nào
cũng được đưa ra ý kiến của mình. Nhưng hoạt động này đôi khi không hiệu quả vì giáo
viên chưa đi sâu đi sát đến từng nhóm và hướng dẫn các nhóm hoạt động chưa cụ thể.
Đây là một hoạt động mà người giáo viên thực hiện chưa tốt. Có giáo viên để các nhóm
hoạt động, ít để ý đến các em, có nhóm các em gây ồn ào mất trật tự, có nhóm chỉ có một
vài em làm việc còn lại một số các em khác không chú ý .
Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề có phân tích lý lẽ, giữa giáo viên và học
sinh, giữa học sinh với học sinh. Giúp cho học sinh mở rộng kiến thức, phát triển được tư
duy khoa học. Giúp học sinh phát triển kĩ năng nói, giao tiếp tranh luận Thảo luận có
nhiều hình thức : Thảo luận cá nhân(hay cả lớp ), thảo luận theo cặp, nhóm, theo tổ
Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả trước hết giáo viên phải đưa ra những yêu cầu rõ
ràng cần thảo luận những câu hỏi nào ? (Chú ý những câu hỏi khó mới cần đưa ra thảo
luận). Thời gian qui định là bao lâu? Mỗi nhóm báo cáo xong cần có nhận xét đánh giá

(khen, nhắc nhở) Một điều giáo viên cần chú ý đó là theo dõi sự hoạt động của các nhóm
- Mỗi nhóm sẽ cử một nhóm trưởng chỉ đạo các bạn trong nhóm hoạt động và một thư ký
ghi ý kiến của các bạn trong nhóm.
g.Phương pháp kiểm tra đánh giá :
Đây là một hoạt động nhằm đánh giá kết quả hoạt động của nhóm, của cá nhân
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
thông qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm (Đúng, sai – lựa chọn câu đúng). Bài tập điền từ
phù hợp vào chỗ trống bằng các phiếu học tập, trò chơi, nhận biết mô hình, tư duy kiến
thức từ bản đồ…
3/ Quá trình thể nghiệm (Thực nghiệm ) :
Để thực hiện tốt một giờ dạy đạt kết quả thì việc đầu tiên là khâu thiết kế một bài
dạy (Các bước lên lớp)
Tôi đã áp dụng kết hợp nhiều phương pháp để giảng dạy bài “Đất nước nhiều đồi
núi ” Với bài dạy này : Về mục tiêu cần xác định :
a .Kiến thức :
- Hiểu và trình bày được.
+ Đặc điểm nổi bật của cấu trúc địa hình VN, nhấn mạnh phần lớn diện tích nước
ta là đồi núi, nhưng chủ yếu là đồi núi thấp
+ Hiểu được sự phân hóa địa hình đồi núi ở Việt Nam, đặc điểm mỗi vùng và sự
khác nhau giữa các vùng
b.Kỹ năng :
- Biết xác định 4 vùng địa hình đồi núi, đặc điểm của các vùng trên bản đồ
-Xác định được vị trí các dãy núi, khối núi, các dạng địa hình chủ yếu mô tả trong
bài học.
- Vận dụng kiến thức vào thực tế, liên hệ địa phương.
c.Thái độ :
- Tham gia và có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên , có ý thức khai thác hợp lý từng
loại địa hình đồng thời có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường.
- Sau khi xác định rõ mục tiêu của bài thì khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học và
phương pháp dạy cho phù hợp với từng phần của bài học.

Ví dụ : Phần 1 :Đặc điểm chung của địa hình
+ Cho học sinh quan sát bản đồ tự nhiên Việt Nam
Cho biết Việt Nam có những dạng địa hình nào ?
Dạng địa hình nào chiếm phần lớn diện tích?
Em hãy xác định hướng nghiêng chung của địa hình trên bản đồ.
Hướng chính của các dãy núi?
Giáo viên cho học sinh tự dán kí hiệu các dãy núi được cắt rời lên bản đồ trống
Việt Nam.
Ví dụ : Phần 2 Các khu vực địa hình ở nước ta.( khu vực đồi núi)
Hoạt động nhóm :
Nhóm 1 : Tìm hiểu về khu vực đồi núi Đông Bắc
Nhóm 2 : Tìm hiểu về khu vực đồi núi Tây Bắc
Nhóm 3 : Tìm hiểu về khu vực đồi núi Bắc Trường Sơn
Nhóm 4: Tìm hiểu về khu vực đồi núi Nam Trường Sơn
Đại diện nhóm trình bày, chỉ trên bản đồ tự nhiên Việt Nam.
+ Quan sát thảo luận nhóm. Rút ra kết luận …
Bằng sự kết hợp đồng bộ giữa phương pháp quan sát – Thảo luận – Kiểm tra đánh
giá giờ học đã thật sự thu hút học sinh.
4. Hiệu quả mới :
Các tiết dạy có sự chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, đồ dùng dạy học như : Tranh
ảnh, bảng số liệu, mẫu vật, bản đồ, thao tác chính xác, kết hợp đồng bộ nhuần nhuyễn
các phương pháp dạy học. Giáo viên đã giúp các em nắm các kiến thức cơ bản một cách
chính xác, do chính các em tìm ra từ các phương tiện trực quan và biết tái hiện kiến thức
Trương Thị Thảo Trường THPT Tạ Uyên
khi cần thiết, biết suy luận, diễn tả một sự vật hiện tượng địa lí, vận dụng chúng vào thực
tiễn, trong đời sống hằng ngày, đặc biệt là trong quá trình thi và kiển tra.
Kết quả như sau:
Các lớp mà tôi đảm nhiệm trước khi áp dụng thì đa số HS học bài nắm bài một
cách máy mọc , học theo kiểu “học vẹt” học xong quên luôn đến khi kiểm tra phần lớn
các em không hiểu được vấn đề khi trình bày bài và không biết cách vận dụng. Số bài

được điểm thấp chiếm một tỉ lệ lớn, còn số bài khá chiếm tỉ lệ thấp, rất hiếm HS có điểm
giỏi.
Sau khi tôi vận dụng các PP trên thì kết quả khác hẳn đa số các em hiểu bài nắm
bài ngay trên lớp và còn biết cách vận dụng kiến thức vừa mới học xong để làm bài tập.
Với PP này khi kiểm tra thì tỉ lệ khá giỏi nâng lên rõ rệt. Đồng thừi các em còn có hứng
thú khi nói đến môn địa lý vì nó rất trực quan vì sinh động từ đó thúc đẩy tính tò mò ham
học của đa số HS.
Với các em là HS khối 12 thì các em đã mạnh rạn hơn khi chọn môn học và môn
thi hơn trước kia
Qua những giờ dạy được chuẩn bị đầy đủ, thao tác chính xác, giúp các em nắm các
bài lý thuyết sâu hơn áp dụng trong đời sống hằng ngày, những kiến thức địa lí trong
chương trình lớp 12 để giải thích mối quan hệ nhân quả của tự nhiên và kinh tế xã hội
Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trên
con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, áp dụng những hiểu biết của mình vào
thực tế hiện nay là điều hết sức cần thiết, sau khi học song chương trình THPT các em có
thể bước vào cuộc sống với sự tự tin và lòng dũng cảm, để đối mặt với cuộc sống xã hội
đầy khó khăn và gian khổ, tạo điều kiện cho hoạt động học tập và lao động có hiệu quả và
chất lượng hơn.
III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Trong đề tài này tôi muốn trao đổi với các bạn đồng nghiệp những suy nghĩ của tôi
về một số phương pháp sử dụng phương tiện dạy học, để dạy tốt chương trình địa lí lớp
12 đạt hiệu quả cao. Tôi rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để chúng ta
cùng xây dựng nên một hình thức dạy môn địa lí thế nào cho hay nhất, đạt kết quả cao
nhất của bộ môn địa lí.
* Kiến nghị :
- Mở lớp tập huấn về việc sử dụng công nghệ thông tin.
- Cho GV địa lý đi thực tế ở một số địa phương
- Cung cấp thêm cho GV các tư liệu về địa lý
* Tài liệu tham khảo :
+ Sách giáo khoa địa lí lớp 12.

+ Sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng địa lí lớp 12.
+ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kì môn địa.
+ Át lát địa lí Việt Nam - Thế giới.
+ Tài liệu bộ giáo dục đào tạo “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Yên Mô, Ngày 24 tháng 10 năm 2011.
Người viết
Trương Thị Thảo

×