Bài tập nhóm chuyên đề 6
Dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu
chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội, do
nhà nước chịu trách nhiệm và không vì mục tiêu lợi nhuận. Trên thực tế, có rất
nhiều loại dịch vụ công rất quan trọng phục vụ nhu cầu chung của cả cộng đồng.
Một trong các lĩnh vực dịch vụ công ngày càng được nhà nước coi trọng là giáo
dục. Đây là loại hình dịch vụ khá đặc biệt vì cung ứng dịch vụ này cũng đồng
thời là đầu tư tạo nguồn nhân lực cho tương lai nên chất lượng dịch vụ không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người thụ hưởng dịch vụ mà còn ảnh
hưởng đến lợi ích của toàn xã hội. Cũng chính vì vậy, các vấn đề có liên quan
đến dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục luôn được cả xã hội quan tâm, đồng
thời cần và có khả năng thu hút rất nhiều lực lượng tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào quá trình cung ứng dịch vụ này.
Ở nước ta pháp luật điều chỉnh về cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục được quy định rải rác trong một số văn bản khác nhau như Luật giáo
dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật giáo dục đại học năm 2012 (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013), Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày
30/05/2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, Nghị định số
49/2005/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục…Các quy định này đã thể hiển rõ chủ trương của Đảng và nhà nước ta trong
việc quản lý cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
I. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
1. Quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục
Nhà nước ra đời gắn với chức năng quản lý xã hội, dịch vụ công là những
hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của đại đa số dân chúng nên dịch vụ công
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của xã hội, lợi ích của dân cư. Để bảo vệ các lợi
ích này nhà nước tất yếu phải thực hiện quản lý với dịch vụ công. Pháp luật về
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 1
Bài tập nhóm chuyên đề 6
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục với tư cách là công cụ quản lý của nhà
nước bao gồm những nội dung cụ thể:
Thứ nhất, Xác lập những quy định pháp luật về việc xây dựng và chỉ đạo
thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
Ở tầm quản lý vĩ mô nhà nước xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển,
xác định những nhiệm vụ, mục tiêu trong từng khoảng thời gian nhất định và kế
hoạch thực hiện những nhiệm vụ đó. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành
và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 2 Luật Giáo dục năm 2005).
Nhà nước ta coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Việc phát triển giáo dục phải gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc
phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối
về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên
cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.
Quy hoạch phát triển dịch vụ công tạo điều kiện để nhà nước định hướng
phát triển dịch vụ công trong cả nước hoặc tại một địa phương nào đó. Trên cơ
sở chiến lược và quy hoạch phát triển, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ
ban hành các chính sách thích hợp để khuyến khích xã hội hóa dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục và thúc đẩy sự phát triển của loại hình dịch vụ này. Hiện
nay, nhà nước đã ban hành và thực hiện các chính sách như xã hội hóa việc cung
ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, chính sách ưu đãi về tài chính, thuế,
tín dụng, chính sách ưu tiên phát triển nhân lực phục vụ….
Thứ hai, Xác lập các quy đinh pháp luật về thực hiện các công tác thống
kê, thông tin, ứng dụng khoa học, công nghệ vào việc cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục
Việc thống kê và thông tin giúp các nhà quản lý dự báo, đánh giá tình
hình phát triển của dịch vụ công trên cơ sở đó hoạch định chính sách, xây dụng
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 2
Bài tập nhóm chuyên đề 6
kế hoạch phát triển phù hợp. Trên cơ sở phân tích các số liệu thống kê, các nhà
quản lý có thể nắm bắt được tình hình và kết quả của việc cung ứng dịch vụ
công để có biện pháp khuyến khích hoặc điều chỉnh phù hợp. Các thông tin cần
thiết cho việc cung ứng và hưởng thụ dịch vụ công giúp cho cá nhân, tổ chức dễ
dàng lực chọn cho phù hợp, đồng thời giúp cho việc cung ứng dịch vụ công và
hoạt động quản lý của nhà nước được thực hiện một cách minh bạch, công khai.
Khoa học công nghệ giúp nâng cao chất lượng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc hưởng
thụ dịch vụ công. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dịch vụ công và
quản lý nhà nước đối với dịch vụ công tạo ra sự liên kết giữa các nhà cung ứng
dịch vụ với nhau, giữa tổ chức cung ứng dịch vụ và gười hưởng thụ; giúp nhà
nước quản lý được nhanh chóng, dễ dàng Chỉ thị 55/2008/CT- BGDĐT ngày
30/09/2008 về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin
trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 đã xác định các nhiệm vụ trọng tâm
và các biện pháp tổ chức thực hiện nhằm ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh
vực giáo dục.
Thứ ba, Xác lập các quy đinh pháp luật về quản lý việc thành lập các tổ
chức cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
Ở Việt Nam, nhà nước thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục, Bộ giáo
dục và đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về giáo dục và đạo tạo, điều này được quy định tại Điều 100 Luật Giáo
dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Bên cạnh đó các Bộ, cơ quan ngang
bộ và các cơ quan trực thuộc Chính phủ cũng thực hiện chức năng này nhưng
quản lý theo lĩnh vực chuyên môn của Bộ mình đối với một lĩnh vực đào tạo có
liên quan đến ngành của mình quản lý. Bộ và các cơ quan ngang bộ được quy
định phải phối hợp với Bộ Giáo dục và đào tạo để thực hiện việc thống nhất
quản lý nhà nước trong giáo dục ở Việt Nam. Ở cấp địa phương, UBND các cấp
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục địa phương theo quy định của
Chính phủ
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 3
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Luật giáo dục hiện hành cũng quy định các điều kiện để thành lập và thẩm
quyền thành lập các cơ sở giáo dục; các trường hợp bị đình chỉ hoạt động hoặc
giải thể. Theo Điều 51 Luật Giáo dục năm 2005 thì thẩm quyền thành lập và cho
phép thành lập được quy định như sau: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện
quyết định đối với trường mầm non, trường mẫu giáo, trường tiểu học, trường
trung học cơ sở, trường phổ thông dân tộc bán trú; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định đối với trường trung học phổ thông, trường phổ thông dân
tộc nội trú, trường trung cấp thuộc tỉnh; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ quyết định đối với trường trung cấp trực thuộc; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo quyết định đối với trường cao đẳng, trường dự bị đại học; Thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề quyết định đối với trường cao đẳng nghề;
Thủ tướng Chính phủ quyết định đối với trường đại học.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hoạt động giáo dục đối với
cơ sở giáo dục đại học. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước về dạy nghề quy định thẩm quyền cho phép hoạt động giáo
dục đối với nhà trường ở các cấp học và trình độ đào tạo khác. Người có thẩm
quyền thành lập hoặc cho phép thành lập nhà trường thì có thẩm quyền thu hồi
quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập, quyết định sáp nhập, chia, tách,
giải thể nhà trường. Người có thẩm quyền cho phép hoạt động giáo dục thì có
thẩm quyền quyết định đình chỉ hoạt động giáo dục.
Theo quy định, Bộ giáo dục và đào tạo có chức năng quản lý nhà nước đối
với các trường đại học và các trường đại học cũng chịu sự quản lý hành chính
theo lãnh thổ của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi trường có trụ
sở tại địa phương đó. Mặc dù theo quy đinh hiện hành, các trường đại học có
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về chiến lược, kế hoạch phát triển nhà
trường, tổ chức hoạt động, tổ chức và nhân sự trong nội bộ trường, xây dựng
chương trình, kế hoạch giảng dạy; tuy nhiên quy hoạch và kế hoạch phát triển
nhà trường phải phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục và quy hoạch mạng
lưới các trường đại học của nhà nước, các chương trình, kế hoạch giảng dạy phải
dựa trên cơ sở chương trình khung do bộ giáo dục dào tạo ban hành. Bộ cũng là
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 4
Bài tập nhóm chuyên đề 6
cơ quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ về mô hình tổ chức của các loại
trường đại học, quy định thủ tục và quyết định việc thành lập, sát nhập, chia
tách, giải thể, đình chỉ hoạt động của các trường đại học, cao đẳng.
Bộ Giáo dục và đào tạo là cơ quan ban hành các quy chế tổ chức và điều
lệ hoạt động cho các tổ chức giáo dục và các loại trường học từ giáo dục mầm
non đến giáo dục phổ thông, bậc trung học chuyên nghiệp, bậc đại học và sau
đại học. Nhưng việc quản lý tổ chức và nhân sự của các cơ sở giáo dục công lập
là do UBND các cấp và các bộ chủ quản (đối với các tổ chức sự nghiệp giáo dục
của bộ) quản lý. Tại địa phương, Sở GD-ĐT là cơ quan chuyên môn tham mưu
giúp UBND tỉnh, thành phố rực thuộc trung ương thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về giáo dục và đạo tạo. Sở giáo dục chịu sự chỉ đạo của Bộ giáo dục
và đạo tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, hướng dẫn và kiểm tra, còn quản lý về tổ
chức, biên chế và công tác khác chịu sự chỉ đạo của UBND tỉnh, thành phố.
Tương tự ở cấp huyện, phòng giáo dục là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
huyện và giúp cho UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo
dụ, phòng giáo dục đào tạo chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn,
nghiệp vụ của Sở Giáo dục và đào tạo.
Thứ tư, Xác lập các quy định pháp luật về nhân sự, cơ cấu tổ chức của bộ
máy quản lý nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục.
Điều 54 Luật giáo dục quy định hiệu trưởng là Hiệu trưởng là người chịu
trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bổ nhiệm, công nhận. Bổ nhiệm hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng các
trường THPT do Chủ tịch UBND tỉnh quyết định theo tiêu chuẩn chuyên môn,
nghiệp vụ do Bộ GD-ĐT quy định; còn UBND cấp huyện có quyền bổ nhiệm
hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng các trường từ THCS trở xuống.
Với chính sách hiện hành thì hiệu trưởng các trường công lập chỉ có
quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh từ trường hoặc phó các tổ chức
thuộc trường mà không có các quyền này đối với cấp phó (hiêu phó) của tổ chức
mình. Ở cấp đại học cũng tương tự, Hiệu trưởng trường Đại học có quyền quyết
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 5
Bài tập nhóm chuyên đề 6
định thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các tổ chức của cơ sở giáo dục đại
học theo nghị quyết của hội đồng trường, hội đồng quản trị, hội đồng đại học; bổ
nhiệm, bãi nhiệm và miễn nhiệm các chức danh trưởng, phó các tổ chức của cơ
sở giáo dục đại học (Điều 20 Luật giáo dục đại học năm 2012).
Qua phân tích có thể thấy rằng, việc quản lý tổ chức và bộ máy vẫn còn
mang nặng tính chất hành chính theo phương thức điều hành từ trên xuống, vẫn
cứng nhắc, không linh hoạt. Hiệu trưởng các trường vẫn chưa có đầy đủ quyền
hạn trong việc giải quyết mọi vấn đề về tổ chức và bộ máy trong nội bộ trường
mình, điều đó làm giảm đi tính hiệu quả và linh hoạt trong công tác tổ chức và
quản lý các đơn vị này.
Về cơ cấu tổ chức nhân sự: Theo quy định tại Luật giáo dục năm 2005,
Luật giáo dục đại học năm 2012, thì các trường có quyền tự chủ về nhân sự
trường mình nhưng trên thực tế các trường vẫn gặp khó khăn trong tuyển dụng
và sử dụng cán bộ của đơn vị mình, còn chịu ảnh hưởng của cấp trên tùy theo
phân cấp quản lý
Thứ năm, Xác lập các quy đinh pháp luật về tổ chức hoạt động thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục.
Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn trong quản lý nhà nước đối với dịch
vụ công. Thanh tra, kiểm tra được coi là biên pháp hữu hiệu nhất giúp các cơ
quan nhà nước nắm bắt được tình hình thực tiến của các cá nhân, tổ chức trong
việc cung ứng dịch vụ công. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra giúp phát
hiện nhanh chóng các hành vi vi phạm pháp luật trong việc cung ứng dịch vụ
công, các hạn chế khiếm khuyết trong tổ chức cung ứng ịch vụ công cũng được
phát hiện. Tuy nhiên, thanh tra, kiểm tra không thể là biện pháp để nhà nước can
thiệp vào hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ công nên việc thanh tra
kiểm tra phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật.
Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục rất đa dạng và khác nhau về
tính chất và mức độ. Các vi phạm có thể được thực hiện bởi cá nhân, tổ chức
cung ứng dịch vụ hay người thụ hưởng dịch vụ, tuy nhiên có thể thấy vi phạm
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 6
Bài tập nhóm chuyên đề 6
của các cá nhân, tổ chức cung ứng dịch vụ thường có tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn do nó ảnh hưởng tới lợi ích của số đông. Hiện nay các
hành vi vi phạm và việc xử phạt vi phạm hành chính về cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục được quy định tại Luật giáo dực năm 2005, Luật giáo
dục đại hoạc năm 2012 và được quy định chi tiết, cụ thể trong Nghị định số
49/2005/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục Việc xử phạt vi phạm hành chính nghiêm minh vừa nhằm phạt trực tiếp
người vi pham vừa có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa vi phạm tiếp tục
xảy ra.
Theo Quy định tại Điều 113 Luật giáo dục thì tổ chức hoạt động của
Thanh tra giáo dục gồm thanh tra Bộ, thanh tra Sở và hoạt động của thanh tra
giáo dục được thực hiện theo quy định của Luật Thanh tra. Hoạt động của thanh
tra giáo dục cấp huyện do trưởng phòng giáo duc và đào tạo cấp huyệt trực tiếp
phụ trách theo sự chỉ đạo nghiệp vụ của thanh tra Sở giáo dục và đào tạo; hoạt
động thanh tra giáo dục trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại
học do thủ trưởng cơ sở trực tiếp phụ trách theo quy định của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề.
Về các hành vi vi pạm và các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục được quy định rõ tại Điều 118 Luật giáo dục năm 2005 và
Điều 71 Luật giáo dục đại học năm 2012, bao gồm các hành vi như: Thành lập
cơ sở giáo dục hoặc tổ chức hoạt động giáo dục trái phép; Vi phạm các quy định
về tổ chức, hoạt động của nhà trường, cơ sở giáo dục khác; Tự ý thêm, bớt số
môn học, nội dung giảng dạy đã được quy định trong chương trình giáo dục;
Xuất bản, in, phát hành sách giáo khoa trái phép; Làm hồ sơ giả, vi phạm quy
chế tuyển sinh, thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; Xâm phạm nhân phẩm, thân
thể nhà giáo; ngược đãi, hành hạ người học; Gây rối, làm mất an ninh, trật tự
trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác; Làm thất thoát kinh phí giáo dục; lợi
dụng hoạt động giáo dục để thu tiền sai quy định; gây thiệt hại về cơ sở vật chất
của nhà trường, cơ sở giáo dục khác.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 7
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính bao gồm hai hình phạt chính là
cảnh cáo và phạt tiền, ngoài ra còn có các hình thức xử phạt bổ sung như: Tước
quyền sử dụng các quyết định thành lập, giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời
hạn hoặc không thời hạn đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy
định sử dụng quyết định, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật,
phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; Trục xuất nếu người vi phạm
là người nước ngoài. Ngoài ra các cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như: Buộc khôi phục lại tình
trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra theo yêu cầu của cơ
quan có thẩm quyền; Buộc đình chỉ hoặc chấm dứt hoạt động giảng dạy, giáo
dục; Buộc huỷ bỏ kết quả các môn thi hoặc chấm lại bài thi; Buộc thực hiện
giảng dạy, hướng dẫn thực hành, thực tập bổ sung đủ số tiết, nội dung, chương
trình theo đúng quy định; cung ứng tài liệu, thiết bị theo đúng kế hoạch đã được
phê duyệt; Buộc huỷ bỏ quyết định sai, trái với quy định của cơ quan có thẩm
quyền; Buộc khôi phục quyền học tập của người học, bảo đảm quyền của người
được sử dụng văn bằng, chứng chỉ (Điều 7 Nghị định số 49/2005/NĐ-CP)
2. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực giáo dục
Đại hội lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “Giáo dục và
đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người,
động lực trực tiếp của sự phát triển”. Đó là một sự khẳng định hết sức đúng đắn
xuất phát từ lợi ích của nhân dân ta, đồng thời phù hợp với chân lý phổ biến của
lịch sử thế giới. Từ đó đến nay nhiều hội nghị chuyên đề của Đảng tiếp tục ban
hành các nghị quyết về đổi mới, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Chính
vì vậy mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo nước ta ngày càng phát triển cả về quy
mô và chất lượng.
Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện cung
ứng dich vụ công trong lĩnh vực này như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại
học…Luật Giáo dục quy định việc phổ cập giáo dục tiểu học và giáo dục trung
học cơ sở. Với sự đầu tư của Nhà nước và truyền thống hiếu học của dân tộc,
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 8
Bài tập nhóm chuyên đề 6
chúng ta đã hoàn thành việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đang thực
hiện phổ cập trung học cơ sở và phát triển mạnh các trường dạy nghề, giáo dục
đại học và chuyên nghiệp.
Xác định rõ mục tiêu đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước
ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục, Nhà nước đã không ngừng tăng
tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục và tích cực vận động, thu hút vốn ODA, tài trợ
của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước dưới hình thức viện trợ không
hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi.
Nhà nước mở rộng hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, các cá nhân
nước ngoài và Việt kiều nhằm khai thác mọi tiềm năng bên ngoài để phát triển
giáo dục. Chính phủ đã ban hành các văn bản nhằm khuyến khích đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực giáo dục như cho phép thành lập các cơ sở giáo dục và đào
tạo 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, mở rộng liên kết giữa các cơ sở đào tạo
trong nước và các tổ chức nước ngoài…Nhờ có chính sách đúng đắn, ngành
giáo dục đã tận dụng được mọi nguồn viện trợ thông qua các chương trình hợp
tác song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức
phi chính phủ để tăng cường đầu tư chô giáo dục. Nhiều cán bộ, nhà giáo, nhà
khoa học của Việt Nam đã được ra nước ngoài trao đổi kinh nghiệm, nâng cao
trình độ giảng dạy. Số học bổng và việc tiếp nhận học bổng do các tổ chức quốc
tế, cá nhân trao tặng cho giáo dục ngày càng tăng. Để nâng cao chất lượng dịch
vụ công trong lĩnh vực giáo dục pháp luật quy định nhà giáo và các cán bộ giáo
dục pháp luật phải không ngừng học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao
trình độ chuyên môn, năng lực quản lý. Nhà nước có chính sách đào tạo, bồi
dưỡng nhà giáo, có các chính sách đãi ngộ, nâng cao trình độ quản lý, chất
lượng đội ngũ quản lý giáo dục. Pháp luật về giáo dục quy định rõ ràng chương
trình, nội dung, phương pháp giáo dục ở từng cấp học để đảm bảo chất lượng
nguồn nhân lực, thể hiện hiệu quả của việc cung ứng dịch vụ cho xã hội.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 9
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục ngoài hệ thống giáo dục
công lập, tức Nhà nước là chủ thể cung ứng dich vụ, pháp luật còn cho phép các
chủ thể ngoài công lập được thực hiện hoạt động cung ứng loại dịch vụ này để
đáp ứng ngu cầu phát triển của xã hội.
Ngay từ trước khi có chủ trương xã hội hóa, vào cuối những năm 1980 và
đầu những năm 1990, Đảng và Nhà nước ta đã khởi xướng công cuộc cải cách
giáo dục và đào tạo theo hướng phát triển hệ thông giáo dục và đào tạo ngoài
công lập tồn tại song song với hệ thống của Nhà nước. Cho đến khi Chính phủ
ban hành Nghị quyết 90/CP (1997), nước ta đã có một hệ thống cơ sở giáo dục
ngoài công lập ở tất cả các cấp học. Đây là tiền đề rất quan trọng cho việc đẩy
mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo trong những năm tiếp theo. Thực hiện Nghị
quyết 90C/CP, công tác xã hôi hóa giáo dục đã đi vào chiều sâu và đem lại
những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển giáo dục. Bên cạnh sự phát
triển của các cơ sở công lập, hệ thống các cơ sở ngoài công lập đã hình thành và
phát triển ở mọi bậc học. cấp học trên khắp các vùng, miền. Cơ sở ngoài công
lập thuộc ba loại hình chính:
- Cơ sở bán công: do Nhà nước thành lập trên cở sở huy động các tổ chức,
cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế cùng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất; hoặc
cơ sở bán công thuộc sở hữu nhà nước, do các cơ quan nhà nước quản lý, nhưng
mọi chi phí hoạt động được trang trải bằng lệ phí do học sinh đóng góp.
- Cơ sở dân lập: do các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi
chính phủ, tổ chức kinh tế thành lập và đầu tư vốn. Giống như cơ sở bán công,
các cơ sở dân lập tự trang trải toàn bộ kinh phí.
- Cơ sở tư thục: do cá nhân hay một nhóm cá nhân thành lập và đầu tư
vốn.
Để khuyến khích phát triển xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục nói riêng và các lĩnh vực dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi
trường nói chung, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30
tháng 5 năm 2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa. Theo đó, tạo điều
kiện thuận lợi và các chính sách ưu đãi về giao đất, cho thuê đất, ưu đãi về thuế
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 10
Bài tập nhóm chuyên đề 6
thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về tín dụng để khuyến khích đầu tư. Nhà nước
khuyến khích các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, nhất
là các chủ thể phi nhà nước tham gia vào hoạt động xã hội hóa cung ứng dịch vụ
công trong đó có lĩnh vực giáo dục. Nhà nước tạo môi trường phát triển, môi
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng theo pháp luật để thúc đẩy các cơ sở
công lập và ngoài công lập phát triển cả về quy mô và chất lượng.
Giáo dục và đào tạo được coi là động lực để phát triển kinh tế - xã hội,
giáo dục và đào tạo được đặt lên vị trí quốc sách hàng đầu. Trong số các giải
pháp phát triển giáo dục thì xã hội hóa được coi là giải pháp mang tính chiến
lược, nhằm huy động mọi nguồn lực của xã hội cho phát triển giáo dục, đáp ứng
nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân và đào tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
II. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM
1. Những thành tựu đã đạt được
Trong lĩnh vực giáo dục, với sự đầu tư của Nhà nước và truyền thống hiếu
học của dân tộc, chúng ta đã hoàn thành việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học, đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở và phát triển mạnh các trường
dạy nghề, giáo dục đại học và chuyên nghiệp. Số trẻ em trong độ tuổi từng cấp
học được đi học đạt tỷ lệ cao. Năm 2005 tỷ lệ này ở cấp tiểu học là 97%, trung
học cơ sở là 80%, trung học phổ thông là 45%. Cả nước có 17 triệu học sinh phổ
thông, trong đó 48% là học sinh nữ. Các trường phổ thông hầu hết là công lập.
Trường ngoài công lập còn ít, phần lớn ở bậc trung học phổ thông và tập trung ở
đô thị. Các trường công lập không thu học phí ở bậc tiểu học, các bậc học cao
hơn có thu học phí nhưng kinh phí đầu tư và hoạt động vẫn dựa chủ yếu vào
ngân sách nhà nước. Trong lĩnh vực đào tạo (dạy nghề, giáo dục đại học, cao
đẳng và chuyên nghiệp), số trường dân lập ngày càng tắng, nhưng tỷ trọng chưa
cao. Năm 2004 có 1,32 triệu sinh viên đại học, cao đẳng, 465 nghìn học viên
trung học chuyên nghiệp, trong đó 10,5% học ở các trường ngoài công lập. Số
học sinh học nghề mới tuyển năm 2005 là 1,18 triệu người. Sinh viên, học sinh
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 11
Bài tập nhóm chuyên đề 6
nghèo được nhà nước trợ giúp thông qua chính sách học phí và cho vay dài hạn;
nhiều địa phương đã vận động nhân dân lập quỹ khuyến học để giúp cho học
sinh nghèo và khuyến khích học sinh giỏi. Bên cạnh việc không ngừng tăng tỷ lệ
chi ngân sách cho giáo dục. Nhà nước ta đã tích cực vận động, thu hút vốn
ODA, tài trợ của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước dưới hình thức viện
trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi. Đầu tư cho lĩnh vực
giáo dục nhằm thực hiện các mục tiêu về phổ cập giáo dục, bồi dưỡng giáo viên
và cán bộ quản lý giáo dục; phát triển dạy nghề và củng cố chất lượng đại học.
Hệ thống giáo dục công lập được phát triển mạnh trong toàn quốc với đầy
đủ các cấp bậc học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Hệ thống
các trường công lập đã được tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao năng
lực đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, đổi mới nội dung chương trình. Mạng
lưới cơ sở giáo dục đã được mở rộng đến khắp các xã, phường trên cả nước, góp
phần xõa xã trắng về giáo dục mầm non, củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học. Quy hoạch mạng lưới các trường đại học đã được
triển khai tích cực. Các vùng khó khắn như Tây Bắc, Nam Trung Bộ, Đồng bằng
sông Cửu Long đã thành lập thêm các trường đại học, cao đẳng, tạo điều kiện
cho việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ. Hai đại học quốc gia (Đại học Quốc gia
Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) đã được tổ chức lại; ba đại học
khu vực (Thái Nguyên, Thừa Thiên – Huế và Đà Nẵng) tiếp tục được nâng cấp,
phát triển; các trường đại học trọng điểm của các khối sư phạm, công nghệ,
nông nghiệp, kinh tế được tăng cường.
Bên cạnh sự phát triển của các cơ sở công lập, hệ thống các cơ sở ngoài
công lập đã hình thành và phát triển ở mọi bậc học, cấp học trên khắp các vùng,
miền trong cả nước. Hoạt động của các cơ sở giáo dục và đào tạo ngoài công lập
đã đóng góp một phần rất quan trọng vào sự nghiệp giáo dục của nước ta. Việc
đa dạng hóa các loại hình giáo dục đã góp phần mở rộng cơ hội học tập cho
nhân dân, thu nhận nhiều trẻ em, học sinh, sinh viên tham gia học tập, từ đó
trang bị những kiến thức cần thiết đáp ứng nhu cầu việc làm cho một bộ phận
dân cư.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 12
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Việc hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, các cá nhân nước ngoài và
Việt kiều nhằm khai thác mọi tiềm năng bên ngoài để phát triển giáo dục và đào
tạo ngày càng được mở rộng. Chính phủ đã ban hành các văn bản nhằm khuyến
khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo như: cho phép thành
lập các cơ sở và đào tạo 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam; mở rộng liên kết
giữa các cơ sở đào tạo trong nước và các tổ chức nước ngoài… Nhờ có chính
sách đúng đắn, ngành giáo dục đã tận dụng được mọi nguồn viện trợ thông qua
các chương trình hợp tác song phương và đa phương với các nước, các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Trong vòng hơn 10 năm qua, đã có khoảng 114 chương trình, dự án hợp tác, với
tổng kinh phí hơn 900 triệu USD. Liên kết đào tạo với nước ngoài và du học
phát triển khá. Nhiều cán bộ, nhà giáo, nhà khoa học của Việt Nam đã được ra
nước ngoài trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ, giảng dạy và nghiên cứu
khoa học, và ngược lại nhiều nhà khoa học nước ngoài và Việt kiều đã tham gia
giảng dạy và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam một cách thuận lợi. Số học
bổng và việc tiếp nhận học bổng do các tổ chức quốc tế, cá nhân trao tặng cho
giáo dục các cấp ngày càng tăng.
Dạy nghề cũng là một trong những nội dung thuộc lĩnh vực giáo dục và
đào tạo. Trong thời gian qua, mạng lưới các cơ sở dạy nghề không ngừng phát
triển với sự gia tăng về số lượng và đa dạng hóa các loại hình. Mạng lưới trường
dạy nghề bao gồm các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề, lớp dạy nghề, cơ sở
dạy nghề gồm cả trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng kỹ thuật có chức
năng và nhiệm vụ dạy nghề. So với năm 2000 thì hiện nay, số lượng các trung
tâm dạy nghề tăng 2,7 lần và phát triển tương đối đồng đều tại tất cả các vùng
trong cả nước, đặc biệt sự phát triển nhanh chóng của các trung tâm dạy nghề tại
các vùng Đông Bắc, vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Đáng chú ý là trong 5 năm qua đã phát triển mạnh các trường dạy nghề thuộc
doanh nghiệp (số lượng chiếm hơn 20%) và trường dạy nghề trong quân đội (17
trường). Đã xóa được tình trạng trắng trường ở các địa phương. Trong mạng
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 13
Bài tập nhóm chuyên đề 6
lưới đã và đang hình thành các trường dạy nghề trọng điểm, một số quận, huyện
của các tỉnh/thành phố lớn đã có trung tâm dạy nghề.
Quy mô đào tạo nghề đã tăng lên khá nhanh chóng. Với sự phát triển của
mạng lưới các cơ sở dạy nghề và sự đa dạng hóa đầu tư cho dạy nghề đã dẫn đến
sự đa dạng hóa các hình thức dạy nghề (tại trường lớp, tại doanh nghiệp, làng
nghề, thôn bản…), đa dạng hóa trình độ đào tạo (dài hạn, ngắn hạn) nhờ vậy quy
mô tuyển sinh vào học nghề đã tăng lên nhanh chóng. Các trung tâm dạy nghề
đã triển khai đào tạo trên 100 nghề thuộc 32 nhóm nghề đáp ứng yêu cầu của thị
trường lao động như: may, tin học, cơ khí, gò hàn, kỹ thuật điện, trồng trọt, chăn
nuôi, thú y, điện tử, sửa chữa xe máy…
Bên cạnh đó đã xuất hiện một số mô hình dạy nghề mới theo hướng xã
hội hóa có hiệu quả như: mô hình cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp; mô hình
dạy nghề cho lao động nông thôn; mô hình dạy nghề lưu động; mô hình dạy
nghề cho lao động xuất ngũ…
2. Một số hạn chế, bất cập
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình thực hiện cung
ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục vẫn còn những hạn chế, khó khăn nhất
định.
Thứ nhất, chất lượng thực hiện cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục chưa được tốt.
Trong những năm qua cho thấy, số lượng các trường đại học, cao đẳng
mọc lên ngày càng nhiều. Ở hệ thống các trường công lập, nhiều trường cao
đẳng được chuyển lên hệ đại học như cao đẳng nội vụ, cao đẳng tài nguyên môi
trường, Bên cạnh đó, số trường đại học ngoài công lập cũng mọc lên như
“nấm”. Tuy nhiên, trái với số trường mọc lên thì chất lượng đào tạo ở một số
đơn vị giáo dục chưa được tốt, đặc biệt là ở một số đơn vị giáo dục ngoài công
lập. Ở các cơ sở đào tạo ngoài công lập nhiều trường vẫn được cấp phép hoạt
động dù không bảo đảm đủ điều kiện về cơ sở vật chất và nguồn giảng viên nên
đã không mang lại chất lượng đào tạo tốt trong việc giảng dạy. Điều này dẫn đến
việc một số cơ sở không duy trì được quy mô ban đầu thậm chí phải giải thể.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 14
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Một số trường chạy theo nguồn thu dẫn đến hạ thấp các tiêu chuẩn tuyển
sinh và thiếu nghiêm túc trong đánh giá kết quả đầu ra, không đầu tư thích đáng
cho hoạt động học thuật và chất lượng đào tạo.
Thực tế cho thấy, bên cạnh các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông ngoài công lập phải nộp học phí tương đối cao nhưng
chất lượng đào tạo và cơ sở vật chất giảng dạy đầy đủ thì vẫn có những cơ sở
giáo dục ngoài công lập chất lượng chưa tốt. Đội ngũ giáo viên giảng dạy trình
độ chưa cao, học sinh phá phách, ý thức đạo đức, ý thức học tập kém, tỷ lệ đỗ
tốt nghiệp thấp, Ở hệ đại học, dường như chất lượng đào tạo ở các trường công
lập tốt hơn ở các trường ngoài công lập, trừ những trường ngoài công lập có
tiếng. Biểu hiện ở chỗ thông thường những học sinh không đủ điểm vào học tại
các trường đại học công lập mới đăng ký học nguyện vọng hai tại các trường đại
học ngoài công lập. Và lúc tốt nghiệp ra trường thì các nhà tuyển dụng vẫn ưu
tiên những người có bằng đại học ở các trường công lập. Điều này phản ánh chất
lượng đào tạo ở một số trường ngoài công lập chưa đảm bảo trong khi chi phi
học tập cao.
Tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh như mua bằng, bán điểm xảy ra
khá phổ biến. Hiện tượng dạy thêm, học thêm tràn lan, trong trường thì dạy hời
hợt, ngoài trường thì dạy nhồi nhét, thu tiền học cao, dạy và học chạy theo bằng
cấp, thi cử,…
Thứ hai, có sự lúng túng, thiếu cơ sở khoa học, kém hiệu quả về quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục.
Quy mô giáo dục phát triển nhanh cả về công lập lẫn ngoài công lập
nhưng công tác quản lý vẫn còn yếu kém và điều kiện đảm bảo chất lượng còn
thấp. Nhà nước chưa có một cơ chế riêng để quản lý một cách có hiệu quả các
đơn vị giáo dục công lập và ngoài công lập. Bởi vậy, ở các hình thức học tại
chức hoặc học từ xa ở các đơn vị công lập, ngoài công lập; thậm chí là hình thức
học chính quy tại các đơn vị giáo dục ngoài công lập, các hình thức liên kết đào
tạo có tình trạng “học giả, bằng thật”. Bởi vậy cần có cơ chế quản lý riêng rẽ
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 15
Bài tập nhóm chuyên đề 6
giữa hình thức các đơn vị công lập, ngoài công lập và siết chặt quản lý các đơn
vị giáo dục ngoài công lập để nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhà nước hô hào bệnh chống thành tích nhưng mầm bệnh được nảy mần
trong chính các chính sách về giáo dục, đào tạo. Tình trạng học sinh “ngồi nhầm
lớp” và tỷ số học sinh khá giỏi chưa phản ánh đúng trình độ học sinh. Hay nhà
nước cấm dạy thêm, học thêm nhưng cả xã hội và chắc hẳn các nhà quản lý cũng
nhận thấy dạy thêm, học thêm ngày càng phổ biến hơn đến mức phần lớn phụ
huynh không thể yên tâm về quá trình học tập của con cái mình nếu không cho
học thêm. Những ví dụ đó cho thấy Nhà nước chưa có sự nhạy cảm trong việc
nắm bắt nhu cầu xã hội , quản lý Nhà nước vẫn mang nặng tính hành chính, chủ
quan, duy ý chí.
Bên cạnh đó, chưa có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nên vì mục đích
lợi nhuận, một số cơ sở giáo dục dân lập có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao, đi
kèm với nó là cơ chế tài chính, thu chi thiếu minh bạch, ảnh hưởng tiêu cực đến
những người hưởng dịch vụ.
Thứ ba, có sự thiếu hụt ngân sách trong cung ứng dịch vụ công
Mặc dù hàng năm nhà nước đều cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước cho
lĩnh vực giáo dục đào tạo và có nguồn thu từ học phí nhưng vẫn còn hạn chế,
không đảm bảo được chi phí thiết yếu của các đơn vị nhà nước cung cấp dịch vụ
công. Nguồn ngân sách hạn hẹp như vậy đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cung
ứng dịch vụ công, ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ mà trước hết là không đủ trả
lương thỏa đáng cho cán bộ công chức, viên chức. Thực trạng này có thể làm
phát sinh hiện tượng tiêu cực, phá hủy nền tảng đạo đức của xã hội. Hơn nữa, ở
một số cơ sở đào tạo không đủ tiền để mua cơ sở vật chất đáp ứng đầy đủ cho
việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn như một số trường kỹ thuật
cần phải có các dụng cụ máy móc để thực hành tuy nhiên nhà trường không có
đủ số tiền để cung cấp một cách tốt nhất cơ sở vật chất cho sinh viên,… Trong
khi đó nhu cầu học của xã hội ngày càng tăng lên nhanh chóng với đòi hỏi cao
về chất lượng khi mức sống ngày càng cải thiện.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 16
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Thứ tư, một số đơn vị giáo dục ngoài công lập quá quan tâm tới yếu tố
thương mại hóa dẫn đến việc lơ là chất lượng giáo dục
Các cơ sở ngoài công lập luôn có vốn góp của các cá nhân, tổ chức và các
cá nhân, tổ chức này được chia lợi nhuận hoặc được phân phối chênh lệch giữa
tổng thu và tổng chi của đơn vị trong năm tài chính sau khi hoàn thành nghĩa vụ
nộp ngân sách từ nhà nước, bổ sung nguồn vốn, chi tăng cường cơ sở vật chất,
giảm mức thu phí,… nên khó có thể nói các cá nhân, tổ chức này vô tư với thu
nhập của mình.
Mặt khác, chất lượng giáo dục đào tạo phần nào đó được đánh giá trên
những dấu hiệu mang tính hình thức như điểm số trong quá trình học hay chứng
chỉ, bằng cấp sau mỗi chương trình học. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến
nguy cơ thương mại hóa, giáo dục đào tạo. “Việc cung cấp các dịch vụ của nhà
nước thường chú trọng đến chất lượng, nhưng lại có quá ít sự lựa chọn. Còn việc
cung cấp các dịch vụ theo cơ chế thị trường lại ít quan tâm đến chất lượng mà
chú trọng đến lợi nhuận thu được”. Tình trạng mua bằng, bán điểm diễn ra khá
phổ biến. Đây là biểu hiện của tình trạng “thương mại hóa” lĩnh vực giáo dục đã
bị phê phán gay gắt trong nhiều năm qua.
Tóm lại, có thể nói những tiêu cực xảy ra trong lĩnh vực giáo dục trong
thời gian qua đã gây ra nhiều bức xúc cho xã hội. Đây là lĩnh vực có ảnh hưởng
đến đời sống của đông đảo nhân dân vì vậy những tiêu cực này phần nào đã
củng cố thêm những nhận thức sai về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công. Đặc
biệt có những vấn đề đã được bàn bạc tại nhiều diễn đàn khác nhau với sự tham
gia của các chuyên gia đầu ngành nhằm tháo gỡ những hạn chế và tiêu cực
nhưng kết quả đạt được vẫn còn hạn chế.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ MẶT PHÁP LUẬT ĐỂ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC.
1. Đổi mới hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục.
Một là, tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 17
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Việc phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay đang là một đòi hỏi cấp bách, đồng thời là
một trong những đột phá có tính chiến lược của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Vì vậy cần tổ
chức lại hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực của quốc gia, theo hướng có một cơ quan (Bộ Giáo dục)
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục mầm non và giáo dục phổ
thông thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay và một cơ quan (Bộ Đào tạo và
Phát triển nguồn nhân lực) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học và phát triển nguồn nhân lực quốc gia (bao gồm
bộ phận quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục
thường xuyên mà hiện nay đang thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; bộ phận quản lý
nhà nước về dạy nghề thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; bộ phận
quản lý nhà nước về thanh niên đang thuộc Bộ Nội vụ hiện nay). Nếu không tổ
chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thì không thể
đổi mới quản lý giáo dục và “đổi mới căn bản và toàn diện” nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế.
Hai là, nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ
trong việc thực hiện chiến lược, chính sách phát triển giáo dục. Đổi mới chức
năng và phương thức hoạt động của Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển
nhân lực do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch theo hướng giúp Thủ tướng chỉ
đạo việc thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục trong thực hiện chiến lược
phát triển giáo dục. Hội đồng này có bộ phận giúp việc, huy động lực lượng các
nhà khoa học, giáo dục, hoạt động kinh tế - xã hội, có uy tín thuộc các lĩnh vực
khác nhau tham gia quá trình xây dựng, thẩm định các chủ trương, chính sách,
kế hoạch phát triển, đánh giá chất lượng, hiệu quả các hoạt động giáo dục một
cách thống nhất và đồng bộ.
Ba là, tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển giáo dục, tập trung
đầu tư cho tuyến cơ sở và những vùng khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa,
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 18
Bài tập nhóm chuyên đề 6
vùng dân tộc thiểu số; dành lượng kinh phí thích đáng trợ giúp người thuộc diện
chính sách và người nghèo thụ hưởng dịch vụ công, chuyển cơ chế cấp kinh phí
cho đơn vị cung ứng sang cấp kinh phí trực tiếp cho người thụ hưởng dịch vụ;
chuyển cơ chế cấp kinh phí theo đầu vào sang cấp kinh phí theo đầu ra tùy thuộc
vào số lượng và chất lượng dịch vụ cung ứng.
Bốn là, tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát
triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục theo hướng: “Chuyển dần mô hình
giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ
thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học;
xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học
tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên ”
Cơ cấu lại hệ thống giáo dục đáp ứng nhu cầu của đất nước trong giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ
chức hệ thống giáo dục tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cơ cấu lại các trình độ đào tạo theo hướng chuẩn hóa (chuẩn quốc gia và chuẩn
quốc tế). Cải tiến tín chỉ, đổi mới tuyển sinh, đa dạng hóa phương thức đào tạo,
xây dựng các quy chuẩn về liên thông, chuyển tiếp giữa các cấp bậc học, trình
độ đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo và thực hiện các giải pháp khác hỗ trợ việc
điều chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Chủ động nghiên cứu tìm ra các hình thức, cơ chế kết hợp hữu cơ giữa
đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn, lấy hiệu quả ứng dụng thực tiễn làm
đích để định hướng và gắn kết đào tạo với nghiên cứu, làm cho công tác đào tạo
và nghiên cứu thích ứng với cơ chế thị trường, trực tiếp góp phần làm tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm giáo dục, đào tạo của Việt Nam.
Năm là, đổi mới cơ bản về tư duy, về cơ chế và phương thức quản lý giáo
dục theo hướng phân cấp một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát huy mạnh
mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và
mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết một cách hiệu quả những bất cập của toàn hệ
thống trong quá trình phát triển. Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và
đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân công của Chính phủ,
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 19
Bài tập nhóm chuyên đề 6
tập trung làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu, như xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế và quy chế quản lý và
kiểm định chất lượng đào tạo; tổ chức kiểm tra và thanh tra giáo dục, Cần
giảm thiểu việc quản lý còn nặng tính chất sự vụ, bị động và tập trung thái quá
trong việc thực hiện các “dự án” giáo dục. Trên cơ sở thể chế hóa vai trò, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý giáo dục ở các cấp, các ngành
mà thực hiện sự phân cấp quản lý mạnh mẽ cho các bộ, ngành, các địa phương.
Hoàn thiện quy chế quản lý hoạt động của các loại hình trường. Giao quyền chủ
động cao hơn cho các trường đại học, cao đẳng để tạo điều kiện cho các trường
chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, đồng
thời chịu trách nhiệm lớn hơn đối với xã hội và nhân dân. Đẩy mạnh phân cấp
và góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc; ngăn chặn và đẩy lùi các
hiện tượng tiêu cực trong giáo dục.
Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ trong giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ
chế tài chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý
mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố
công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ
sở giáo dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, thực hiện nền nếp
kỷ cương tại các cơ sở giáo dục; kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực
trong giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục, đào
tạo trên cả ba phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai
trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài,
xây dựng xã hội học tập. Xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa nhà trường, gia
đình và xã hội, cơ chế gắn kết giáo dục - đào tạo với nghiên cứu khoa học - công
nghệ và ứng dụng qua các hình thức tổ chức, liên kết, các chính sách vĩ mô và vi
mô.
Tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất
lượng giáo dục. Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên gia công tác trên
lĩnh vực này. Xây dựng các chuẩn và công khai hóa các chuẩn trong giáo dục và
đào tạo.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 20
Bài tập nhóm chuyên đề 6
Sáu là, đổi mới căn bản chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng coi trọng phẩm chất và năng
lực thực tế. Xây dựng và hiện đại hóa các trường đại học sư phạm trọng điểm,
chỉ tập trung vào công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, không đào tạo ngoài
ngành sư phạm. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch hóa công tác đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên các cấp, các chuyên ngành ở từng địa phương, từng khu vực và
cả nước. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
các cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng
thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ, giáo viên theo yêu cầu mới phù hợp với năng
lực và phẩm chất của cán bộ. Thực hiện các chế độ, chính sách nhằm thu hút học
sinh giỏi vào học ngành sư phạm và các chế độ, chính sách thực sự ưu tiên, ưu
đãi cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Chế độ này cần nâng mức hưởng
lương và phụ cấp cho giáo viên đứng lớp lên mức ngang cán bộ quân đội và
công an.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
quản lý, chú trọng quản lý chất lượng giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra,
kiểm định chất lượng và giám sát các hoạt động quản lý giáo dục. Chấn chỉnh,
sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng; khắc phục tình trạng thành
lập mới các trường ở những nơi, những lĩnh vực không đủ điều kiện về đội ngũ
cán bộ giảng dạy, về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu vào của sinh viên; kiên
quyết loại bỏ các trường đào tạo chất lượng kém. Tăng quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của nhà trường đi đôi với việc hoàn thiện cơ chế dân chủ, công
khai, minh bạch, bảo đảm sự giám sát của các cơ quan nhà nước, đoàn thể và xã
hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong quản lý giáo
dục ở các cấp.
2. Đẩy mạnh xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục
Những nội dung cơ bản của chủ trương xã hội hóa cung ứng dịch vụ công
đã được đề cập tại Nghị quyết 90/CP (1997), Nghị quyết 05/2005/NQ-CP và
một số văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước. Trong đó, việc thực
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 21
Bài tập nhóm chuyên đề 6
hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục được chú trọng đầu tiên. Để đẩy mạnh
xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục cần thực hiện nhiều
nhóm giải pháp:
Thứ nhất, làm rõ vấn đề mang tính lý luận về xã hội hóa cung ứng dịch vụ
công nói chung và cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, như
đa dạng hóa các hình thức cung ứng dịch vụ công, làm rõ cơ chế hoạt động của
các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ công,
Thứ hai, thực hiện các biện pháp, chính sách tạo dễ dàng và khuyến khích
đối với các cơ sở giáo dục ngoài công lập cung ứng dịch vụ công như đơn giản
hóa thủ tục thành lập và hoạt động của các trường ngoài công lập, thực hiện
chính sách khuyến khích đầu tư đối với các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Đặc
biệt, Nhà nước nên xây dựng và khuyến khích quy chế đặc thù đối với các cơ sở
đào tạo không vì lợi nhuận cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
3. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với các cơ sở cung
ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
Thứ nhất, Công tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo dục cần làm
thường xuyên, cần tổ chức hoạt động kiểm tra, thanh tra đối với chính các cơ
quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện quản lý các cơ sở giáo dục này. Việc
xử lý vi phạm đối với các đơn vị sai phạm cần được tiến hành nghiêm túc, đúng
quy định.
Thứ hai, xã hội hóa giáo dục là khuyến khích sự tham gia của các tổ chức
xã hội trong việc giám sát hoạt động của các cơ sở giáo dục, vì vậy cần tăng
cường sự tham gia của:
- Tổ chức hội đồng trường: Như đã nêu trong Luật Giáo dục 2005, hội
đồng trường là một tập thể đại diện cho tiếng nói và lợi ích của xã hội, do vậy
mà hội đồng trường nên giữ quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm hiệu trưởng; thực
hiện chức năng định hướng và giám sát hoạt động quản lý điều hành của ban
giám hiệu. Nâng cao vai trò của hội đồng trường là cách để tăng cường sự tham
gia của xã hội vào việc lãnh đạo trường đại học nhằm giúp nhà trường thực hiện
tốt nhất sứ mạng phục vụ xã hội.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 22
Bài tập nhóm chuyên đề 6
- Tổ chức kiểm định độc lập: Giảm bớt sự kiểm soát của nhà nước và thay
bằng sự giám sát của các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp, chẳng hạn
như Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng, hay các tổ chức kiểm định độc lập
hoạt động theo cơ chế của các tổ chức dân sự. Khác với hội đồng trường, kiểm
định độc lập không có vai trò can thiệp trực tiếp vào hoạt động của nhà trường,
mà là một tổ chức xã hội bao gồm các chuyên gia về đánh giá chất lượng và
quản trị đại học, có trách nhiệm xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng và đánh giá
việc thực hiện các tiêu chuẩn ấy ở các trường. Các tổ chức kiểm định độc lập có
thể coi là tiếng nói của giới chuyên môn, thay mặt cho công chúng để giám sát
chất lượng đào tạo của nhà trường theo những tiêu chuẩn được nêu công khai,
minh bạch.
Đặc biệt cần tăng cường trách nhiệm giải trình của các trường: Đối với
khu vực giáo dục tư, cần có quy chế riêng cho hai loại hình cơ sở đào tạo đại
học không vì lợi nhuận và vì lợi nhuận. Các trường đại học công và tư đều cần
được kiểm toán, đặc biệt là những trường đại học tư đăng ký hoạt động theo quy
chế không vì lợi nhuận. Về học thuật và đào tạo, tiếp tục chủ trương Ba Công
khai của Bộ GD&ĐT, công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng, chuẩn
đầu ra, quy trình đào tạo nhằm tăng cường sự giám sát của toàn xã hội đối với
hoạt động của nhà trường.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục về cơ bản đã đáp ứng tương đối tốt nhu cầu điều chỉnh cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục bằng pháp luật; phản ánh một cách khách quan nhu
cầu của thực tiễn và xã hội. Các quy định đã kịp thời cụ thể hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng về phát triển giáo dục, bồi dưỡng nhân tài; yêu cầu
về quản lý nhà nước đối với các hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực
giáo dục. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập khiến cho
chất lượng của dịch vụ không cao, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người thụ
hưởng dịch vụ; vì vậy đòi hỏi cần có các giải pháp đồng bộ để hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả của việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực này.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 23
Bài tập nhóm chuyên đề 6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật giáo dục năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
2. Luật Giáo dục Đại học năm 2012.
3. Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/05/2008 về chính sách khuyến
khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề,
y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
4. Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/04/2005 quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục (sửa đổi bổ sung bởi Nghị định
số 40/2011/NĐ-CP).
5. Chỉ thị 55/2008/CT- BGDĐT ngày 30/09/2008 về tăng cường giảng dạy,
đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn
2008-2012.
6. TS. Nguyễn văn Quang, Hoàn thiện khung pháp luật về xã hội hóa cung
ứng dịch vụ công ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2010.
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 24
Bài tập nhóm chuyên đề 6
MỤC LỤC
I. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CUNG
ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC 1
1. Quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục 1
2. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo
dục 8
II. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM 11
1. Những thành tựu đã đạt được 11
2. Một số hạn chế, bất cập 14
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ MẶT PHÁP LUẬT ĐỂ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH
VỰC GIÁO DỤC 17
1. Đổi mới hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực giáo dục 17
2. Đẩy mạnh xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục 21
3. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực giáo dục 22
Nhóm 11CH20 – Chuyên ngành Luật Hành chính & Hiến pháp 25