Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

thiết lập mô hình xác định giá trị hợp lý của các khoản Đầu tư tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.53 KB, 16 trang )

Phần III: Kiến nghị
1. Mặt tích cực
Hiện nay chúng ta đã có các văn bản nêu ra những vấn đề cơ bản nhất về TSTC. Về
tổng quan thì có thông tư 210/2009/TT-BTC đã hướng dẫn về việc áp dụng chuẩn mực kế
toán quốc tế về trình bày và thuyết minh CCTC, trong đó trích dẫn các định nghĩa về
CCTC nói chung và TSTC nói riêng. Thông tư này khá thống nhất với chuẩn mực IAS 32
và IFRS 7 về nhiều điểm trọng yếu.
Với một số loại TSTC cụ thể cũng có chuẩn mực, chế độ kế toán riêng. Ví dụ như
chuẩn mực số 10 về ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái, chuẩn mực số 07 Kế
toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết. Hệ thống các văn bản này vẫn đang được tiếp
tục nghiên cứu để đưa ra những điều chỉnh đi đến thống nhất, phù hợp với hoàn cảnh
kinh tế các giai đoạn khác nhau.
Một trong những thay đổi gần đây về quản lý CCTC là vấn đề chênh lệch tỷ giá hối
đoái
Các văn bản hướng dẫn về chênh lệch tỷ giá trước đây (Thông tư số 38/2001/TT-
BTC ngày 5/6/2001, Thông tư số 201/2009/TT-BTC ngày 15/10/2009) mỗi văn bản có
hướng dẫn khác nhau và có nhiều điểm không thống nhất với Chuẩn mực kế toán Việt
Nam số 10 - Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái (VAS 10).
Thông tư số 179/2012/TT-BTC ngày 24/10/2012 (TT 179) ra đời đã có một số điểm
chung, thống nhất với VAS 10 về:
- Cách xử lý và hạch toán chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh trong giai đoạn đầu tư
xây dựng để hình thành TSCĐ của doanh nghiệp mới thành lập, chưa đi vào hoạt
động;
- Cách ghi nhận các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái trong kỳ hoạt động sản xuất
kinh doanh, kể cả đầu tư xây dựng hình thành TSCĐ của DN đang hoạt động;
- Cách ghi nhận các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại số dư các
khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ tại ngày kết thúc kỳ kế toán.
Theo QĐ 15/2006, người làm kế toán có quyền chọn lựa hạch toán theo tỷ giá bình
quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hay tỷ giá giao dịch tại
NH mở tài khoản giao dịch dẫn đến nhiều tranh cãi và bất cập trong thực tiễn khi vận
dụng tỷ giá quy đổi ra đồng Việt Nam để ghi sổ, hạch toán kế toán. Thông tư 179 nêu rõ


hơn, cụ thể hơn, là hạch toán theo tỷ giá mua vào của NHTM nơi DN mở tài khoản công
bố tại thời điểm lập BCTC. Nếu DN mở tài khoản tại nhiều NH khác nhau thì có thể thực
hiện theo tỷ giá giao dịch bình quân của các NHTM mà DN mở tài khoản tại thời điểm
đánh giá lại số dư các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối kỳ.
Đồng thời Thông tư 179 cũng gỡ bỏ đi sự bối rối, tranh cãi trong việc xác định chi phí
được trừ hay không được trừ đối với khoản lỗ chênh lệch tỷ giá tính vào chi phí. Theo
Thông tư 179 thì việc xác định chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN
đối với các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái thì thực hiện theo quy định của pháp luật về
thuế TNDN. Còn Thông tư 201/2009 thì các khoản lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái này sẽ
tính vào chi phí tài chính trong năm và được coi là chi phí hợp lý khi tính thuế TNDN.
Như vậy sau khi Thông tư 179 có hiệu lực, một số điểm bất cập về xử lý chênh lệch tỷ
giá hối đoái đã được hoàn thiện, gỡ bỏ được mâu thuẫn giữa VAS 10 và thông tư hướng
dẫn trước đây, vì với Thông tư 201 sẽ làm phát sinh chênh lệch tạm thời lãi lỗ CLTG
cuối kỳ giữa kế toán và thuế, dẫn đến phát sinh thuế TNDN hoãn lại. Còn với TT 179 sẽ
không phát sinh thuế TNDN hoãn lại, tạo điều kiện thuận lợi hơn với kế toán khi hạch
toán chênh lệch cuối kỳ, giảm bớt những khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực hiện và
các kiểm toán viên khi đưa ra ý kiến kiểm toán.
2. Mặt hạn chế
Các quy định kế toán và các quy định pháp lý liên quan đến các công cụ tài chính của
Việt Nam hiện nay chỉ mới giải quyết được một số vấn đề cơ bản, các nghiệp vụ đơn giản
về các công cụ tài chính. Tuy nhiên, kế toán TSTC vẫn có một số hạn chế sau:
a) Chưa có hệ thống chuẩn mực; chế độ, các văn bản luật, quy định chưa hoàn toàn
thống nhất.
Hiện nay chúng ta mới chỉ có 1 thông tư duy nhất là Thông tư 210/2009 về hướng
dẫn áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế về CCTC, chưa có các chuẩn mực kế toán
riêng mà mới chỉ đang lên dự thảo 6 chuẩn mực về CCTC. Thông tư 210 cũng mới
chỉ có những quy định chung nhất về CCTC, so với chuẩn mực kế toán thế giới thì
còn rất nhất thiếu sót. Cụ thể, thông tư này mới chỉ có hướng dẫn áp dụng IAS 32 về
trình bày CCTC và IFRS 7 về thuyết minh CCTC mà chưa có hướng dẫn đối với IAS
39 về ghi nhận và đo lường CCTC. Việc trình bày và thuyết minh TSTC còn rất nhiều

vấn đề mà trong phạm vi một thông tư chưa nêu ra và làm sáng tỏ được.
Các quy định kế toán về một số loại TSTC riêng rẽ đã được ban hành và áp dụng
nhiều năm nhưng vẫn có những bất đồng. Đơn cử như về chênh lệch tỷ giá hối đoái
đề cập ở trên, tuy đã tháo gỡ được nhiều khúc mắc trong các văn bản quy định kế toán
trước đó, nhưng Thông tư 179 vẫn hạn chế ở phạm vi điều chỉnh, không nói rõ là có
thay thế cho các quy định ở Chuẩn mực kế toán số 10, chế độ kế toán doanh nghiệp
hay không trong khi các văn bản này lại đều cùng do Bộ Tài chính ban hành. Điều
đáng quan tâm ở đây là Thông tư số 179/2012/TT-BTC đã đề cập đến các nội dung
tương tự như các nội dung đã quy định trong chuẩn mực kế toán số 10 - Ảnh hưởng
của việc thay đổi tỷ giá hối đoái và Chế độ kế toán doanh nghiệp về giải thích các từ
ngữ; tỷ giá quy đổi ngoại tệ ra "Đồng Việt Nam"; quy định xử lý các khoản chênh
lệch tỷ giá trong từng trường hợp cụ thể. Vì vậy trong thực tế hiện nay các doanh
nghiệp vẫn đang gặp khó khăn, đứng về góc độ pháp lý không biết là thực hiện theo
quy định của văn bản nào để ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính sẽ được cho là
đúng.
b) Việt Nam hạch toán các khoản đầu tư chứng khoán theo chế độ kế toán doanh
nghiệp được hạch toán theo giá gốc, trong khi đó theo thông lệ quốc tế các khoản
đầu tư chứng khoán được phản ánh theo giá trị hợp lý.
Việc hạch toán kế toán các khoản đầu tư tài chính hiện nay được thực hiện theo
QĐ 15/2006 về chế độ kế toán doanh nghiệp. Các khoản đầu tư chứng khoản được
hạch toán theo phương pháp giá gốc (là phương pháp kế toán mà khoản đầu tư được
ghi nhận ban đầu theo giá gốc, sau đó không được điều chỉnh theo những thay đổi của
phần sở hữu của nhà đầu tư trong tài sản thuần của bên nhận đầu tư)
Nguyên tắc giá gốc được xem là nền tảng đo lường của kế toán trong nhiều năm
qua và kế toán theo phương pháp giá gốc đã thực hiện tốt chức năng cung cấp thông
tin phù hợp và đáng tin cậy cho người sử dụng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, kế
toán theo giá gốc đã bộc lộ những hạn chế đối với việc phản ánh thông tin về tài sản
tài chính nói chung và các khoản đầu tư tài chính nói riêng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, hạn chế trong việc ghi nhận ban đầu của các khoản đầu tư tài chính
(ĐTTC). Theo quy định của chế độ kế toán Việt Nam, các khoản ĐTTC phát sinh lần

đầu tiên tại doanh nghiệp đều được ghi nhận theo giá gốc. Khi doanh nghiệp tiến hành
mua cổ phiếu hoặc trái phiếu với mục đích đầu tư ngắn hạn hay dài hạn thì giá trị của
khoản chứng khoán đầu tư sẽ được ghi sổ kế toán theo giá thực tế mua chứng khoán
(giá gốc), bao gồm: giá mua cộng (+) các chi phí mua (nếu có) như chi phí môi giới,
giao dịch, cung cấp thông tin, thuế, lệ phí và phí ngân hàng.
Ví dụ, Công ty XYZ mua 10.000 cổ phiếu ABC, mệnh giá 10.000đ/cp, giá mua
30.000đ/cp, với thời gian nắm giữ dự kiến là 6 tháng. Chi phí môi giới 15.000.000đ. Phí giao
dịch 1% giá trị giao dịch. Như vậy, theo nguyên tắc giá gốc, giá trị của 10.000 cp ABC = Giá
mua + Chi phí môi giới + Chi phí giao dịch = 318 triệu đồng, trong đó giá mua là 300 trđ, phí
môi giới là 15trđ và phí giao dịch là 3 trđ. Như vậy, giá gốc 1 cổ phiếu ABC lúc này là
31.800đ/cp, tăng 1.800đ so với giá mua ban đầu. Với việc hạch toán cả chi phí môi giới, chi
phí giao dịch, và các chi phí khác như chi phí cung cấp thông tin, thuế, lệ phí,… vào giá gốc
của các khoản ĐTTC nắm giữ trong thời gian ngắn, làm cho giá trị của các khoản đầu tư này
được phản ánh không chính xác, “đẩy” giá gốc của các khoản đầu tư chứng khoán lên rất cao
so với giá trị thực tế của nó đang được giao dịch trên thị trường.
Thứ hai, bất cập trong việc phản ánh và trình bày các khoản ĐTTC trên báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Khi kết thúc kỳ kế toán, giá trị của các khoản ĐTTC của
doanh nghiệp được trình bày trên báo cáo tài chính (BCTC) mà cụ thể là Bảng cân đối
kế toán theo giá gốc – giá trị ban đầu. Nếu các khoản chứng khoán đầu tư của doanh
nghiệp bị giảm giá hoặc giá trị các khoản ĐTTC bị tổn thất do tổ chức kinh tế mà
doanh nghiệp đang đầu tư vào bị lỗ, thì doanh nghiệp sẽ phải trích lập dự phòng theo
quy định. Còn ngược lại, nếu giá trị các khoản ĐTTC của doanh nghiệp tăng lên do
giá cổ phiếu tăng, thì khoản chênh lệch này lại không được phản ánh và ghi nhận
Ví dụ, ngày 16/03/200N, Công ty Alpha mua 500.000 cp ACB được niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) với mục đích đầu tư ngắn hạn. Giá mua là 26.000đ/cổ
phiếu, và chi phí phải trả để sở hữu 500.000 cổ phiếu ACB là 26.000đ/cp x 500.000cp =13 tỷ
đồng. Kết thúc năm tài chính, ngày 31/12/200N, giá đóng cửa của cổ phiếu ACB trên HNX
là 37.000đ/cp. Như vậy, giá trị của khoản đầu tư này tính theo giá thị trường tại thời điểm lập
BCTC là 37.000đ/cp x 500.000cp = 18,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, giá trị của khoản đầu tư vào cổ
phiếu ACB được trình bày trên Bảng cân đối kế toán vẫn chỉ là 13 tỷ đồng và phần chênh

lệch 5,5 tỷ đồng này không được ghi nhận tăng thêm vào thu nhập, tài sản hay vốn chủ sở
hữu. Với cách ghi nhận này, vô hình chung, sự tăng của giá cổ phiếu trong danh mục các
khoản ĐTTC không tác động đáng kể nào đến bảng tổng kết tài sản và báo cáo kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, rõ ràng, doanh nghiệp sẽ được “hưởng lợi” từ việc cổ
phiếu ACB tăng hơn 40% giá trị.
Ngoài việc không phản ánh chênh lệch tăng của các khoản ĐTTC, khi các khoản
ĐTTC bị giảm giá thì việc trích lập dự phòng các khoản đầu tư này cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định. Đó là việc ghi nhận tất cả các khoản dự phòng ĐTTC vào
chi phí tài chính phát sinh trong kỳ, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kế
toán, mà không phân biệt khoản dự phòng giảm giá đầu tư là dự phòng giảm giá đầu
tư tài chính ngắn hạn (phản ánh trên TK 129) hay khoản dự phòng giảm giá đầu tư tài
chính dài hạn (phản ánh trên TK 229). Trong khi đó, bản chất của khoản ĐTTC ngắn
hạn và dài hạn là rất khác nhau. Việc phản ánh các khoản dự phòng ĐTTC vào chi phí
tài chính làm cho nhiều doanh nghiệp bị “lỗ nặng” trong khi hoạt động kinh doanh
chính vẫn tăng trưởng và có hiệu quả.
Liên quan đến việc trích lập dự phòng giảm giá đối với các chứng khoán chưa
niêm yết trên thị trường chứng khoán, chúng tôi nhận thấy quy định trong điều 5,
phần II, của Thông tư 228/2009/TT-BTC, ngày 07 tháng 12 năm 2009, của Bộ Tài
chính về Hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng
tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư tài chính, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản
phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp tại doanh nghiệp, chưa đảm bảo tính thuyết phục,
có thể dẫn đến phản ánh không chính xác giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC tại thời
điểm cuối kỳ kế toán. Trong quy định tại Thông tư 228 này, đối với các Công ty đã
đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết
(UPCom) thì giá chứng khoán thực tế trên thị trường được xác định là giá giao dịch
bình quân trên hệ thống tại ngày trích lập các khoản dự phòng. Còn đối với các công
ty chưa đăng ký giao dịch ở thị trường giao dịch của các công ty đại chúng (OTC), giá
chứng khoán thực tế trên thị trường được xác định là giá trung bình trên cơ sở giá
giao dịch được cung cấp tối thiểu bởi ba (03) công ty chứng khoán tại thời điểm lập
trích lập dự phòng. Tuy nhiên, thông thường các loại chứng khoán của các công ty đại

chúng trên có tính thanh khoản thấp, ít giao dịch, nên những người nắm giữ loại
chứng khoán này có thể "phù phép" làm tăng giá chứng khoán tại ngày cuối cùng của
kỳ kế toán, để tránh việc phải trích lập các khoản dự phòng. Vì tính thanh khoản kém,
ít người mua, kẻ bán, người nắm giữ dễ dàng đẩy giá chứng khoán lên thông qua việc
tiến hành mua bán một cách “giả tạo” chứng khoán này với nhau.
Đối chiếu với hệ thống kế toán Mỹ, việc hạch toán các khoản đầu tư chứng khoán
có những khác biệt so với hệ thống kế toán Việt Nam. Theo chuẩn mực kế toán No
115, các loại chứng khoán được phân loại, đánh giá và ghi nhận như sau:
Bảng Phân loại và đánh giá đầu tư chứng khoán theo hệ thống kế Mỹ
Danh mục đầu tư
(Portfolios)
Loại chứng
khoán (Type)
Đánh giá
(Valuation)
Phân loại
(Classification)
Giữ tới khi đáo hạn
(Held-to-Maturity)
Nợ phải trả
(Debt)
Phân bổ theo
giá gốc
(Amortized
cost)
Ngắn hạn hoặc
dài hạn
(Current or
Noncurrent)
Thương mại

(Trading)
Nợ phải trả
hoặc vốn chủ
sở hữu (Debt
or Equity)
Giá trị hợp lý
(Fair value)
Ngắn hạn
(Current)
Sẵn sàng để bán
(Available-for-
sale)
Nợ phải trả
hoặc vốn chủ
sở hữu (Debt
or Equity)
Giá trị hợp lý
(Fair value)
Ngắn hạn hoặc
dài hạn
(Current or
Noncurrent)
Nếu doanh nghiệp nắm giữ dưới 20% cổ phiếu thường của một công ty, doanh
nghiệp đó sẽ sử dụng phương pháp giá thị trường cho các khoản đầu tư.
FASB đã đặt ra hai khoản mục về đầu tư cổ phiếu dưới 20%.
+ Chứng khoán thương mại đây là những khoản đầu tư ngắn hạn được nắm giữ để
bán trong ngắn hạn, mục đích để bán trong tương lại gần. Nó đc xem là TSNH. Các
khoản lãi hoặc lỗ chưa thực hiện (do thay đổi giá trị thị trường của CP) được báo cáo
trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
+ Tất cả các khoản đầu tư cổ phiếu khác dưới 20% được xem là Chứng khoán chờ

bán. Nó có thể là tài sản ngắn hạn hoặc tài sản dài hạn. Các khoản lãi hoặc lỗ chưa
thực hiện được báo cáo vốn chủ sở hữu của các cổ đông trong bảng cân đối kế toán
(chỉ ảnh hưởng đến báo cáo kết quả kinh doanh khi chứng khoán này thực sự bán đi).
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế, các khoản đầu tư chứng khoán được thực hiện
theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 39 - Công cụ tài chính. Theo chuẩn mực này các
khoản đầu tư được phân loại thành 4 loại:
+ Giá trị hợp lý thông qua báo cáo lãi/lỗ
+ Giữ tới ngày đáo hạn
+ Các khoản cho vay và phải thu
+ Sẵn sàng để bán
Về cơ bản, đối với các khoản đầu tư chứng khoán theo chuẩn mực kế toán quốc tế
cũng được phân loại và ghi nhận giống như chuẩn mực Kế toán Mỹ.
c) Trình bày CCTC trên các BCTC đơn giản và thiếu sót
Theo quy định của chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS 7 thì các công cụ tài
chính phải trình bày theo nhóm tương tự nhau hoặc giống nhau về tầm quan trọng của
các công cụ tài chính và về bản chất, quy mô của các rủi ro bắt nguồn từ các công cụ
tài chính. Các yêu cầu trình bày thông tin bao gồm cả định tính và định lượng. Các
yêu cầu này được đáp ứng cơ bản ở các TCTD của Việt Nam, nhưng đối với các
doanh nghiệp thì còn đơn giản, và thiếu sót.
3. Một số ý kiến đề xuất:
Chúng ta cần sớm hoàn thiện Dự thảo 6 chuẩn mực về CCTC và đưa vào sử dụng.
Việc này là hết sức cần thiết khi CCTC ngày càng được sử dụng nhiều trong hoạt
động kinh doanh, đóng góp lớn vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các nội
dung cần được chú trọng là:
a) Về định nghĩa và phân loại TSTC
Các chuẩn mực cần nêu được đầy đủ về định nghĩa TSTC, cách nhận biết, phân
loại TSTC. Cần quy định về việc vào thời điểm ghi nhận ban đầu, nhà phát hành sẽ
phân loại các công cụ tài chính hoặc các thành phần của công cụ tài chính thành
khoản nợ tài chính hoặc thành tài sản tài chính hoặc thành công cụ vốn cổ phần, sao
cho phù hợp với bản chất của các điều khoản mang tính hợp đồng và các định nghĩa

về khoản nợ tài chính, tài sản tài chính và công cụ vốn cổ phần.
b) Trình bày và thuyết minh TSTC
Việc trình bày TSTC trong quy định hiện nay cần được bổ sung. Yêu cầu trình bày
các thông tin về tài sản tài chính trên báo cáo tài chính của các tổ chức có mua, bán và
phát hành các công cụ tài chính nhằm mục đích để người sử dụng báo cáo tài chính có
khả năng đo lường:
- Tầm quan trọng của các công cụ tài chính đối với tình hình tài chính và hiệu quả
hoạt động của tổ chức.
- Bản chất và quy mô của các rủi ro phát sinh từ các công cụ tài chính ảnh hưởng
đến tổ chức trong suốt thời gian nắm giữ và làm thế nào để quản lý các rủi ro này.
Có hai nhóm chính phải trình bày là:
• Thông tin về tầm quan trọng của các công cụ tài chính:
Tất cả các tổ chức phải trình bày các thông tin hữu ích trên báo cáo tài chính để
người sử dụng thông tin có thể đánh giá tầm quan trọng của các công cụ tài chính
đối với tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể như
sau:
* Trên bảng cân đối kế toán:
- Cần phải trình bày giá trị của danh mục công cụ tài chính sau :
+ Các tài sản tài chính đã đo lường ở giá trị hợp lý thông qua lợi nhuận và
lỗ:
Phải trình bày độc lập thành:
(i) Các tài sản tài chính được thiết kế thuộc nhóm này theo ghi nhận ban
đầu;
(ii) Các tài sản tài chính thuộc nhóm này nhưng được phân loại như một
khoản đầu tư nắm giữ cho mục đích thương mại.
+ Các khoản đầu tư được nắm giữ cho đến khi đáo hạn
+ Các khoản cho vay và các khoản phải thu
+ Các tài sản sẵn sàng để bán
- Nếu doanh nghiệp thiết kế một khoản nợ hoặc khoản phải thu (hoặc nhóm các
khoản nợ hoặc nhóm các khoản phải thu) đo lường ở giá trị hợp lý thông qua lợi

nhuận và lỗ thì nó phải trình bày:
+ Mức độ cao nhất về rủi ro tín dụng của chúng vào thời điểm báo cáo.
+ Giá trị liên quan đến các công cụ phái sinh hoặc các công cụ tương tự
nhằm bù đắp mức cao nhất các rủi ro tín dụng
+ Giá trị thay đổi trong kỳ báo cáo và lũy kế trong giá trị hợp lý của chúng
mà có liên quan đến sự thay đổi trong rủi ro tín dụng của tài sản tài chính.
- Đặc biệt, các vấn đề cần phải trình bày về các tài sản tài chính đã chỉ định rõ
là cần được đo lường lại mức giá trị hợp lý thông qua lợi nhuận và lỗ, bao gồm các
trình bày về rủi ro tín dụng và rủi ro thị thường và các thay đổi trong giá trị hợp lí.
- Trình bày các thông tin việc huỷ bỏ việc ghi nhận, bao gồm các chuyển đổi
của các tài sản tài chính đối với kế toán việc huỷ bỏ ghi nhận thì không được phép.
- Thông tin về các tài sản tài chính đã cầm cố như là một khoản ký quỹ và các
thông tin về các tài sản tài chính hoặc các tài sản phi tài chính được nắm giữ như
là một khoản ký quỹ.
* Trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
- Các khoản mục của thu nhập, chi phí, lợi ích và tổn thất; trình bày riêng biệt
các khoản lợi ích và tổn thất từ:
+ Các tài sản tài chính đã đo lường ở giá trị hợp lý thông qua lợi nhuận và
lỗ, các công cụ tài chính được nắm giữ này được trình bày một cách tách biệt đối
với việc kinh doanh và lúc ghi nhận ban đầu.
+ Các khoản đầu tư được nắm giữa cho đến khi đáo hạn.
+ Các khoản cho vay và các khoản phải thu.
+ Các tài sản sẵn sàng để bán.
- Giá trị giảm giá của các tài sản tài chính.
- Lợi ích thu nhập từ các tài sản tài chính bị giảm giá.
• Yêu cầu trình bày các thông tin về bản chất và quy mô của các rủi ro bắt nguồn
từ các tài sản tài chính như sau:
- Yêu cầu về trình bày các thông tin định tính:
Đối với mỗi loại rủi ro phát sinh từ tài sản tài chính, thì doanh nghiệp sẽ phải
trình bày:

(i) Biểu hiện của rủi ro và chúng phát sinh như thế nào.
(ii) Mục đích sự quản lý, các chính sách, các xử lý đối với việc quản lý các rủi
ro này và các phương pháp sử dụng để đo lường các rủi ro này
(iii) Các thay đổi trong (i) và (ii) kể từ kỳ kế toán trước.
- Yêu cầu về trình bày các thông tin định lượng:
Đối với mỗi loại rủi ro phát sinh từ tài sản tài chính thì doanh nghiệp phải trình
bày:
+ Tóm tắt số lượng dữ liệu về các biểu hiện của mỗi rủi ro đó tại thời điểm báo
cáo. Các thông tin này sẽ là cơ sở để cung cấp cho ban quản lý nội bộ của tổ
chức.
+ Sự tập trung của các rủi ro
+ Trình bày về rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán và rủi ro thị trường
c) Các khoản ĐTTC cần được phản ánh và ghi nhận theo giá trị hợp lý
Giá trị hợp lý là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi từ cuối những năm 1990 khi
Ủy ban soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) nghiên cứu ban hành và sửa đổi
các chuẩn mực kế toán quốc tế liên quan đến các lĩnh vực như công cụ tài chính, bất
động sản đầu tư, thanh toán trên cơ sở cổ phiếu, nông nghiệp, Một trong những định
nghĩa về giá trị hợp lý được IASB sử dụng phổ biến, giá trị hợp lý là mức giá mà một
tài sản có thể được trao đổi giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong một giao dịch
ngang giá (theo Chuẩn mực quốc tế số 39 “Công cụ tài chính: Ghi nhận và đo lường”,
01/07/2009). Định nghĩa trên về giá trị hợp lý trong IAS 39 tương tự như định nghĩa
giá trị hợp lý được đưa ra trong Báo cáo số 157 “Đo lường giá trị hợp lý” (Statement
No.157 “Fair Value Measurement”) của Hội đồng Kế toán tài chính Hoa Kỳ (FASB)
ban hành năm 2006. Với việc sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở đo lường thích hợp khi
ghi nhận ban đầu của tài sản và nợ phải trả, thông tin do kế toán cung cấp sẽ đảm bảo
hai đặc tính chất lượng quan trọng: tính thích hợp và tính đáng tin cậy.
Với việc phản ánh giá trị của các khoản ĐTTC trong doanh nghiệp theo giá trị hợp
lý sẽ giúp kế toán thực hiện tốt hơn chức năng cung cấp các thông tin thích hợp để hỗ
trợ người sử dụng đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị. Để việc ghi nhận, hạch
toán nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến các khoản ĐTTC được phản ánh chính

xác, hợp lý, góp phần tạo ra thông tin kế toán phù hợp hơn, chúng tôi đề xuất một số
giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, thiết lập mô hình xác định giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC
Để xác định giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC trong doanh nghiệp, cần phải phân
loại các khoản đầu tư này dựa trên loại thị trường mà khoản đầu tư này có giao dịch.
Trên quan điểm hướng dẫn của IAS 39 “Công cụ tài chính: Ghi nhận và đo lường”,
nên phân loại các khoản ĐTTC thành 2 nhóm sau:
+ Nhóm 1: Các khoản ĐTTC trên thị trường năng động
+ Nhóm 2: Các khoản ĐTTC trên thị trường không năng động
Đối với các khoản ĐTTC trên thị trường năng động (active market), giá trị hợp lý
của khoản ĐTTC sẽ được xác định dựa trên giá niêm yết trên thị trường có thể quan
sát được của các khoản đầu tư đó. Giá niêm yết trên thị trường năng động là bằng
chứng tốt nhất của giá trị hợp lý vì khi đó, giá trị của khoản ĐTTC được hai bên mua
bán quyết định dựa trên hiểu biết đầy đủ và tự nguyện tham gia. Khi đó, để xác định
giá trị hợp lý của khoản đầu tư, giá niêm yết trên thị trường năng động luôn phải được
ưu tiên sử dụng để định giá, ngay cả khi doanh nghiệp cho rằng có các phương pháp
định giá khác phù hợp hơn. Giá trị hợp lý của một danh mục ĐTTC là tích số của số
lượng nắm giữ và giá niêm yết của công cụ đó. Với các khoản ĐTTC trong các doanh
nghiệp Việt Nam, thị trường năng động trong trường hợp này chính là sàn giao dịch
chứng khoán chính thức gồm Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) và
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), nơi thường xuyên diễn ra các giao dịch
mua bán theo giá thị trường của các loại cổ phiếu của công ty đại chúng niêm yết và
các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.
Ví dụ, ngày 31/12/200N, giá cổ phiếu của ngân hàng S trên Sở giao dịch chứng khoán
TP. Hồ Chí Minh là 16.000 đồng. Cũng tại thời điểm đó, một tổ chức tư vấn tài chính độc lập
có thể định giá cổ phiếu ngân hàng S với giá 19.800 đồng/cổ phiếu, dựa trên các yếu tố liên
quan đến lợi thế ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh; các dự án lớn sẽ thu lợi ích kinh tế mà
ngân hàng có được trong tương lai gần,… Các nhân tố này có thể được xem là chính xác, phù
hợp và đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong trường hợp này, giá trị hợp lý của khoản ĐTTC liên
quan đến cổ phiếu của ngân hàng S được ưu tiên xác định theo giá thị trường là 16.000 đồng.

Trong trường hợp, với thị trường năng động, nhưng lại không xác định được giá
niêm yết của khoản đầu tư tài chính. Nguyên nhân do tính thanh khoản của cổ phiếu,
trái phiếu trên thị trường này là khá thấp hoặc không tồn tại mức giá mua, giá bán,
hoặc giá của một số giao dịch gần nhất với thời điểm xác định giá trị hợp lý của các
khoản ĐTTC. Khi đó giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC được xác định dựa vào các
dữ liệu có thể thu thập được căn cứ vào dữ liệu thị trường sẵn có như giá của một số
giao dịch gần nhất với thời điểm đo lường giá trị hợp lý hoặc giá của các khoản
ĐTTC tương đương trên thị trường. Các dữ liệu tham chiếu này phải có nguồn gốc
hay được chứng thực từ các dữ liệu thị trường, có thể thu thập bằng các công cụ tương
quan hay các công cụ đo lường khác.
Đối với các khoản ĐTTC trên thị trường không năng động (unactive market), với
sự suy giảm đáng kể về số lượng và mức độ các giao dịch của các khoản ĐTTC, dẫn
đến sự không tồn tại giá trị hợp lý tại thời điểm xác định. Trong trường hợp này, để
đo lường giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC, sẽ phải sử dụng phương pháp định giá.
Một trong các mô hình định giá đáng tin cậy và thường được sử dụng để xác định giá
trị hợp lý của các khoản ĐTTC là mô hình chiết khấu dòng tiền, hoặc mô hình định
giá quyền chọn.
Ví dụ, ngày 15/09/200N, Công ty A mua Trái phiếu chính phủ, trị giá 1.500 triệu đồng,
mệnh giá 1 triệu đồng/trái phiếu, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 8%/năm. Kỳ trả lãi hàng năm, tại
ngày 15/09 hàng năm. Tại ngày mua, lãi suất thị trường cho công cụ tương đương có cùng
đặc tính là 10%/năm. Công ty A ghi nhận ban đầu khoản đầu tư mua trái phiếu theo giá trị
hợp lý. Nhưng vì khoản đầu tư này được giao dịch trên thị trường không năng động, nên
Công ty A sẽ sử dụng phương pháp định giá theo chiết khấu dòng tiền để xác định giá trị hợp
lý của khoản đầu tư này. Giá trị hợp lý của khoản ĐTTC được tính toán qua bảng số liệu sau
(đơn vị: triệu đồng)
Ngày Số tiền thu được Yếu tố chiết khấu Giá trị hiện tại
15/9/200N+1 1500 x 8% = 120 1/ = 0,91 109,09
15/9/200N+2 120 1/ = 0,83 99,17
15/9/200N+3 120 1/ = 0,75 90,16
15/9/200N+4 120 1/ = 0,68 81,96

15/9/200N+5 1500 + 120 = 1620 1/ = 0,62 1005,89
Giá trị hợp lý 1386,28
Như vậy, trong trường hợp này, giá trị hợp lý của khoản đầu tư trái phiếu Chính phủ của
công ty A được ghi nhận trên thị trường không năng động là 1.386.276.397 đồng.
Thứ hai, hoàn thiện việc ghi nhận ban đầu đối với các khoản ĐTTC
Để tăng cường tính minh bạch của thông tin kế toán, tạo điều kiện tối đa cho việc
giám sát tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khi
ghi nhận ban đầu, các khoản ĐTTC của doanh nghiệp nên được phản ánh theo giá trị
hợp lý mà không nên phản ánh theo giá gốc. Để hạch toán một cách phù hợp các
khoản ĐTTC, nên chia thành 2 loại:
• Loại thứ nhất: các khoản ĐTTC ghi nhận theo giá trị hợp lý thông qua lãi lỗ.
Đây thông thường là các khoản ĐTTC doanh nghiệp có ý định nắm giữ dưới
12 tháng, thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
- Được phân loại vào nhóm chứng khoán nắm giữ để kinh doanh cho mục đích
thương mại, ví dụ như: được mua hoặc tạo ra chủ yếu cho mục đích bán và mua lại
trong tương lai gần; có bằng chứng về việc kinh doanh các khoản ĐTTC này nhằm
mục đích thu lợi ngắn hạn; là một phần của danh mục ĐTTC xác định được có
bằng chứng của mô hình thực sự gần đây mang lại lợi nhuận ngắn hạn cho doanh
nghiệp
- Tại thời điểm ghi nhận ban đầu, đơn vị “chủ động” xếp bộ phận ĐTTC đó vào
nhóm phản ánh theo giá trị hợp lý thông qua lãi lỗ hoặc báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh.
Đối với các khoản ĐTTC được đo lường theo giá trị hợp lý thông qua lãi lỗ thì chi
phí giao dịch, lệ phí, chi phí môi giới,… không được cộng thêm vào giá trị ghi
nhận ban đầu của khoản ĐTTC đó. Khoản chênh lệch giữa giá trị hợp lý và giá
gốc được ghi nhận là lãi hoặc lỗ ngay tại thời điểm ghi nhận ban đầu. Với cách ghi
nhận như vậy, thông tin về các khoản ĐTTC được trình bày trên BCTC sẽ đáp ứng
được các yêu cầu quan trọng về tính thích hợp, tính đáng tin cậy và có thể so sánh
được.
• Loại thứ hai: các khoản ĐTTC dự kiến nắm giữ đến ngày đáo hạn. Các khoản

ĐTTC dự kiến nắm giữ đến ngày đáo hạn là bộ phận tài sản tài chính doanh
nghiệp có ý định nắm giữ trên 12 tháng và có kỳ đáo hạn cố định trong tương
lai. Đối với các khoản đầu tư này, chi phí giao dịch, lệ phí, chi phí môi giới,…
được tính vào giá trị của các khoản ĐTTC. Chênh lệch giữa giá trị hợp lý và
giá gốc được cũng được ghi nhận là lãi hoặc lỗ tại thời điểm ghi nhận ban đầu.
Ví dụ, tại ngày 24/09/200N, Công ty A mua 10.000 cổ phiếu XYZ, mệnh giá 10.000
đồng/cổ phiếu. Tổng số tiền phải trả 260.000.000 đồng, trong đó gồm chi phí giao dịch là
20 triệu đồng. Giả sử cổ phiếu XYZ được giao dịch trên thị trường năng động, xác định
được giá trị hợp lý theo giá niêm yết tại ngày 24/09/200N là 20.000 đồng/cổ phiếu. Vậy,
tại ngày 24/09/200N, ta có:
Giá gốc của 10.000 cổ phiếu XYZ (không bao gồm chi
phí giao dịch)
(260-20) = 240 trđ
Giá hợp lý của 10.000 cổ phiếu XYZ 10.000 x 20 = 200 trđ
Khoản lỗ ban đầu 240 – 200 = 40 trđ
Chi phí giao dịch 20 trđ
+ Nếu phân loại cổ phiếu XYZ trên là khoản ĐTTC nắm giữ để kinh doanh cho mục đích
thương mại, ghi nhận ban đầu như sau:
Nợ “Chứng khoán kinh doanh” : 200trđ
Nợ “Chi phí kinh doanh chứng khoán” : 20trđ
Nợ “Lỗ kinh doanh chứng khoán” : 40trđ
Có “Tiền” : 260trđ
+ Nếu phân loại cổ phiếu XYZ trên là khoản ĐTTC nắm giữ đến ngày đáo hạn, ghi nhận
như sau:
Nợ “Chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn” : 220trđ (200 + 20)
Nợ “Lỗ kinh doanh chứng khoán” : 40trđ
Có “Tiền” : 260trđ
Thứ ba, hoàn thiện việc ghi nhận và trình bày các khoản ĐTTC trên BCTC tại thời
điểm kết thúc kỳ kế toán
Đến cuối kỳ kế toán, sẽ tiến hành ghi nhận chênh lệch phát sinh do sự biến động

của giá trị hợp lý của các khoản ĐTTC. Các khoản chênh lệch này phát sinh do sự
thay đổi giá trị hợp lý giữa các thời điểm báo cáo có thể được xử lý theo các phương
án:
- Với các khoản ĐTTC loại 1, là các khoản ĐTTC được ghi nhận theo giá trị hợp
lý thông qua lãi lỗ, phần chênh lệch đó được ghi nhận vào lãi lỗ chưa thực hiện trên
Báo cáo kết quả kinh doanh
Ví dụ, ngày 24/09/200N, khoản đầu tư cổ phiếu của Công ty A được ghi nhận ban đầu
với giá trị hợp lý là 200 triệu đồng. Khoản đầu tư này được phân loại vào nhóm chứng khoán
nắm giữ để kinh doanh cho mục đích thương mại. Đến ngày 31/12/200N, giá trị hợp lý của
khoản đầu tư này được xác định là 280 triệu đồng. Chênh lệch giữa giá trị hợp lý tại thời
điểm cuối kỳ và giá ghi sổ trước đó sẽ ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện (Unrealised gain/loss)
trên Báo cáo kết quả kinh doanh
Nợ “Chứng khoán kinh doanh_cổ phiếu”: 80trđ
Có “Lãi lỗ chưa thực hiện”: 80 trđ
- Với các khoản ĐTTC loại 2, là các khoản ĐTTC dự kiến nắm giữ đến ngày đáo
hạn, phần chênh lệch giá trị hợp lý tại thời điểm cuối kỳ được ghi nhận tăng hoặc
giảm vốn chủ sở hữu trên Bảng cân đối kế toán mà không phản ánh vào Báo cáo kết
quả kinh doanh. Khi đó, việc giảm giá các khoản ĐTTC này sẽ không làm ảnh hưởng
đến thu nhập và lợi nhuận của năm tài chính, nhưng trên Bảng cân đối kế toán, nhà
đầu tư có thể thấy năm đó doanh nghiệp có thể vẫn có lãi nhưng bộ phận tài sản là các
khoản ĐTTC đã bị hao hụt do bị tổn thất giảm giá trị. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ hạn
chế “lách luật” để không phải trích lập dự phòng giảm giá ĐTTC nhằm đạt được chỉ
tiêu lợi nhuận như mong muốn nhằm thỏa mãn các cổ đông
Ví dụ, ngày 28/09/200N, một khoản đầu tư trái phiếu của Công ty A được ghi nhận ban
đầu với giá trị là 5 tỷ đồng. Khoản đầu tư này được phân loại vào khoản ĐTTC dự kiến nắm
giữ đến ngày đáo hạn. Đến ngày 31/12/200N, giá trị hợp lý của khoản đầu tư trái phiếu đó
được xác định là 4,8 tỷ đồng. Khoản chênh lệch giảm giữa giá trị hợp lý tại ngày 31/12/200N
và giá ghi sổ trước đó là 200trđ, sẽ ghi vào Quỹ thay đổi giá trị hợp lý (Fair value change
fund) trên Bảng cân đối kế toán
Nợ “Quỹ thay đổi giá trị hợp lý”: 200 trđ

Có “Chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn_trái phiếu”: 200trđ

×