Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

dân tộc Mường - Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.22 KB, 23 trang )


Trờng Đại học s phạm nghệ thuật trung ơng
Khoa quản lý văn hóa-nghệ thuật
---------------
tiểu luận
Môn: cơ sở văn hóa
Dân tộc mờng hòa bình
A.Giới thiệu chung
1- Lịch sử vấn đề:
Dân tộc Mờng c trú chủ yếu ở tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn La, Yên
Bái, Thanh hoá, Ninh Bình, Hà Tây, và rải rác ở một số tỉnh khác nh Hà Nam,
các tỉnh Tây Nguyên.
Theo số liệu thống kê năm 2001, ngời Mờng có số dân là 1.137.515
ngời; riêng ở tỉnh Hoà Bình, dân tộc Mờng chiếm 62,8% dân số trong tổng số
83 vạn ngời Mờng ở Hoà Bình. ở Hoà Bình, ngoài dân tộc Mờng, còn có bảy
dân tộc anh em khác sinh sống là: Tày, Thái, Dao trong đó, các huyện Lạc
Thuỷ, Tân Lạc, Lạc Sơn, Kim Bôi, Ky Sơn, Cao Phong là những huyện có
mật độ dân Mờng sinh sống dày đặc. Tỉnh Hoà Bình đợc coi là tỉnh Mờng,
một tỉnh nằm sát gần Hà Nội song dân tộc Mờng ở Hoà Bình vẫn giữ đợc
những nét bình yên riêng. Ngời Mờng luôn sống yêu thơng, đoàn kết. Trong
quá trình giao thoa giữa các nền văn hoá tuy có bị ảnh hởng song dân tộc M-
ờng vẫn giữ đợc những nét văn hoá truyền thống của mình, đó là những nét
văn hoá ngời Việt Cổ.
Theo những kết quả nghiên cứu của nhiều công trình về ngôn ngữ học,
về khảo cổ học, dân tộc học,các nhà nghiên cứu đã nhận định rằng dân tộc
Mờng và dân tộc Kinh ( Việt) hơn một ngàn năm trớc có chung một nguồn
gốc, tổ tiên, đó là ngời Việt Cổ ( hay còn gọi là Việt - Mờng), họ là những
chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ của dân tộc ta. Trong quá trình
phát triển, một bộ phận của ngời Việt Cổ đã xuôi theo các dòng sông lớn nh
sông Hồng, sông Mã tiến hành khai phá đồng bằng, gây dựng cuộc sống
mới. Từ đây bắt đầu có sự phân chia: những bộ phận ở lại thung lũng, chân


núi thành ngời Mờng hiện nay; còn bộ phận di c và gây dựng cuộc sống mới
ở đồng bằng ,ven biển trở thành những ngời Kinh hiện nay. Sự thật lịch sử
này đã phần nào đợc phản ánh trong câu truyện truyền thuyết Lạc Long Quân
- Âu Cơ mà tất cả chúng ta ai cũng biết và tự hào về nguồn gốc của mình.
Cũng theo các nhà ngôn ngữ học, ngôn ngữ của ngời Mờng cũng có
nhiều điểm tơng quan với ngôn ngữ ngời Việt, nhiều những nét văn hoá M-
ờng cũng tơng đồng với văn hoá của dân tộc Kinh. Nói vậy để thấy đợc việc
giữ gìn giá trị văn hoá Mờng là nhiệm vụ rất lớn trong việc bảo tồn văn hoá
truyền thống của dân tộc.
Ngời Mờng c trú chủ yếu trong các thung lũng có núi đá vôi bao bọc.
Đây là những dãy núi chạy dài từ Nghĩa Lộ đến khu vực phía tây Nghệ An.
Đó là một địa bàn rộng lớn gồm các tỉnh : Hoà Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Hà
Tây, Ninh Bình, Thanh Hoá, trong đó Hoà Bình là tỉnh đông ngời Mờng sinh
sống nh chúng ta đã nói ở trên. Hoà Bình là tỉnh trung du, miền núi địa hình
thấp vừa phải, độ cao trung bình là 300m, xen kẽ các dãy núi là các thung
lũng rộng, khá trù phú, từ xa đã nổi lên những trung tâm kinh tế, xã hội M-
ờng nh các Mờng : Bi, Vang, Thang, Động.
Từ xa đến nay, dân tộc Mờng quen c trú thành từng xóm, quê, nhiều
xóm, quê gộp lại thành một Mờng. Trong thời Phong Kiến, ngời Mờng đã bị
các giai cấp thống trị bóc lột. Do đó, tổ chức chính quyền của ngời Mờng
cũng giống ngời Kinh.
Nhà cửa, xóm làng của ngời Mờng thờng dựng dới chân đồi, chân núi,
nơi tiếp giáp đồng ruộng, nhà cửa ngời Mờng khác các dân tộc khác là hay
nằm sát nhau và có chung hàng rào. Ngời Mờng dựng nhà dựa vào những
nguyên vật liệu có sẵn từ cột nhà, mái nhà, tờng nhà, tất cả đều lấy từ trên
rừng.
Về công cụ sản xuất, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều đồ đá cổ
xa dùng vào mục đích sản xuất. Sau đó, có thêm công cụ sắt, kim loại, nhng
khá nhiều các công cụ sản xuất do ngời Mờng tự chế nh chiếc bừa ( làm bằng
gỗ và tre), thùng đựng những công cụ này vẫn còn đ ợc ngời Mờng sử dụng

vào mục đích sản xuất trong ngày nay.
Sản xuất lúa nớc đợc ngời Mờng áp dụng khá sớm. Theo các nhà khảo
cổ học thì các đây hàng vạn năm, ngời Mờng đã biết thuần giống cây lúa
nớc. Lúc đầu, trồng lúa nớc chỉ là phụ trợ cho việc săn bắn hái lợm. Song, sau
khi công cụ phát triển, việc trồng trọt đã phát triển và nhận đợc sự quan tâm
hơn. Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu cho đến nay, do đó đời sống nhân dân
còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Một trong những đặc điểm nổi bật của xã hội Mờng ngày xa là sự tồn
tại của tầng lớp Lang đạo - thực chất là thổ ty, là chúa đất; mà Mờng là một
đơn vị tổ chức xã hội của dân tộc Mờng do một ông quan Lang đứng đầu.
Cho đến ngày nay, ngời Mờng vẫn chịu một chút ảnh hởng của chế độ Lang
đạo xa kia, qua thói quen kính trọng những ngời thuộc dòng dõi nhà Lang,
mà chủ yếu là những dòng họ Đinh, Quách, Bạch, Hoàng. Tinh hoa Hoà Bình
có 4 dòng họ Lang lớn nhất của 4 Mờng là Mờng Bi Mờng Vang Mờng
Thang Mờng Động; mỗi Mờng đợc cai quản bởi một ông Lang. Chế độ
Lang đạo của dân tộc Mờng đã thực sự gây cho xã hội Mờng sự phân biệt
đẳng cấp sâu sắc. Tầng lớp Lang đạo ( quý tộc) và tầng lớp nhân dân ( dân
trong Mờng ). Sự phân biệt này thể hiện trong từng chi tiết nhỏ của cuộc sống
nh là nhà dân không đợc to hơn nhà Lang; đàn bà con gái dân thờng không đ-
ợc mặc váy có thêu hình con rồng hay mặc váy chấm gót nh vợ Lang; nhân
dân trong Mờng phải luôn nghe lời và phục dịch, cúng lễ nhà Lang.
Ngày nay, chế độ Lang đạo không còn, nhng những nét văn hoá tốt
đẹp vẫn đợc thế hệ con cháu dân tộc Mờng gìn giữ và bảo tồn. Dân tộc Mờng
là dân tộc rất đoàn kết, yêu thơng nhau, họ là những ngời thật thà, chất phác.
Xã hội Mờng ngày nay vẫn là một tổ chức quy củ với những vị trí, cấp bậc
khác nhau. Tầng lớp đợc kính trọng nhất là thầy cúng, thầy mo và các cụ lớn
tuổi, đây đợc coi là những con ngời còn giữ đợc những nét văn hoá truyền
thống của dân tộc. Trong xã hội phát triển nhanh nh hiện nay thì vai trò của
những ngời lớn tuổi, của các thầy mo, thầy cúng trong xã hội Mờng ngày
càng quan trọng với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy văn hoá Mờng, đặc biệt là

văn hoá truyền thống của ngời Mờng, là những bảo tồn lâu đời của dân Lạc-
Việt. Bảo tồn đợc văn hoá Mờng chính là bảo tồn đợc những nét văn hóa cổ
xa của dân tộc, làm cho kho tàng văn hoá Việt thêm phong phú và sâu sắc.
2. Lí do chọn đề tài.
Trong công trình nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá Mờng này, tôi hi
vọng sẽ góp phần nhỏ của mình vào việc giữ gìn và bảo tồn nét văn hoá Hoà
Bình truyền thống. Mặt khác, tôi cũng muốn phát huy những giá trị văn hoá
đó vào mục đích phát triển Kinh tế, Du lịch, Văn hoá, nhằm thúc đẩy xã hội
Mờng phát triển văn minh và giàu đẹp hơn.
Nghiên cứu văn hoá Mờng đã đợc nhiều nhà nghiên cứu tham gia và
có nhiều công trình xuất sắc nh: Nguyễn Đức Từ Chi với Ngời Mờng ở Hoà
Bình , hay các bài nghiên cứu của giáo s Trần Quốc Vợng, các bài viết mới
đây của nhà nghiên cứu Chí Thanh, của một số thầy cô giáo và các cán bộ
làm công tác văn hoá đang công tác tại Hoà Bình và những tỉnh có dân tộc
Mờng c trú Hầu hết, những nhà nghiên cứu trên đã tìm hiểu, tích luỹ kiến
thức và quan sát hàng chục năm để đa ra các công trình nghiên cứu đầy giá
trị.
Là một ngời con của xứ Mờng, tôi muốn tìm hiểu về nền văn hoá của
dân tộc mình, đồng thời góp phần bảo tồn nó. Trong một thời gian có hạn, tôi
đã hoàn thành bài niên luận Không gian văn hoá M ờng với đề tài chính là
tìm hiểu những góc độ không gian sinh hoạt, sản xuất, tâm linh của đồng bào
Mờng ở Hoà Bình.
3. Phơng pháp nghiên cứu.
Tôi đã đi khảo sát thực tế tại tỉnh Hoà Bình, đến các bản Mờng có
đồng bào Mờng sinh sống. Ngời viết cũng đến Bảo Tàng không Gian Văn
Hoá Mờng để tìm hiểu. Bản thân ngời viết cũng là một ngời con của xứ M-
ờng, đã sống trong xã hội Mờng và trải qua nhiều lễ hội độc đáo, những
điều mắt thấy tai nghe tại quê hơng thân yêu đã thôi thúc tôi làm đề tài
này, với hi vọng góp phần gìn giữ bảo tồn nó.
4. Bố cục.

Ngoài phần giới thiệu chung, bài viết còn gồm có hai phần chính khác.
Phần (II) nội dung gồm có:
- Không gian văn hoá nhà sàn.
- Trang phục Mờng - nét độc đáo của dân tộc Mờng so với các dân tộc
khác.
- Không gian văn hoá Cồng Chiêng.
Phần (lll) kết luận.
Ngoài ra, bài viết còn dành một trang cho phần tài liệu tham khảo; một
trang cho phần mục lục.
B. Nội Dung
1. Không gian văn hoá nhà sàn

Nh sn ca ngi Mng (Ho Bỡnh)
Tỉnh Mờng Hoà Bình là một tỉnh trung du miền núi nằm ở phía tây
bắc của Tổ quốc, về Hoà Bình, chúng ta sẽ thấy đồng bào ở đây c trú dọc
theo các thung lũng hẹp giữa núi và đồi. Sống giữa núi đồi, đồng bào Mờng ít
khi bị đe doạ bởi bão tố, nhng cái đáng sợ nhất với ngời Mờng là các loài dã
thú trong rừng. Trớc kia, khi rừng rú còn âm u, cha bị con ngời tàn phá, các
muôn thú cha bị săn bắn nhiều thì các Mờng ( nơi c trú ) của đồng bào xen kẽ
với nơi sinh sống của muôn thú. Và khi sản xuất lúa nớc cha đủ đáp ứng nhu
cầu lơng thực, đồng bào Mờng phải săn bắn, hái lợm, lên nơng làm rẫy trồng
thêm khoai, sắn Họ luôn bị đe doạ bởi dã thú, cũng nh trâu bò - nguồn
cung cấp sức kéo chính cho Nông nghiệp cũng luôn bị dã thú đe doạ.
Thực tế, khi tiếp xúc với các cu già cao tuổi ở xã Hạ Bì - Kim Bôi
Hoà Bình chúng tôi đã đợc nghe các cụ kể chuyện và thêm hiểu rõ hơn về tác
dụng của ngôi nhà sàn của dân tộc mình. Mới chỉ những năm 40, 50 của thế
kỉ trớc, chuyện Hổ, Báo vào tận các bản Mờng bắt trâu, bò, lợn, gà và có khi
bắt cả ngời là chuyện bình thờng.
Làng ngời Mờng thờng là một tập hợp các khuôn viên gồm các khu đất
của nhiều hộ gia đình Mờng, những khu đất này đợc rào xung quanh kiên cố,

đặc biệt là những nơi gần rừng, hẻo lánh. Việc rào giậu chắc chắn nh vậy
không phải vì mục đích tách biệt với bà con lối xóm mà bởi chống thú dữ.
Ngời Mờng dùng tre nứa, cây gỗ ( những thứ sẵn có và rất nhiều trên rừng )
làm vật liệu dựng hàng rào, họ chôn sâu những cây cột dài 3 đến 4m xuống
đất, đầu cột thờng vót nhọn chĩa thẳng lên trời nh những hàng giáo nhọn.
Ngoài ra, hàng rào cũng đợc trồng bởi những loại cây có nhiều gai nhọn và
kín.
Bên trong các hàng rào kiên cố là các khuôn viên nhỏ của các gia đình,
mỗi khuôn viên thờng có hai cổng vào: cổng trớc và cổng sau. Khuôn viên là
nơi dựng nhà sàn, nơi sinh hoạt của gia đình. Xung quanh nhà sàn thờng là
những vờn cây, cây lấy gỗ và cây hoang dại, trong đó nổi bật là cây cau và
cây trầu, trầu cau không chỉ mở đầu câu chuyện với dân tộc Kinh mà với
đồng bào Mờng ( đặc biệt là phụ nữ Mờng ) họ rất thích ăn trầu, do đó vờn
nhà nào cũng trồng hai, ba cây cau với vờn trầu. Ngày nay, những bản Mờng
truyền thống vẫn lu giữ đợc những nét văn hoá ngày xa. Ngoài ra, xung
quanh một ngôi nhà sàn Mờng, bao giờ cũng có một mảnh đất nhỏ để trồng
rau xanh, mảnh đất này đợc rào chắn cẩn thận để tránh gia súc phá hoại.
Trong khuôn viên nhà sàn Mờng còn có một miếu thờ thổ thần, ngôi miếu
này thờng nằm ở phía trớc nhà, miếu đợc làm bằng gỗ, tre nứa. Ngời Mờng
thờ thần thổ địa với mong muốn đợc vị thần này che chở, phù hộ để con ngời
sống trên mảnh đất đó luôn mạnh khoẻ.
Đất ở và đất dựng nhà của dân tộc Mờng đợc căn cứ vào nhiều quan
niệm phong thuỷ của Trung Quốc. Ngời Mờng thờng chọn miếng đất cao ráo,
thoáng mát, đằng sau mảnh đất đó phải là khu đất cao ( thế đất đằng sau dựa
vào núi đồi, phía trớc là đồng bằng thoáng mát rộng rãi ), ngời Mờng kiêng
kị ở những miếng đất mà đằng sau có hố sâu, dốc Việc c trú của đồng bào
Mờng có nhiều điểm tơng đồng với các dân tộc khác, đó là một quan niệm
tâm linh của một dân tộc thuần Nông, cuộc sống, sinh hoạt sản xuất chịu
nhiều ảnh hởng từ thiên nhiên.
Ngôi nhà sàn của ngời Mờng chủ yếu đợc làm bằng gỗ, tre nứa, mái

làm bằng rạ hoặc cỏ. Trớc kia nhà sàn to, rộng có thể chứa hàng trăm ngời,
nhng hiện nay những ngôi nhà sàn nh vậy không còn, thay vào đó là những
ngôi nhà sàn nhỏ, gọn hơn, phù hợp hơn với cuộc sống hiện đại. Dựng nhà
sàn là một công việc đòi hỏi nhiều ngời tham gia, do đó mỗi khi nhà ai cần
dựng nhà mới, hầu nh tất cả thanh niên trai tráng cùng những ngời thợ mộc
trong làng đến tham gia. Ngời Mờng rất thơng yêu nhau và đoàn kết, họ giúp
nhau dựng nhà, giúp nhau cấy gặt mà không hề lấy công. Khi một ai đó
( ví dụ đôi bạn trẻ mới lập gia đình ) dựng nhà, những ai trong làng giúp đợc

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×