Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

DÂN TỘC MƯỜNG HÒA BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.5 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA-NGHỆ THUẬT
---------------
TIỂU LUẬN
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA
DÂN TỘC MƯỜNG HÒA BÌNH
Website: Email : Tel : 0918.775.368
A.GIỚI THIỆU CHUNG
1- Lịch sử vấn đề:
Dân tộc Mường cư trú chủ yếu ở tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn La,
Yên Bái, Thanh hoá, Ninh Bình, Hà Tây, và rải rác ở một số tỉnh khác như
Hà Nam, các tỉnh Tây Nguyên.
Theo số liệu thống kê năm 2001, người Mường có số dân là
1.137.515 người; riêng ở tỉnh Hoà Bình, dân tộc Mường chiếm 62,8% dân
số trong tổng số 83 vạn người Mường ở Hoà Bình. Ở Hoà Bình, ngoài dân
tộc Mường, còn có bảy dân tộc anh em khác sinh sống là: Tày, Thái, Dao…
trong đó, các huyện Lạc Thuỷ, Tân Lạc, Lạc Sơn, Kim Bôi, Ky Sơn, Cao
Phong là những huyện có mật độ dân Mường sinh sống dày đặc. Tỉnh Hoà
Bình được coi là tỉnh Mường, một tỉnh nằm sát gần Hà Nội song dân tộc
Mường ở Hoà Bình vẫn giữ được những nét bình yên riêng. Người Mường
luôn sống yêu thương, đoàn kết. Trong quá trình giao thoa giữa các nền văn
hoá tuy có bị ảnh hởng song dân tộc Mường vẫn giữ được những nét văn
hoá truyền thống của mình, đó là những nét văn hoá người Việt Cổ.
Theo những kết quả nghiên cứu của nhiều công trình về ngôn ngữ
học, về khảo cổ học, dân tộc học,…các nhà nghiên cứu đã nhận định rằng
dân tộc Mường và dân tộc Kinh ( Việt) hơn một ngàn năm trước có chung
một nguồn gốc, tổ tiên, đó là người Việt Cổ ( hay còn gọi là Việt - Mường),
họ là những chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ của dân tộc ta.
Trong quá trình phát triển, một bộ phận của người Việt Cổ đã xuôi theo các
dòng sông lớn như sông Hồng, sông Mã…tiến hành khai phá đồng bằng,


gây dựng cuộc sống mới. Từ đây bắt đầu có sự phân chia: những bộ phận ở
lại thung lũng, chân núi thành người Mường hiện nay; còn bộ phận di cư
và gây dựng cuộc sống mới ở đồng bằng ,ven biển trở thành những người
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kinh hiện nay. Sự thật lịch sử này đã phần nào được phản ánh trong câu
truyện truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ mà tất cả chúng ta ai cũng
biết và tự hào về nguồn gốc của mình.
Cũng theo các nhà ngôn ngữ học, ngôn ngữ của người Mường cũng
có nhiều điểm tương quan với ngôn ngữ người Việt, nhiều những nét văn
hoá Mường cũng tương đồng với văn hoá của dân tộc Kinh. Nói vậy để
thấy được việc giữ gìn giá trị văn hoá Mường là nhiệm vụ rất lớn trong việc
bảo tồn văn hoá truyền thống của dân tộc.
Người Mường cư trú chủ yếu trong các thung lũng có núi đá vôi bao
bọc. Đây là những dãy núi chạy dài từ Nghĩa Lộ đến khu vực phía tây
Nghệ An. Đó là một địa bàn rộng lớn gồm các tỉnh : Hoà Bình, Phú Thọ,
Yên Bái, Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hoá, trong đó Hoà Bình là tỉnh đông
người Mường sinh sống như chúng ta đã nói ở trên. Hoà Bình là tỉnh trung
du, miền núi địa hình thấp vừa phải, độ cao trung bình là 300m, xen kẽ các
dãy núi là các thung lũng rộng, khá trù phú, từ xa đã nổi lên những trung
tâm kinh tế, xã hội Mường như các Mường : Bi, Vang, Thang, Động.
Từ xưa đến nay, dân tộc Mường quen cư trú thành từng xóm, quê,
nhiều xóm, quê gộp lại thành một Mường. Trong thời Phong Kiến, người
Mường đã bị các giai cấp thống trị bóc lột. Do đó, tổ chức chính quyền của
người Mường cũng giống người Kinh.
Nhà cửa, xóm làng của người Mường thường dựng dưới chân đồi,
chân núi, nơi tiếp giáp đồng ruộng, nhà cửa người Mường khác các dân tộc
khác là hay nằm sát nhau và có chung hàng rào. Người Mường dựng nhà
dựa vào những nguyên vật liệu có sẵn từ cột nhà, mái nhà, tường nhà,…tất
cả đều lấy từ trên rừng.
Về công cụ sản xuất, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều đồ đá cổ

Website: Email : Tel : 0918.775.368
xa dùng vào mục đích sản xuất. Sau đó, có thêm công cụ sắt, kim loại,
nhưng khá nhiều các công cụ sản xuất do người Mường tự chế như chiếc
bừa ( làm bằng gỗ và tre), thùng đựng…những công cụ này vẫn còn được
người Mường sử dụng vào mục đích sản xuất trong ngày nay.
Sản xuất lúa nước được người Mường áp dụng khá sớm. Theo các
nhà khảo cổ học thì các đây hàng vạn năm, người Mường đã biết “ thuần
giống” cây lúa nước. Lúc đầu, trồng lúa nước chỉ là phụ trợ cho việc săn
bắn hái lượm. Song, sau khi công cụ phát triển, việc trồng trọt đã phát triển
và nhận được sự quan tâm hơn. Sản xuất nông nghiệp là chủ yếu cho đến
nay, do đó đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Một trong những đặc điểm nổi bật của xã hội Mường ngày xa là sự
tồn tại của tầng lớp Lang đạo - thực chất là thổ ty, là chúa đất; mà Mường
là một đơn vị tổ chức xã hội của dân tộc Mường do một ông quan Lang
đứng đầu. Cho đến ngày nay, người Mường vẫn chịu một chút ảnh hởng
của chế độ Lang đạo xa kia, qua thói quen kính trọng những người thuộc
dòng dõi nhà Lang, mà chủ yếu là những dòng họ Đinh, Quách, Bạch,
Hoàng. Tinh hoa Hoà Bình có 4 dòng họ Lang lớn nhất của 4 Mường là
Mường Bi – Mường Vang – Mường Thang – Mường Động; mỗi Mường
được cai quản bởi một ông Lang. Chế độ Lang đạo của dân tộc Mường đã
thực sự gây cho xã hội Mường sự phân biệt đẳng cấp sâu sắc. Tầng lớp
Lang đạo ( quý tộc) và tầng lớp nhân dân ( dân trong Mường ). Sự phân
biệt này thể hiện trong từng chi tiết nhỏ của cuộc sống như là nhà dân
không được to hơn nhà Lang; đàn bà con gái dân thường không được mặc
váy có thêu hình con rồng hay mặc váy chấm gót như vợ Lang; nhân dân
trong Mường phải luôn nghe lời và phục dịch, cúng lễ nhà Lang.
Ngày nay, chế độ Lang đạo không còn, nhưng những nét văn hoá tốt
đẹp vẫn được thế hệ con cháu dân tộc Mường gìn giữ và bảo tồn. Dân tộc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mường là dân tộc rất đoàn kết, yêu thơng nhau, họ là những người thật thà,

chất phác. Xã hội Mường ngày nay vẫn là một tổ chức quy củ với những vị
trí, cấp bậc khác nhau. Tầng lớp được kính trọng nhất là thầy cúng, thầy mo
và các cụ lớn tuổi, đây được coi là những con người còn giữ được những
nét văn hoá truyền thống của dân tộc. Trong xã hội phát triển nhanh như
hiện nay thì vai trò của những người lớn tuổi, của các thầy mo, thầy cúng
trong xã hội Mường ngày càng quan trọng với việc giữ gìn, bảo tồn, phát
huy văn hoá Mường, đặc biệt là văn hoá truyền thống của người Mường, là
những bảo tồn lâu đời của dân Lạc- Việt. Bảo tồn được văn hoá Mường
chính là bảo tồn được những nét văn hóa cổ xa của dân tộc, làm cho kho
tàng văn hoá Việt thêm phong phú và sâu sắc.
2. Lí do chọn đề tài.
Trong công trình nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá Mường này, tôi hi
vọng sẽ góp phần nhỏ của mình vào việc giữ gìn và bảo tồn nét văn hoá
Hoà Bình truyền thống. Mặt khác, tôi cũng muốn phát huy những giá trị
văn hoá đó vào mục đích phát triển Kinh tế, Du lịch, Văn hoá, nhằm thúc
đẩy xã hội Mường phát triển văn minh và giàu đẹp hơn.
Nghiên cứu văn hoá Mường đã được nhiều nhà nghiên cứu tham gia
và có nhiều công trình xuất sắc như: Nguyễn Đức Từ Chi với “ Người
Mường ở Hoà Bình ”, hay các bài nghiên cứu của giáo sư Trần Quốc Vợng,
các bài viết mới đây của nhà nghiên cứu Chí Thanh, của một số thầy cô
giáo và các cán bộ làm công tác văn hoá đang công tác tại Hoà Bình và
những tỉnh có dân tộc Mường cư trú…Hầu hết, những nhà nghiên cứu trên
đã tìm hiểu, tích luỹ kiến thức và quan sát hàng chục năm để đưa ra các
công trình nghiên cứu đầy giá trị.
Là một người con của xứ Mường, tôi muốn tìm hiểu về nền văn hoá
của dân tộc mình, đồng thời góp phần bảo tồn nó. Trong một thời gian có
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hạn, tôi đã hoàn thành bài niên luận “ Không gian văn hoá Mường” với đề
tài chính là tìm hiểu những góc độ không gian sinh hoạt, sản xuất, tâm linh
của đồng bào Mường ở Hoà Bình.

3. Phương pháp nghiên cứu.
Tôi đã đi khảo sát thực tế tại tỉnh Hoà Bình, đến các bản Mường có
đồng bào Mường sinh sống. Người viết cũng đến Bảo Tàng không Gian
Văn Hoá Mường để tìm hiểu. Bản thân người viết cũng là một người con
của xứ Mường, đã sống trong xã hội Mường và trải qua nhiều lễ hội độc
đáo, những “điều mắt thấy tai nghe” tại quê hương thân yêu đã thôi thúc tôi
làm đề tài này, với hi vọng góp phần gìn giữ bảo tồn nó.
4. Bố cục.
Ngoài phần giới thiệu chung, bài viết còn gồm có hai phần chính
khác.
Phần (II) nội dung gồm có:
- Không gian văn hoá nhà sàn.
- Trang phục Mường - nét độc đáo của dân tộc Mường so với các
dân tộc khác.
- Không gian văn hoá Cồng Chiêng.
Phần (lll) kết luận.
Ngoài ra, bài viết còn dành một trang cho phần tài liệu tham khảo;
một trang cho phần mục lục.
B. NỘI DUNG
1. Không gian văn hoá nhà sàn
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nhà sàn của người Mường (Hoà Bỡnh)
Tỉnh Mường Hoà Bình là một tỉnh trung du miền núi nằm ở phía tây
bắc của Tổ quốc, về Hoà Bình, chúng ta sẽ thấy đồng bào ở đây cư trú dọc
theo các thung lũng hẹp giữa núi và đồi. Sống giữa núi đồi, đồng bào
Mường ít khi bị đe doạ bởi bão tố, nhưng cái đáng sợ nhất với người
Mường là các loài dã thú trong rừng. Trước kia, khi rừng rú còn âm u, chưa
bị con người tàn phá, các muôn thú chưa bị săn bắn nhiều thì các Mường
( nơi cư trú ) của đồng bào xen kẽ với nơi sinh sống của muôn thú. Và khi

sản xuất lúa nước chưa đủ đáp ứng nhu cầu lương thực, đồng bào Mường
phải săn bắn, hái lượm, lên nương làm rẫy trồng thêm khoai, sắn …Họ luôn
bị đe doạ bởi dã thú, cũng như trâu bò - nguồn cung cấp sức kéo chính cho
Nông nghiệp cũng luôn bị dã thú đe doạ.
Thực tế, khi tiếp xúc với các cu già cao tuổi ở xã Hạ Bì - Kim Bôi –
Hoà Bình chúng tôi đã được nghe các cụ kể chuyện và thêm hiểu rõ hơn về
tác dụng của ngôi nhà sàn của dân tộc mình. Mới chỉ những năm 40, 50 của
thế kỉ trước, chuyện Hổ, Báo vào tận các bản Mường bắt trâu, bò, lợn, gà
và có khi bắt cả người là chuyện bình thường.
Làng người Mường thường là một tập hợp các khuôn viên gồm các
khu đất của nhiều hộ gia đình Mường, những khu đất này được rào xung
quanh kiên cố, đặc biệt là những nơi gần rừng, hẻo lánh. Việc rào giậu chắc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chắn như vậy không phải vì mục đích tách biệt với bà con lối xóm mà bởi
chống thú dữ. Người Mường dùng tre nứa, cây gỗ ( những thứ sẵn có và rất
nhiều trên rừng ) làm vật liệu dựng hàng rào, họ chôn sâu những cây cột dài
3 đến 4m xuống đất, đầu cột thường vót nhọn chĩa thẳng lên trời như những
hàng giáo nhọn. Ngoài ra, hàng rào cũng được trồng bởi những loại cây có
nhiều gai nhọn và kín.
Bên trong các hàng rào kiên cố là các khuôn viên nhỏ của các gia
đình, mỗi khuôn viên thường có hai cổng vào: cổng trước và cổng sau.
Khuôn viên là nơi dựng nhà sàn, nơi sinh hoạt của gia đình. Xung quanh
nhà sàn thường là những vờn cây, cây lấy gỗ và cây hoang dại, trong đó nổi
bật là cây cau và cây trầu, trầu cau không chỉ mở đầu câu chuyện với dân
tộc Kinh mà với đồng bào Mường ( đặc biệt là phụ nữ Mường ) họ rất thích
ăn trầu, do đó vờn nhà nào cũng trồng hai, ba cây cau với vườn trầu. Ngày
nay, những bản Mường truyền thống vẫn lu giữ được những nét văn hoá
ngày xưa. Ngoài ra, xung quanh một ngôi nhà sàn Mường, bao giờ cũng có
một mảnh đất nhỏ để trồng rau xanh, mảnh đất này được rào chắn cẩn thận
để tránh gia súc phá hoại. Trong khuôn viên nhà sàn Mường còn có một

miếu thờ thổ thần, ngôi miếu này thường nằm ở phía trước nhà, miếu được
làm bằng gỗ, tre nứa. Người Mường thờ thần thổ địa với mong muốn được
vị thần này che chở, phù hộ để con người sống trên mảnh đất đó luôn mạnh
khoẻ.
Đất ở và đất dựng nhà của dân tộc Mường được căn cứ vào nhiều
quan niệm phong thuỷ của Trung Quốc. Người Mường thường chọn miếng
đất cao ráo, thoáng mát, đằng sau mảnh đất đó phải là khu đất cao ( thế đất
đằng sau dựa vào núi đồi, phía trước là đồng bằng thoáng mát rộng rãi ),
người Mường kiêng kị ở những miếng đất mà đằng sau có hố sâu, dốc …
Việc cư trú của đồng bào Mường có nhiều điểm tương đồng với các dân tộc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khác, đó là một quan niệm tâm linh của một dân tộc thuần Nông, cuộc
sống, sinh hoạt sản xuất chịu nhiều ảnh hưởng từ thiên nhiên.
Ngôi nhà sàn của người Mường chủ yếu được làm bằng gỗ, tre nứa,
mái làm bằng rạ hoặc cỏ. Trước kia nhà sàn to, rộng có thể chứa hàng trăm
người, nhưng hiện nay những ngôi nhà sàn như vậy không còn, thay vào đó
là những ngôi nhà sàn nhỏ, gọn hơn, phù hợp hơn với cuộc sống hiện đại.
Dựng nhà sàn là một công việc đòi hỏi nhiều người tham gia, do đó mỗi khi
nhà ai cần dựng nhà mới, hầu như tất cả thanh niên trai tráng cùng những
người thợ mộc trong làng đến tham gia. Người Mường rất thương yêu nhau
và đoàn kết, họ giúp nhau dựng nhà, giúp nhau cấy gặt …mà không hề lấy
công. Khi một ai đó ( ví dụ đôi bạn trẻ mới lập gia đình ) dựng nhà, những
ai trong làng giúp được việc gì là họ sẵn sàng. Người được hàng xóm giúp
đỡ thường cảm ơn bằng bữa cơm, hoặc có thể chỉ là chén rượu được trưng
cất từ sắn, ngô, hay cùng chung nhau uống bình rượu cần ấm áp tình người.
Kết cấu ngôi nhà sàn thường được dựng theo cơ sở “ vì kèo ” đúng
hơn là một mạng trung gian giữa “ vì cột ” và “ vì kèo’’ các cột gỗ được lắp
ráp và nối lại với nhau thành bộ khung chắc chắn mà không cần một dây
buộc hay đinh sắt vít lại. Ngôi nhà sàn Mường, cũng như những ngôi nhà
Rông của các dân tộc Tây Nguyên thật sự là những nét kiến trúc độc đáo,

tinh vi của dân tộc Việt Nam. Nhà sàn Mường thường rất cao, từ mặt đất
lên đến sàn nhà có thể đến 3 - 4m , dưới gầm nhà sàn là không gian được
sử dụng để sinh hoạt như : chỗ đặt cối xay thóc, gạo, để đồ dùng sản xuất
như cày, cuốc, bừa, và đặc biệt là chỗ để giữ gia súc, gia cầm về đêm
( nguyên nhân để gia súc gia cầm trong gầm nhà vì do người Mường sinh
sống trong các thung lũng núi, xưa kia nhiều thú dữ, giữ gia súc dưới gầm
nhà sẽ tránh bị thú dữ vào bắt ). Một ngôi nhà sàn thường có hai cầu thang (
tiếng Mường: màn) lên, cầu thang trước là dành cho khách, cho chủ nhà.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×