Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Thuyết minh Tốt nghiệp Bảo tàng mỹ thuật Đương đại Thủ Thiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.09 MB, 39 trang )

THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
ĐỀ TÀI : BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI THỦ THIÊM
I. NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ THỂ LOẠI ĐỀ TÀI:
1. Nguồn gốc của bảo tàng:
Mặc dù các tài liệu sưu tập các đồ vật quí giá đã có từ thời La Mã và Hy Lạp, song việc
sưu tầm nghệ thuật mang hướng hiện đại đã được bắt đầu từ thời Phục Hưng Ý, khi mà
niềm say mê các cổ vật và cảm nhận về lịch sử lần đầu được hình thành. Bộ sưu tập đầu
tiên của Bramante được trưng bày tại Vatican khoảng đầu thế kỷ 16 cùng với các phòng
trưng bày đặc biệt của giới thượng lưu ở Đức và Ý vào thế kỷ 16 là những nền tảng góp
phần hình thành các mô hình kiến trúc phòng trưng bày nghệ thuật vào thế kỷ 17, 18 và
trở thành một yếu tố hầu như được chuyển hoá trong thiết kế cung điện.
Thuật ngữ “bảo tàng” được sử dụng đầu tiên suốt thời kì Phục hưng, mang ý nghĩa khác
so với những gì chúng ta ngày nay. Trong “căn phòng những vật quí hiếm” các vật thể tự
nhiên và nghệ thuật được sắp xếp bề bộn lên nhau trên những vách tường và trần nhà,
trong tủ và ngăn kéo của một hay hai phòng với mục đích tạo sự ngạc nhiên và thú vị;
người xem phải tìm kiếm những gì thu hút mình và hình thành cảm nhận riêng cho chính
mình.
2. Các bước phát triển của bảo tàng:
Thời kỳ đầu, ngoài tính chất tôn giáo, bảo tàng còn gắn bó mật thiết với sự phát triển của
nghệ thuật xưa như điêu khắc, hội họa, đồ họa… Hầu hết các sưu tập chứa trong các nhà
thờ, tu viện, cũng như các đồ vật cướp được trong chiến tranh đều là các tác phẩm hội
họa, điêu khắc nổi tiếng.
Các sưu tập đòi hỏi một sự tích tụ của cải và đó là một đặc quyền của giai cấp hữu sản.
Do đó thị hiếu và sưu tập nhất thiết phải đi kèm với chế độ bảo hộ văn nghệ. Điều này
cũng giải thích mối quan hệ giữa các “mạnh thường quân” và các nghệ sỹ… (Hy Lạp, La
Mã cổ đại hoặc thời kỳ Phục Hưng…)
Đến thời kỳ Phục Hưng, các nhà tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa đã nhìn nhận giá trị của
các sưu tập di tích dưới góc độ khoa học. Vì vậy đã kích thích mạnh mẽ sự phát triển việc
sưu tập và hòan chỉnh nó, tạo điều kiện để các bảo tàng mới ra đời. Thời kỳ này các Bảo
tàng đã ra đời trên cơ sở sưu tầm riêng của các dòng học qúy tộc và vua chúa, nó giúp
cho việc giải thích tại sao mỗi một bảo tàng nghệ thuật có một bộ mặt riêng, độc đáo.


Các Bảo tàng Cổ đại là nơi chứa đựng chủ yếu các tác phẩm nghệ thuật. Các Bảo tàng
Châu Âu ở giai đọan cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (TK 16 -18) đã mở rộng phạm
vi sưu tầm tới những đối tượng tự nhiên như: mẫu động thực vật, khóang sản, dụng cụ
thiên văn, đôi khi có cả đồ dùng sinh họat vũ khí. Những phát hiện địa lý cũng có vai trò
lớn trong việc sưu tầm tư liệu bổ sung cho các sưu tập bảo tàng.
Viện Bảo tàng công cộng đầu tiên được mở cửa là ở thành phố Dressden vào năm 1727.
Ờ Neapol và Florecia (Ý) từ năm 1790. Ở Pháp sau cách mạng tư sản 1779, cung điện
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 1
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Lurve trở thành nơi tập hợp các sưu tập rải rác từ các cung điện khác nhau và trở thành
Bảo tàng phong phú nhất thế giới.
Tóm lại: Ta thấy sự chuyển biến của Bảo tàng từ vai trò “Kho chứa đồ quý” được hình
thành lẻ tẻ, ngẫu nhiên trong các nhà thờ, tu viện… thành nơi phát khởi của những tìm tòi
lịch sử và phụng sự khoa học. Người ta nắm được sự liên hệ mật thiết giữa sưu tập với
việc khai quật và khoa học khảo cổ. Nhiều nền văn minh mà ta tưởng rằng phải mãi mãi
câm lặng đã bước ra khỏi bóng tối thời gian.
Trong mấy thế kỷ hình thành và phát triển của mình, bảo tàng luôn gắn bó mật thiết với
các ngành khoa học, liên hệ khắng khích và tác động tương hổ lẫn nhau. Hiệu quả cơ bản
nhất là Bảo tàng tạo cơ sở cho sự phát triển và chuyển hóa các ngành khoa học. Ngược
lại, các ngành khoa học lại đặc tiền đề cho việc chuyên môn hóa bản thân các Bảo tàng.
3. Bảo tàng ngày nay:
Bảo tàng phải phản ánh được cách nhìn mà xã hội dành cho nó cũng nhhư trở thành biểu
tượng cho những thành tưu về văn hoá và thương mại với thế giới bên ngoài. Với nhiều
người, các thánh đường mới bây giờ là những khu mua sắm, là các bảo tàng, trong đó kết
hợp giải trí gia đình với sự tự học hỏi. Các phòng trưng bày hay bảo tàng là những nơi
thu hút khách du lịch nhiều nhất ở Anh. Nhu cầu đi lại gia tăng, có nhiều thời gian nhàn
rỗi và sự phát triển của ngành du lịch toàn cầu là những yếu tố quan trọng.
Bảo tàng đương đại là nơi đa chức năng, là nơi kết hợp vai trò truyền thống của giải thích
và bảo tồn các tạo tác với những yêu cầu của nhiều khu vực bán lẻ có qui mô lớn, với
công nghệ phức tạp và với nhu cầu đi lại của công chúng. Trong quá trình cạnh tranh với

các loại hình giải trí khác, bảo tàng đang nhắm đến kiến trúc và kỹ thuật của những khu
chủ đề, mà bản thân chúng là sự phát triển tiếp nốitừ những cuộc triển lãm quốc tế thế kỷ
19.
Các phòng trưng bày và bảo tàng ngày nay phải được trang bị những tiện nghi để mọi
người có thể thư giãn, mua sắm và ăn uống. Chúng phải có thể được dùng để tổ chức hội
thảo và những khoá học sau đại học.Các phòng trưng bày và bảo tàng còn là những công
trình để xác định bản sắc và phân biệt các đô thị khác nhau.
Các phòng trưng bày hoạt đọng như những thj trưòng nghệ thuật, giới thiệu nghệ sỹ và
xác định xu hướng thời trang bằng việc tổ chức các cuộc triển lãm ngắn hạn. Nghệ thuật
đã trở thành nhà hát lớn với phạm vi mở rộng bao gồm các phương tiện đa dạng từ dàn
dựng, quay phim và biểu diễn.
Các phòng trưng bày và bảo tàng ngày nay phải tiếp rục thích ứng để phản ánh cảm xúc
đương thời có được từcác khu vực triển lãm; ở đó các đồ vật không được trưng bày ở
trạng thái tĩnh mà được đưa vào một hành trình thông qua những tấm panel diễn giải,
màn hình máy tính và một bầu không khí lôi cuốn người xem cùng tham gia. Do vậy mục
đích cuối cùng không chỉ đơn thuần là phân loại và trưng bày nội dung mà là để hợp nhất
bảo tàng thành một nơi thư giãn cho mọi người.
Năm chức năng của bảo tàng: sưu tập, lưu giữ, bảo tồn, nghiên cứu và trưng bày.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 2
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
4.Định nghĩa bảo tàng:
“Bảo tàng là cơ quan thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, sưu tầm kiểm kê xác định
và ghi chép khoa học các di tích, bảo quản và trưng bày các hiện vật bảo tàng và tiến
hành công tác quần chúng; có sự quan hệ hữu cơ với khoa học tự nhiên và khoa học lịch
sử xã hội, với những thành tựu văn hóa tinh thần của xã hội lòai người hoặc những sưu
tập về những đối tượng của thiên nhiên phong phú để nghiên cứu và phát hiện ra những
quy luật của tự nhiên và vũ trụ”.
5. Tình hình bảo tàng ở Việt Nam:
Dọc theo đất nước Viện Nam,mỗi địa danh đều có một di sản văn hóa riêng của từng dân
tộc. Có rất nhiều bảo tàng tồn tại ở mỗi địa danh đi suốt từ Bắc đến Nam… nhưng số bào

tàng này chỉ nhằm mục đích giới thiệu một số nét văn hóa cùa các chứng tích chiến tranh
để lại, song quy mô công trình chưa đáp ứng được công tác bảo quản, cũng như phục vụ
nhu cầu tham quan, nghiên cứu hiện nay.
Hiện nay đã có một số Bảo tàng được xây dựng với mục đích nhằm khắc phục tình trạng
trên… tạo điều kiện tốt cho người xem và công tác bảo quản, giữ gìn và nghiên cứu
những vết tích của qúa khứ để lại, với những nền văn hóa còn ẩn mình trong bóng tối của
lịch sử.
6.Một số bảo tàng nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới:
-Tháp thủy tinh bảo tàng Louvre (Paris)- KTS Leoh Ming Pei:
Là một Kim Tự Tháp bằng thủy tinh đặt ngay bên Bảo tàng Louvre, vốn là một pháo đài
cố thủ. Tuy là một hình khối thời cổ đại nhưng kết cấu và vật liệu lại áp dụng rất cao sự
tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khi được hỏi tại sao ông lại đặt một kim tự tháp của Ai
Cập cổ đại ngay tại thủ đô Paris, một trung tâm văn hóa tầm cỡ của thế giới, ông nói:
“Tôi nghĩ là nó có những hình khối lý tưởng vượt ra khỏi thời gian và Kim Tự Tháp là
thuộc loại hình khối đó, bất kể nó ở sa mạc hay trung tâm đô thị…Nhưng nó không hoàn
toàn gắn với Ai Cập mà với kinh nghiệm của loài người” (Theo Tạp chí Kiến trúc số
9/95)
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 3
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
-Bảo tàng Guggenheim ở New York của KTS F.L. Wright:
Là một công trình tiêu biểu cho một nền kiến trúc hữu cơ hóa và
nhân bản, là một trong những sáng tạo lớn nhất của kiến trúc thế
kỷ XX, lại là một mẫu mực quan trọng về kiểu tổ chức không
gian trưng bày hình xoắn ốc hạ thấp xuống dần và một dáng vẻ
tạo hình thuần khiết hình cong đơn giản rất giàu sức biểu hiện.
Ông không muốn rập khuôn và “chống lại khô cứng của những
chiếc quan tài dựng ngược”. Ông giải thích cho những công
trình của mình, đó là “một trò chơi gắn cái đẹp lên trên những
cái đẹp có sẵn”. (Theo Tạp chí Kiến trúc, “Kiến trúc thế kỷ
XX”, số 2/97).

-Bảo tàng Suntory ở Osaka, Nhật Bản của Tadao Ando:
Phong cách của Tadao Ando trong bảo tàng Suntory là phong cách lấy hình học làm
chuẩn mực để tạo hình, coi hình học là bản thể, là tinh túy của kiến trúc, có thể Ando,
người vẫn khâm phục Le Corbusier - vẫn gắn bó với phương pháp luận nhưng có cố gắng
làm cho phong phú hơn bút pháp của kiến trúc hiện đại.

-Bảo tàng nghệ thuật High Museum ở Atlanta, Georgia của KTS Richard Meier :
Ông thừa nhận rằng ông chịu ảnh hưởng của bảo tàng
Guggenheim của KTS F.L. Wright. Tuy Wright đã tạo ra một
khuôn mẫu quý giá nhưng ông đã đặt ấn tượng cá nhân của mình
lên trên chức năng của bảo tàng, trong khi Richard Meier chỉ
dùng đường dốc thoải ở vị trí trung tâm và luôn luôn suy tính để
có những vị trí phù hợp trong sử dụng. Trong cuộc tranh luận
giữa một bên có ý kiến cho rằng kiến trúc của một bảo tàng phải
là một công trình mang tính sáng tạo nên chiếm ưu thế, và một
bên khác có ý kiến cho rằng bảo tàng chỉ có chức năng làm nền
cho nghệ thuật mà nó trưng bày thì High Museum of Meier đã là
một ví dụ không thể chối cãi là đặc quyền của kiến trúc là quan
trọng nhất. (Theo “kiến trúc thế kỷ XIX”).
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 4
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
-Bảo tàng Guggenheim ở thành phố Bilbao, tây Ban Nha của KTS Frank.O.Gehry:
Về bố cục, viện bảo tàng này do nhiều
khối mặt cong tạo nên, một sự tạo hình rất
độc đáo, dùng mặt kim loại để phát quang
lấp lánh mà tuần báo “Thời Đại” coi đây là
nơi có nhiều ý thơ làm rung động lòng
người. Công trình xây dựng bên cạnh sông
nước với chiếc cầu giao thông mà người
dân thành phố đã xây dựng thành môt tổ

hợp hữu cơ. Bảo tàng được xây dựng với
phong cách cá nhân độc đáo của ông đã trở
thành viện bảo tàng có một không hai trên thế giới.
-Bảo tàng nghệ thuật Milwaukee KTS Santiago Calatrava:
Công trình có hình dáng chuyển động, mô
phỏng một cánh chim đang bay lên bằng
hệ kết cấu thép và dây văng nên trông rất
nhẹ nhàng uyển chuyển. Tính lãng mạn
hình thức ở đây đã được KTS đẩy lên rất
cao, nhiều khi lấn át cả công năng nhưng
công trình đã để lại được dấu ấn đậm nét
lòng người thưởng ngoạn. Có thể nói đây
cũng là một đóng góp quan trọng trong
thiết kế bảo tàng của KTS S.Calatrava.
-Bảo tàng nghệ thuật hiện đại ở Fort worth, Texas ( Tadao ando):
Công trình được coi là một ngôi đền của nước và ánh sáng. Trong công trình này, chúng
ta vẫn bắt gặp những yếu tố hết sức quen thuộc của KTS Tadao Ando là bêtông trần,
nước, ánh sáng, gỗ nhưng sự kết hợp của nó lại mang đến cho ta những điều bất ngờ kỳ
diệu. Công trình nằm ngay cạnh bảo tàng Kimbell của Louis Kahn ( một tượng đài kiến
trúc hiện đại và cũng là thần tượng của ông) nên ngay từ khi bắt tay vào thiết kế, ông đã
phải xác định cho mình một nhiệm vụ thiết kế đặt biệt, đó là phải làm sao hoà nhập được
với công trình bảo tàng Kimbell và phải xứng đáng được đứng cạnh nó. Và kết quả là ông
đã thành công trong nhiệm vụ thiết kế đó. Có thể nói, công trình là một đỉnh cao trong
thiết kế bảo tàng của KTS Tadao Ando.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 5
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
7.Những hiểu biết về mỹ thuật hiện đại Việt Nam:
- Khái niệm mỹ thuật:
Mỹ thuật hiểu nôm na là "nghệ thuật của cái đẹp" ("mỹ", theo tiếng Hán-Việt, nghĩa là
"đẹp"). Đây là từ dùng để chỉ các loại nghệ thuật tạo hình chủ yếu l hội hoạ, đồ hoạ, điêu

khắc, kiến trúc.Theo cách nhìn khác, từ "mỹ thuật" (đẹp + nghệ thuật) chỉ cái đẹp do con
người hoặc thiên nhiên tạo ra mà mắt người nhìn thấy được. Vì lý do này người ta cịn
dng từ "nghệ thuật thị giác" để nói về mỹ thuật. Ví dụ: vẻ đẹp của một bức tranh, giá trị
mỹ thuật của một công trình kiến trúc.
Mỹ thuật bao gồm một số lĩnh vực nghệ thuật thị giác như:
* Hội họa: nghệ thuật tạo hình trên bề mặt 2 chiều một cách trực tiếp. Các tác phẩm hội
họa mang tính độc bản. Hội họa được coi là mảng quan trọng của mỹ thuật.

vd:Các loại tranh sơn mài,cắt dán, thuốc nước, sơn dầu, bột màu, lụa,khắc gỗ, gò nhân,
phấn tiêu,bản in giấy,khảm ghép được thực hiên từ xưa đến nay.
* Đồ họa: l nghệ thuật tạo hình trên bề mặt 2 chiều một cách gián tiếp qua các kỹ thuật in
ấn, vì vậy một tác phẩm đồ họa thường có nhiều bản sao.
vd:Các loại poster quảng cáo, các ấn phẩm báo chí…
* Điêu khắc: l nghệ thuật tạo hình trong không gian ba chiều hoặc hai chiều (chạm khắc,
chạm nổi).
Vd: Các tượng tròn, phù điêu,được thực hiện bằng nhiều cách,từ các chất liệu khác nhau
từ đá gỗ ,gốm sứ, thạch cao, đồng
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 6
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
- Mỹ thuật hiện đại:
Mỹ thuật hiện đại ra đời từ rất sớm, để được công nhận và đi vào lòng người như ngày
hôm nay, mỹ thuật hiện đại đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Có thể nêu một số đặc điểm
chính của mỹ thuật hiện đại như sau:
Mỹ thuật hiện đại hướng về mỹ cảm nhân văn, về các giá trị tinh thần, trăn trở với những
mỹ cảm trường tồn
Mỹ thuật hiện đại tôn trọng những chuẩn mực, tiêu chí thẩm mỹ và nghề nghiệp nhất
định, quan tâm nhắn chuyển những thông điệp của tác giả đến người xem.
Tinh thần dân chủ hóa cái đẹp, khởi đầu là chống mọi quy tắc hàn lâm kinh viện, sau đó
là chống công thức, lối mòn và những quỹ đạo vạch sẵn. Điều này thúc đẩy sự cách tân,
tự do sáng tác dẫn tới sự phong phú đa dạng tạo điều kiện cho nghệ thuật đạt được những

thành tựu bất ngờ. Bộ mặt sáng tác trỡ nên sôi động, hồ hở và luôn luôn đổi mới.
Tinh thần khám phá, khần hoang, xông vào miền đất lạ mở ra được những khuynh hướng
mới mẻ chưa từng gặp.
Sự mẫn cảm đặc biệt trước những biến thiên xã hội đương đại: chiến tranh và chống
chiến tranh, môi truờng, khoa học kĩ thuật, công nghệ
Tinh thần lao động cật lực, có thể dễ dàng thấy rõ điều này qua những khối lượng lao
động nằm trong các tác phẩm : từ các đốm màu phân điểm của Seurat đến các mạng lưới
kỉ hà của Vasarely, từ dáng hình khối đồng khối đá đồ sộ của Moore đến các đường nét
không gian trong các stabile sừng sững của Gabo tất cả đều miệt mài lao động trong tư
duy và trong thể hiện.
Đối với Việt Nam, nền mỹ thụât hiện đại được tính từ năm 1925 cho đến nay.Trải qua ba
giai đoạn
1925 – 1945 : Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương ( Sự xuất hiện hội họa hiện đại)
1945 – 1954 : Sau cách mạng tháng tám. ( Hội hoạ tuyên truyền, cổ động)
1954 – nay : Chủ nghĩa hiện thực xã hội.
Mỗi giai đoạn trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam đều có những bước thăng trầm và có sự
đánh dấu của các tên tuổi lớn trong hội hoạ Việt Nam. Ở giai đoạn đầu với sự xuất hiện
của những bộ tứ nổi danh, và ở giai đoạn sau với sự hình thành và phát triển của các thể
loại nghệ thuật mới được du nhập từ các nước phát triển. Mặc dù từ sau năm 1975 đến
nay vẫn chưa xuất hiện một cá nhân kiệt xuất nào, nhưng mỹ thuật Việt Nam cũng có
những bước phát triển đáng kể. Mỹ thuật đã đóng một vai trò quan trọng, cùng các
nghành nghệ thuật khác hình thành nên bản sắc văn hoá Việt Nam.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 7
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHÍNH:
1.Lý do chọn đề tài:
Sau cái ăn cái mặc , chỗ ở thì mỹ thuật là nhu cầu biểu lộ tình cảm, quan niệm cuộc sống
của con người thông qua các tác phẩm nghệ thuật. Nền mỹ thuật từ cổ xưa đến hiện tại
vẫn là tiếng nói mạnh mẽ biểu hiện văn hóa và đời sống tinh thần của người dân.Trong xã
hội hiện đại ngày nay, mỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng lối sống

và tâm hồn con người, nó làm cho con người trở nên cao đẹp và hoàn thiện hơn.
Bảo tàng mỹ thuật thuộc thể loại công trình công cộng mang tính chất quốc gia, có một vị
trí nhất định trong họat động văn hóa, nghệ thuật trong và ngoài nước, góp phần mở rộng
quan hệ quốc tế với các bảo tàng khác trên thế giới, giao lưu trao đổi với các nền văn hóa
của các nước bạn.
Khi đời sống xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu và trình độ thưởng thức thẩm mỹ
của người dân ngày càng cao nhưng đồng thời cũng dễ bị đánh mất đi những giá trị văn
hóa truyền thống trong quá trình hội nhập kinh tế văn hóa với các nước trên thế giới. Đặc
biệt là đối với tp hồ chí minh vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc càng
phải được chú trọng với phương châm hòa nhập chứ không hào tan. Do đó việc xây dựng
bảo tàng để gìn giữ những giá trị văn hóa-lịch sử là điều cần thiết trong thời đại ngày nay.
Với những đòi hỏi trên rõ ràng tại tp hồ chí minh bảo tàng mỹ thuật TPHCM số 97a phó
đức chính, Q1 cùng với các bảo tàng chứng tích chiến tranh , bảo tàng phụ nữ, bảo tàng
lịch sử … chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của người dân thành phố và chưa tạo được
bộ mặt kiến trúc đô thị cho thành phố, nhất là đối với thành phố với nhịp độ phát triển
kinh tế-văn hóa như vũ bão của TPHCM hiện nay. Ơ TPHCM, có một bài báo đã nhận
định “ chúng ta còn thiếu quá nhiều công trình mỹ thuật ở những nơi công cộng”. Chúng
ta hầu như thiếu hẳn mọi cơ sở vật chất để phục vụ cho hội nghị mỹ thuật ở thời đại công
nghiệp. Ngay cả phòng triển lãm được trang bị những phương tiện tối thiểu xứng đáng
với tầm vóc của một thành phố lớn, để có thể thu hút khách nước ngòai cũng chua thực
hiện được. Chỉ tính riêng năm 1996, tại hội mỹ thuật TPHCM – 218a pasteur- đã giới
thiệu gần 30 cuộc triễn lãm đồng thời có hơn 30 triễn lãm mỹ thuật khác được trưng bày
ở 26 địa điểm khác nhau. Cụ thể, năm 2004, co’ cuộc triển lãm tranh cá của Đòan Khoa;
cuộc triển lãm tranh của Chiêu Đông và Đặng Can tại hội mỹ thuật TPHCM …và triển
lãm ảnh của bùi hữu phước tại idecaf.
Vì vậy, việc xây dựng một bảo tàng mỹ thuật ở tp hồ chí minh là một đòi hỏi bức thiết.
Và cùng với các bảo tàng chứng tích chiến tranh, bảo tàng chiến dịch hồ chí minh, bảo
tàng phụ nữ… sẽ thỏa mãn nhu cầu của người dân thành phố, đồng thời phát huy hết
được chức năng của bảo tàng lưu giữ các tác phẩm quý làm phong phú thêm gia tài mỹ
thuật quốc gia bằng cách lựa chọn và xác định những tên tuổi mới đáp ứng sự thưởng

ngọan của khách tham quan, đáp ứng nghiên cứu, nâng cao ý thức của tầng lớp nghệ sĩ trí
thức….phát huy cái đẹp từ trong tính cách, tâm hồn người việt nam cho đến mọi lĩnh vực
đời sống xã hội hiện đại.hơn nữa, việc xây mới một bảo tàng mỹ thuật , cũng góp phần
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 8
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
giới thiệu đến bạn bè các nước và khách du lịch ngòai nước về một nền mỹ thuật có bề
dày truyền thống lâu đời, và rất đáng tự hào của nước ta.
2. Hướng nghiên cứu chính:
Về thẩm mỹ:
Đối với bảo tàng, thẩm mỹ là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Do phải đáp ứng thị hiếu của
đông đảo quần chúng nên thẩm mỹ công trình phải ấn tượng, thu hút được người xem, và
quan trọng nhất là nó có thể biểu hiện thể loại trưng bày của công trình.
Thẩm mỹ ở đây bao gồm:
Vị trí, tầm vóc của công trình so với cảnh quan chung quanh
Hình khối, đường nét trang trí nội, ngoại thất, vật liệu, ánh sáng trưng bày bên trong công
trình.
Với tư cách là một địa chỉ văn hóa của địa phương , của một quốc gia, việc khai thác đặc
điểm nghệ thuật cũng như tính truyền thống của kiến trúc địa phương là một yêu cầu tất
yếu của bảo tàng lẫn bên trong và bên ngoài. Do đó mặt đứng, nội thất của công trình cần
mang bóng dáng địa phương và có tính dân tộc. Điều đó không có nghĩa là ta phải áp
dụng một cách máy móc tính dân tộc vào công trình mà cần khai thác những ưu thế kỹ
thuật hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền , giáo dục … mặc khác cũng làm cho
công trình mang hơi thở của thời đại.
Về công năng:
Đối với bảo tàng này, cần nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa các khu chức năng và giao
thông đi lại sao cho thật thuận tiện. Thiết kế tốt về công năng là thiết kế một không gian
hợp nhất của 3 yếu tố: không gian kiến trúc – con người – hiện vật.
Mặc khác, công trình nằm trong một khu vực công viên tượng nên sự kết hợp của công
trình với công viên để tạo thành một khu công viên văn hóa nghệ thuật sẽ rất có ý nghĩa
về du lịch. Do đó việc thiết kế kết hợp các chức năng phục vụ cho tham quan về văn hóa ,

du lịch, nghỉ ngơi của nhiều đối tượng sẽ đảm bảo cho sự hoạt động tốt của công trình.
Về cảnh quan:
Công trình nằm ở một vị trí rất đẹp của Thủ thiêm nên yếu tố cảnh quan là rất quan trọng.
Thiết kế kết hợp công trình với công viên tượng để tạo một cảnh quan hoàn chỉnh dọc bờ
hồ sẽ cho ta một điểm nhấn ấn tượng của khu đô thị Thủ Thiêm.
Ngoài ra, công trình gần như nằm cuối quảng trường Thủ Thiêm, nên việc thiết kế để
công trình trở thành một điểm nhấn cuối quảng trường là rất cần thiết. Do đó hình khối
của công trình sẽ thật đơn giản và gợi mở nhiều suy nghĩ cho người thưởng ngoạn.
Về giao thông:
Sự trưng bày của công trình này có yếu tố lịch sử nên dây chuyền xem là rất quan trọng.
Thiết kế như thế nào để người xem có thể tham quan được hết các tác phẩm trưng bày
trong bảo tàng, nắm được cơ bản lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam và cảm thụ tốt
những giá trị mà tác phẩm đó nhắn gửi sẽ là yếu tố được quan tâm hàng đầu.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 9
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Còn lại những vấn đề như “kinh tế”, khả năng thực thi, kết cấu trong đề tài tốt nghiệp thì
chỉ nên nhắc đến có chừng mực.
III. MỘT SỐ SỐ LIỆU ,TÀI LIỆU VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ KHU ĐẤT XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH:
1. Vị trí xây dựng:
Khu đất được chọn để xây dựng “ bảo tàng mỹ thuật đương đại Thủ Thiêm” nằm trong
quy hoạch chung bán đảo thủ thiêm – PA của SASAKY - đã được UBND Thành phố phê
duyệt.
HIỆN TRẠNG QUY HOẠCH KHU ĐÔ THỊ MỚI THỦ THIÊM:
Bán đảo Thủ Thiêm, đối diện với trung tâm quận 1 qua sông Sài Gòn, gồm các phường
An Khánh, Thủ Thiêm, An Lợi Ðông, một phần phường Bình An, Bình Khánh thuộc địa
bàn quận 2.
Ranh giới:
- Phía Bắc giáp sông SàiGòn (Bình Thạnh)và một phần đất phường AnKhánh(quận 2)
- Phía Nam giáp sông Sài Gòn (quận 7)

SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 10
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
- Phía Ðông giáp phường An Khánh, Bình Khánh (quận 2)
- Phía Tây giáp sông Sài Gòn (quận 1 và quận 4)
Quy mô khu quy hoạch
Ðược xác định theo Quyết định số 367/TTg ngày 04 tháng 6 năm 1996 của Thủ tướng
Chính phủ, giai đoạn từ nay đến 2020)
- Diện tích khu đất quy hoạch: 770 ha
Trong đó:
- Diện tích mặt đất và sông rạch: 640ha
- Diện tích mặt nước sông Sài Gòn: 130ha
+ Giao thông:
- Chủ yếu giao thông thủy.
- Giao thông bộ có 3 tuyến đường chính.
Đường Lương Định Của, Trần Não: đường bê tông nhựa nối dài xa lộ HN.
Đường dọc sông Sài Gòn rộng 4-6m (đường đá).
Đường đất trong khu ở.
GIỚI HẠN KHU ĐẤT:
Phía đông giáp ga tàu điện ngầm Metro Thủ Thiêm.
Phía tây giáp hồ trung tâm, nhìn về quảng trường văn hoá.
Phía đông nam giáp đại lộ Đông Tây.
Phía Bắc giáp công trình lịch sử.
Toàn bộ khu đất có tổng diện tích khoảng 10ha.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 11
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
2. Điều kiện tự nhiên – khí hậu:
Khí hậu:
Nhiệt đới gió mùa, có hai mùa chính: mùa khô nắng và mưa.(Theo số liệu đài khí tượng
thủy văn Tân Sơn Nhất)
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 12

THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
-Nhiệt độ không khí:
Nhiệt độ bình quân trong năm 270C
Nhiệt độ cao nhất (tháng 3,4 ) 38,80C
Nhiệt độ cao tuyệt đối 400C
Nhiệt độ thấp nhất 25,70C
Nhiệt độ thấp tuyệt đối 130C
-Độ ẩm bình quân:
Độ ẩm bình quân : 79,5%
Độ ẩm cao tuyệt đối 100% (tháng 7,10,11,12)
Độ ẩm tuyệt đối 20% (tháng 3)  lượng bốc hơi lớn trong năm 1350mm, tb
3,7mm/ngày
-Lượng mưa
Trung bình 1949mm trong 159 ngày
Mùa mưa kéo dài 6 tháng (tháng 5 đến tháng 10)
-Lượng sương:
Số ngày có sương mù trong năm (1015ngày)
Số tháng có sương mù ít nhất (tháng 10,11,12)
-Bức xạ mặt trời:
Tổng lượng bức xạ trung bình: 3445cab/năm
Tổng lượng bức xạ nhỏ nhất: 1324,8cab/năm
Tổng lượng bức xạ lớn nhất: 3687,8cab/năm  Số giờ nắng trung bình 6,3giờ/ngày
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 13
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
-Gió:
Mùa khô : Gió đông nam
Gió đông nam tốc độ gió 3m/s
Mùa mưa: Gió tây nam, tây
Tốc độ gió 3,5m/sản phẩm
Gió mạnh nhất (tháng 8) : tốc độ gió bình quân 4,5(m/s)

Gió yếu nhất (tháng 12) : tốc độ gió bình quân 2,3(m/s)
-Địa hình:
+Ba mặt giáp sông Sài Gòn Thủ Thiêm là vùng đất trũng, bằng phẳng
+Cao độ tự nhiên trung bình +0,5 +0,7
+Độ cao khu đất thổ cư +1,3 +1,5
-Địa chất thủy văn:
Chịu ảnh hưởng chế độ thủy triều
Cao độ mực nước theo số liệu trạm thủy văn An Phú
P = 5% M=+1,48
P = 50% M=+1,43
P = 100% M=+1,52
Địa chất không tốt lắm do nhiều kinh rạch. Độ chịu tải đất 0,5kg/cm2
Độ cao hiện tại : +0,5 độ cao trung bình so với mực nước biển 20m nên dễ bị ngập.
3. Đánh giá sơ bộ các giá trị của khu đất xây dựng:
-Vị trí:
-Phía đông giáp ga tàu điện ngầm Metro Thủ Thiêm.
-Phía tây giáp hồ trung tâm, nhìn về quảng trường văn hoá.
-Phía đông nam giáp đại lộ Đông Tây.
-Phía Bắc giáp công trình lịch sử.
Diện tích khu đất: 4ha
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 14
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Khu đất xây dựng công trình có vị trí đặc biệt quan trọng trong tổng thể quy hoạch. Giá
trị của khu đất có thể được đánh giá thông qua các tiêu chí sau:
-Tầm nhìn - cảnh quan: trong PA quy hoạch, công trình đón nhiều hướng nhìn quan
trọng. là điểm nhấn cảnh quan cho khu vực.
-Không gian mở: yếu tố mặt nước của hồ trung tâm, yếu tố cây xanh trong khu vực cần
phải được khai thác tối đa trong PA thiết kế. Các yếu tố này góp phần làm cho công trình
thêm có giá trị về mặt cảnh quan trong khu vực.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 15

THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
-Công trình lân cận: các công trình lân cận hầu hết là cao tầng, các công trình này góp
phần định hướng cho các tầm nhìn quan trong từ bên ngoài đến công trình.
-San nền tiêu thuỷ: xem bảng đồ quy hoạch san nền tiêu thuỷ ở dưới.
-Điều kiện ngập lụt: khu đát xây dựng thuộc khu Thủ Thiêm, là khu vực đầm lầy trũng,
chịu tác động rất lớn của thuỷ triều. Ở cote +1500mm, công trình có thể bị ngập lụt.(theo
biểu đồ điều tiết ngập lụt khu vực đô thị mới Thủ Thiêm.)
-Giao thông tiếp cận: có hai hướng tiếp cận khu đất xây dựng:
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 16
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
-Phía đông nam là đại lộ Đông – Tây.
-Phía Đông là đường Lương Định Của, Trần Não.
Công trình còn đón dòng người từ ga tàu điện ngầm Thủ Thiêm.
-Đánh giá về văn hoá, bảo tồn:
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 17
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
a. Lịch sử hình thành thành phố và cấu trúc đô thị:
Khi thành phố tiến lên phía trước cũng là lúc phải nhìn lại lịch sử và nguồn cội của mình.
Sự tiếp tục với quá khứ, hiện tại và tương lai phải thích hợp tương đồng. Sự hiện đại của
Việt Nam, với gốc rễ sâu sắc của nó tích hợp trong thiết kế Thủ Thiêm sẽ thực sự là một
thành phố châu Á mới.
Từ nghiên cứu về lịch sử của thành phố và sự phát triển không gian đô thị hiện tại thông
qua thời gian, một cấu trúc nguyên bản có thể được thu được và truyền qua cấu trúc của
trung tâm thành phố mới. Yếu tố này thiết lập một phương pháp quy hoạch được xem là
phù hợp cho Thủ Thiêm.
b. Hình ảnh đô thị
Dòng sông Sài Gòn uốn lượn quanh đô thị, dòng nước dồi dào chảy giữa trung tâm TP.
HCM hiện hữu và khu trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm vừa đủ để không gây cảm giác
quá xa cũng như quá gần mà trở thành một sân khấu trình diễn bóng dáng đô thị. Các mặt
nước và kênh rạch trong khu vực khu trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm với những đặc sắc

tự nhiên sẽ tạo nên hình ảnh Khu trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm.
Con người, công trình kiến trúc và thiên nhiên có một tỷ lệ hài hòa. Ðiều này xuất phát từ
đặc điểm môi trường của TP. Hồ Chí Minh với các vấn đề về khí hậu, điạ chất, thuỷ văn,
điạ hình và các yếu tố tự nhiên khác. Khí hậu nhiệt đới nóng, tràn ngập ánh nắng, ẩm ướt
(gần kề với biển Ðông), và mát mẻ do ảnh hưởng của gió Tây nam. Vùng đất yếu dưới
chân thành phố làm giảm chiều cao công trình. Khu Thủ Thiêm có rất nhiều kênh rạch
tạo điều kiện cho dân cư tiếp xúc thường xuyên với mặt nước hoặc không gian mở.
Hình ảnh đô thị thể hiện thông qua sự phân chia khu vực chức năng trong đô thị mạch lạc
như không cứng nhắc, sự hòa trộn hợp lý các hoạt động của đô thị mang tính giao tiếp
cao với tổ chức giao thông bằng cốt một cách thông minh và chuẩn mực.
c. Cảnh quan đường phố, môi trường đô thị.
Môi trường sinh thái gần gũi như là một sự bền vững dài hạn cho môi trường. Thiết kế sẽ
tạo ra một môi trường đô thị thân thiện, tốt cho sức khỏe, cuộc sống của trẻ con, người
già.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 18
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Bất kỳ một môi trường nhân tạo nào cũng phải phụ thuộc vào tự nhiên sẵn có. Ngoài các
công viên và khu vực cảnh quan cây xanh phục vụ như một sự giải khuây làm giảm căng
thẳng và như các lá phổi xanh trong các công trình bê tông dày đặc, phải kể đến không
gian đường phố, nhất là đường đi bộ và cách tổ chức tầng trệt công trình kiến trúc - địa
điểm dành cho những người đang cảm thụ được môi trường đô thị nhiều nhất -là những
vấn đề thể hiện chất lượng môi trường đô thị, cần phải được nghiên cứu.
Môi trường tự nhiên của đô thị phải đảm bảo các yếu tố sạch sẽ, trong lành cho đa dạng
sinh học. Chim trời, cá nước cũng cùng chung sống được trong trung tâm đô thị. Những
khoảng xanh đô thị để giữ gìn sinh thái tự nhiên không phải là những vùng đất hoàn toàn
chỉ cho mục đích bảo tồn mà ở đó phải có những sinh hoạt mang lại lợi ích kinh tế đủ để
xây dựng và duy trì. Nguồn tài nguyên đất phải được quản lý và phân chia một cách cẩn
thận cho sự bền vững của thành phố.
Ðường phố phải làm cho thành phố linh động và thiết kế đường phố là vấn đề cốt yếu và
nên được chú trọng. Với các quảng trường trung tâm lớn, tạo một chút say mê đối với

cảnh quan cho người dân với các không gian lộng gió mà không ồn ào náo nhiệt hoặc các
quãng trường nhỏ và đài phun nước, hoặc đại lộ trung tâm với các cảnh quan tạo cảm
giác dễ chịu.
d. Những nhận thức từ trung tâm thành phố hiện hữu
Duy trì các hình thức bên ngoài: Cũng như nhiều THÀNH PHỐ CHÂU Á KHÁC,
CÁC DÃY NHÀ của Thành phố Hồ Chí Minh có một sự phân bố việc duy trì các mặt
tiền trong các khu vực, nơi đó gồm các kiểu mẫu châu Âu truyền thống (Pháp) mặc dù
không cùng chí tuyến. Việc duy trì các hình thức bên ngoài đưa đến nhiều ý tưởng tốt
hơn cho thành phố khi có những điều không thích hợp. Có một vài khoảng trống cần phải
được bắt kịp khi việc xây dựng gần kề, hay sẽ trở thành các không gian đô thị "chết". Nó
cũng thật sự thú vị khi xây dựng các lối dành cho người đi tản bộ.
Sử dụng các không gian công cộng: dân cư trong Thành Phố Hồ Chí Minh phải sử dụng
một không gian công cộng rộng lớn như đường phố, công viên, và bờ sông. Các quãng
trường và công viên là môi trường sống của người dân Việt Nam. Chúng được sử dụng
cho việc ẩm thực, thể thao, thương mại, điểm giao tiếp gặp gỡ nhau, và đặc biệt để thoát
ra khỏi các ngôi nhà chật chội và nóng bức. Thành phố Hồ Chí Minh cũng như nhiều
thành phố khác, có các không gian mở được chọn lựa tốt, sử dụng sự thay đổi của chúng
giữa ngày và đêm. Tuy nhiên, việc chấp thuận cho môtô vào các không gian mở sẽ đe
dọa môi trường giải trí trong các không gian mở như thế; tuy nhiên điều đó cũng làm cho
sôi động thêm.
Các hoạt động ở tầng trệt: việc buôn bán hàng ngày là một điều quan trọng trong đời
sống thường nhật ở TP. HCM. Tầng trệt ở cả các thành phố là các không gian mở lớn
nhất "Trung Tâm Mua Bán" trong thành phố. Ðiều này kết hợp với nhu cầu ở tại các
tầng trên tạo ra các yếu tố hỗn hợp không thay đổi, kết quả là có một thành phố đầy sức
sống ở mọi lúc trong ngày.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 19
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Các loại đường phố: ảnh hưởng giải pháp quy hoạch đô thị kiểu Pháp là một bằng
chứng rõ nét nhất trên đường phố Sài Gòn. Vấn đề quan trọng là điểm kết thúc các công
trình quan trọng như tòa nhà Ủy Ban Nhân dân thành phố (trước đây là Hotel de Ville),

nhà hát opera và nhà thờ. Các đại lộ tập trung, được gọi là góc tam giác vàng, với các toà
nhà chính và các khách sạn dọc theo chúng. Các đại lộ này đã bị đe doạ bởi các điều kiện
giao thông mặc dù chiều cao toà nhà trong một vài trường hợp không vạch rõ một cách
đúng đắn xét về hình thái học.
Các lối đi có trồng cây: có lẽ là khu vực sinh động nhất thành phố. Các lối đi có trồng
cây tạo ra một mạng lưới bên trong có hệ thống, làm gián đoạn hệ thống các đường phố
và đại lộ bên ngoài cứng nhắc, không linh động. Các loại hình đường phố này thường
dành cho người đi tản bộ với một lối vào giới hạn dành cho môtô, có nhà cửa san sát thấp
tầng liền kề, và chúng được làm giàu bởi sự hiện diện của các cửa hàng bán lẻ và các nhà
hàng ở tầng trệt.
Các thể loại công trình: không còn nghi ngờ gì nữa về vấn đề làm thất vọng nhất của
thành phố là không tạo lập được hình thái kiến trúc truyền thống tương đồng với không
gian đô thị. Thể loại nhà ở phổ biến nhất hiện nay là loại hình nhà phố 4 x 20m,. bên cạnh
đó sự tồn tại của những công trình kiểu kiến trúc phương Tây và sử dụng hình thức kiến
trúc toàn cầu hóa một cách chung chung, chồng chéo về thể loại không làm nên một hình
ảnh đô thị rõ ràng và có giá trị.
Sông Sài Gòn: Con sông là trái tim và linh hồn của TP. HCM, cho dù là đem lại cảnh
quan, sức hấp dẫn và làm nổi bật công trình, nó còn được sử dụng cho các hoạt động
công nghiệp đối với việc không mở rộng mục đích giải trí và đô thị hoá.
Vỉa hè: vỉa hè ở TP. HCM được sử dụng như ngụ ý dành cho các phạm vi riêng tư, mà
người giữ chúng sử dụng chúng để làm tăng thêm diện tích kinh doanh của họ. Khắp nơi,
các vỉa hè cũng được được sử dụng làm nơi đậu xe môtô. Xu hướng này phải đặc biệt chú
ý khi xây dựng các toà nhà cao tầng mới, dẫn tới hậu quả là không còn chỗ trống cho
người đi bộ trên đường phố. Sự có mặt của các người bán dạo không kiểm soát được làm
tăng mức độ lộn xộn trên vỉa hè. Dẹp bỏ chúng bằng cách loại bỏ hay cải thiện mức sống
của trung tâm. Nhưng chắc chắn các vỉa hè cần phải được cải thiện. Cách bố cục các loại
cây có tán lớn tạo bóng mát dễ chịu cho các hoạt động của vỉa hè.
Phương tiện vận chuyển: xe môtô là phương tiện vận chuyển phổ biến. Ðặc tính này
làm thiếu hụt thêm các dịch vụ công cộng (theo tập quán) có thể gây ra vấn đề nghiêm
trọng khi thành phố phát triển.

Sự đối lập ngày và đêm: TP. HCM cũng như tất cả các thành phố khác sống cả ngày lẫn
đêm. Từ sớm tinh mơ thành phố đầy ấp người lao động, sau đó các dịch vụ thương mại
và kinh doanh bắt đầu hoạt động, lưu giữ một số người trong các toà nhà tránh khỏi cái
nắng khắc nghiệt. Ngay khi hoàng hôn buông xuống TP. HCM con người quay lại sinh
hoạt trên các đường phố để ăn uống, mua sắm, gặp gỡ bạn bè, trò chuyện hay đơn giản
hơn ngắm nhìn cuộc sống trôi qua.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 20
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
IV. NHỮNG SỐ LIỆU, TIÊU CHUẨN LÀM CƠ SỞ XÁC ĐỊNH NỘI DUNG VÀ
TÍNH TOÁN QUI MÔ CÔNG TRÌNH:
1. Nhứng số liệu, tài liệu làm cơ sở:
a. Tài liệu căn cứ để thiết kế công trình:
Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam
Achitectural Graphic Standards ( A.I.A )
Dữ liệu kiến trúc sư ( Neufert 1995)
Nguyên lý thiết kế công trình công cộng
Nguyên lý quy hoạch đô thị
b. Thống kê lượng khách du lịch đến tp HCM từ 2001 đến 2005:
- Quy mô công trình phụ thuộc rất lớn vào số người đến nghiên cứu học tập và lượng
khách đến tham quan. Trong đó, dân số TP HCM đã vào khoảng 6 triệu người, lượng
khách quốc tế và trong nước đến tham quan ,du lịch ở TP HCM cũng tăng rất nhanh. Do
đó để đáp ứng tốt nhu cầu tham quan, học tập của lượng người lớn như vậy thì quy mô
công trình sẽ rất lớn.
Thời điểm 1995 1996 2000 2001
Lượng khách lưu trú
(nghìn lượt) 1104 1172 1.639 1.960
- Khách quốc tế 547 599 791 840
- Khách trong nước 557 573 848 1120
THỐNG KÊ LƯỢNG KHÁCH QUỐC TẾ ĐẾN TP HCM TỪ 2001 ĐẾN 2005
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 21

LƯỢT KHÁCH
ĐẾN
TP HCM
TỔNG SỐ
(lượt người)
TỐC ĐỘ
PHÁT
TRIỂN
%
ĐƯỜNG
HÀNG
KHÔNG
ĐƯỜNG
BIỂN
ĐƯỜNG
BỘ
2001 1.226.400 +11,5 1.066.645 12.581 147.174
2002 1.433.000 +16.8 1.279.782 10.272 142.946
2003 1.302.000 - 9,0% 1.130.689 4.002 167.309
2004 1.580.000 +21% 1.380.000 15.000 185.000
2005 2.000.000 +27% 1.753.784 6.587 239.629
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
c. Các văn bản pháp quy:
Căn cứ vào luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ngày 21 tháng 6 năm
1994 :
Căn cứ quyết định phê duyệt “ điều chỉnh quy họach chung thành phố hồ chí minh đến
năm 2020” của thủ tướng chính phủ ( quyết định số 123/1998/qđ – ttg ngày 10/7/1998).
Căn cứ nội dung báo cáo quy họach chung quận 2 của kiến trúc sư trưởng thành phố và
ủy ban nhân dân quận 2 với thường trực ủy ban nhân dân thành phố tại cuộc họp do ủy
ban nhân dân thành phố tổ chức ngày 25/5/1998 ( thông báo số 954/ tb – vp _qlđt ngày

27/6/1998 của văn phòng ủy ban nhân dân thành phố ).
Căn cứ đề nghị của kiến trúc sư trưởng thành phố ( tờ trình số 15693/ ktst – qh ngày
28/10/1998 ).
Căn cứ vào bản đồ quy hoạch phát triển thành phố đến năm 2020 .
2.Các yêu cầu chung về thiết kế bảo tàng:
a. Mở đầu:
Để đáp ứng những họat động của Bảo tàng, người ta cần thiết phải tiến hành xây dựng
các công trình mới, bên cạnh việc mở rộng và sửa chữa phục hồi những di tích kiến trúc
và lịch sử…
Những công trình được xây dựng mới thường là những gian trưng bày bổ sung cho một
di tích lịch sử (nhà Bảo tàng Tân Trào, nhà trưng bày chiến dịch Điện Biên Phủ…) hoặc
một địa điểm cùa các di tích khảo cổ (trưng bày và làm kho bảo quản).
Các Bảo tàng khảo cứu địa phương cũng thường đặt trong những di tích kiến trúc lịch sử.
Trong những trường hợp ấy các phòng thường được cải tạo lại làm cho thích ứng với nhu
cầu Bảo tàng, trên cơ sở không vi phạm tính tòan vẹn của di tích. Vần đề chủ yếu là
những hiện vật trưng bày thêm không mâu thuẫn với quy cách và tinh thần thời đại của
các nột thất mà nó được đặt vào. Trong trường hợp các nội thất đó không có giá trị nghệ
thuật gì đáng kể, người ta cũng có thể khắc phục bằng các biện pháp kiến trúc như: tủ
kính, vách chắn… Đặt các Bảo tàng trong các di tích là tạo điều kiện cho việc bảo vệ và
tuyên truyền rộng rãi những di tích ấy. Nó cũng đem lại bộ mặt và dáng vẻ riêng cho Bảo
tàng trong mối quan hệ mật thiết với cảnh quan và vùng dân cư. Tuy nhiên những khó
khăn gặp phải thường là các vấn đề xử lý kỹ thuật (chế độ nhiệt, độ ẩm, ánh sáng, lưu
trữ…)
Thực ra, vấn đề xây dựng các công trình cho công tác Bảo tàng chỉ được tiến hành từ thế
kỷ 19 và 20 mới đây, xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống và sự phát triển của ngành Bảo
tàng.
Chức năng nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học:
- Bảo quản tốt để tiến hành nghiên cứu tốt.
- Tạo điều kiện di chuyển thuận lợi cho du khách.
- Tránh cho hiện vật bị tác hại (tia nắng mặt trời, không khí vẫn đục, bụi, hơi nước, độ

ẩm, cháy và mất cắp…)
- Có đủ phòng dành cho công tác giáo dục quần chúng (hướng dẫn tham quan, chiếu
phim, hội thảo…)
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 22
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Vị trí quy họach:
- Phải cân nhắc vị trí địa lý của nơi xây dựng, cũng như bố cục công trình để khai thác tối
đa các điều kiện chiếu sáng và thông thóang tự nhiên.
- Chọn vị trí cho Bảo tàng và xếp đặt nó trong tòan bộ kiến trúc của thành phố có ý nghĩa
rất to lớn. Cần lưu ý tới các vấn đề:
+ Tránh xa các bến xe, nhà máy, đường giao thông chính khu nhà ở.
+ Thường Bảo tàng được đặt trong khu văn hóa hoặc khu cây xanh của công viên… và có
khỏan không gian rộng, thóang phía trước.
+ Khu đất phải được tổ chức sao cho có thể chuẩn bị sự thụ cảm của khách tham quan,
cũng như cảm thấy ý đồ và nội dung của Bảo tàng.
+ Vị trí của Bảo tàng có thể là một yếu tố tích cực để xây dựng hình tượng kiến trúc
chung của công trình Bảo tàng cũng như bộ mặt văn hóa mỹ quan chung của đô thị.
Đặc tính truyền thống và nghệ thuật kiến trúc địa phương:
- Với tư cách là một địa chỉ văn hóa của địa phương cụ thể, việc khai thác các đặc điểm
nghệ thuật cũng như tính truyền thống cùa kiến trúc địa phương, là một trong những yêu
cầu tất yếu của Bảo tàng cả bên trong lẫn bên ngòai (phong cách trưng bày và hình thức
kiến trúc…)
- Cần lưu ý tránh áp đặc những hình thức xa lạ với văn hóa địa phương, vì như thế có
thể gây ra những hiệu quả tiêu cực cho việc giáo dục và bồi dưỡng quần chúng (là cái mà
Bảo tàng cần phải đạt được).
Khai thác các ưu thế kỹ thuật thiện đại:
Tận dụng tối đa ưu thế kỹ thuật hiện đại, nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục.
Ở đây cần thấy rõ vai trò to lớn, đôi khi có ý nghĩa quyết định trong mục tiêu xây dựng
Bảo tàng.
Triển vọng mở rộng và phát triển:

Trong thiết kế cần đặc biệt chú ý đến triển vọng phát triển của Bảo tàng, do đó cần tính
tóan trước khả năng mở rộng của nó. Bởi vì sức sống của Bảo tàng phụ thuộc không nhỏ
bởi khả năng liên tục được bổ sung nguồn tư liệu và hiện vật mới, khả năng liên tục đưa
ra trưng bày những hiện vật mới nhằm phục vụ và thu hút khách tham quan.
Phân biệt lọai hình và chọn giải pháp thiết kế:
Phải chú ý đến địa hình của Bảo tàng, thành phần các kho bảo quản cơ sở, cơ cấu trưng
bày… để có phương án thiết kế kiến trúc thích hợp. Ví dụ:
Trong bảo tàng nghệ thuật:
Các tác phẩm nghệ thuật khác nhau về yêu cầu chế độ chiếu sáng khác nhau.
Trong các bảo tàng khoa học tự nhiên:
Chú ý diện tích và vị trí đặt cảnh nhìn tầm sâu (diorama) và hệ thống đèn chiếu sáng
riêng. Cũng nên chú ý đến việc đặt những “góc thật của thiên nhiên” to bằng thật (bể thả
cá, tôm…)
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 23
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Trong bảo tàng kỹ thuật:
Các hiện vật thường to, nặng, đòi hỏi những gian trưng bày riêng, đôi khi trưng bày trong
dạng họat động thật.
Trường hợp xây dựng ngôi nhà mới trong di tích lưu niệm, phải bảo đảm tính bất khả
xâm phạm của di tích và đặt nó vào vị trí đặc biệt của tổng thể công trình.
b. Thiết kế phòng trưng bày:
Diện tích:
Tổng diện tích các phòng trưng bày thường chiếm tỷ lệ khỏang 50% tổng diện tích tòan
Bảo tàng.
Chiều cao:
- Phòng trưng bày bình thường (S = 24 – 36
2
m
), h = 4,5 m.
- Phòng trưng bày lớn (S = 40 – 50

2
m
), h = 6 – 8 m.
Phạm vi trưng bày:
Đảm bảo nguyên tắc: vật nhỏ xem gần, vật lớn nhìn xa. Phân lọai như sau:
+ Theo mặt đứng: Pano, tường , tủ… chiếm khỏang chiều cao từ 2,4m – 3 m (cách mặt
sàn 0,7 – 1 m).
Trong đó các tài liệu hiện vật được trưng bày ở khỏang tường từ 0,7- 2,4 m. Từ 2,4 – 3 m
là phần trưng bày các paneau, phù điêu và các câu trích ngôn.
Diện tích trưng bày cho tranh = 3 – 5
2
m
/ bề mặt treo.
+Theo mặt bằng: là các tủ, hộp, kệ, diorama với chiều cao mặt phẳng xem được tính từ
sàn.
Diện tích cho tượng = 6 – 10
2
m
/ tượng.
+ Đối với các hiện vật có kích thước khổng lồ như: cổ thực vật hóa thạch, đá tảng di tích,
máy móc, xe pháo thí được phép trưng bày ở ngòai trời hoặc trong các gian riêng biệt
hoặc phòng kính để nó hòa nhập vào kiến trúc chính của Bảo tàng.
Nguyên lý trưng bày:
° Từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, để tạo điều kiện cho người xem được tiếp thu dễ
dàng.
° Trong dây chuyền xem, cần bố trí những ban công, cửa sổ ở các vị trí thích hợp vào
thiên nhiên để giảm nhẹ mệt mỏi cho khách trong khi xem, đồng thời tạo điều kiện cải
thiện bề mặt cho công trình (không chỉ là mặt tường câm lặng).
° Thủ pháp trưng bày: phông nền trên đó đặt các vật trưng bày nên ừng dụng những thủ
pháp truyền thống của việc sử dụng các cặp vật liệu, chất liệu (trong đó lợi dụng các đặc

tính tương phản mạnh hoặc đồng điệu để có thể nhấn mạnh, đạt thấu ý đồ truyền đạt của
hiện vật trưng bày).
Ví dụ: Gốm trên nền bằng Gỗ.
Đồng trên nền bằng Đá.
Thép trên nền bằng Kính.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 24
THUYẾT MINH ĐATN BẢO TÀNG MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI
Kim cương trên nền bằng vàng…
° Kỹ thuật chiếu sáng và sử dụng màu sắc:
Do yêu cầu làm nổi bật hiện vật, nên việc chọn phông, nền sao cho đạt hiệu quả là do
chất liệu, màu sắc, khả năng phản chiếu, phản xạ… của phông nền.
Từ phòng này sang phòng khác không nên có sự cách biệt quá lớn về màu sắc hoặc ánh
sáng.
Màu sắc cơ bản của các gian trưng bày nên dịu, sáng. Tường có màu trung gian (vàng
nhạt, be sáng).
Nên kết hợp sử dụng ánh sáng tự nhiên và nhân tạo, chú ý phối hợp giữa bóng neon và
bóng tròn.
° Giải quyết vấn đề ánh sáng hay chọn nguồn sáng phần lớn phụ thuộc vào thành phần
của các sưu tập của Bảo tàng.
Ví dụ:
Tranh đồ họa (graphique), bột màu, tài liệu in, vải, chỉ nên dùng ánh sáng nhân tạo.
Hiện vât cứng, bền, tượng, phù điêu… dùng ánh sáng tự nhiên.
Hiện vật khảo cổ, lịch sử: nên dùng ánh sáng nhân tạo.
Đối với các tranh hội họa: người ta có xu hướng cố gắng trưng bày nó trong điều kiện
ánh sáng mà họa sĩ đã vẽ ra chúng, mà vẫn bảo quản được tốt.
Tốt hơn nữa ta có thể mỗi một nhóm trưng bày trong một phòng hoặc liên phòng và mỗi
bức tranh được trưng bày trên một bức tường riêng cho nó.
Trang trí kiến trúc trong phòng trưng bày:
Không được mang ý nghĩa tự thân, mà phải hòan tòan phụ thuộc vào yêu cầu trưng bày
và thành phần hiện vật. Nhiệm vụ của trang trí kiến trúc nội thất là tạo điều kiện tốt nhất

để thể hiện hiện vật cho người xem. Thậm chí các cửa thông phòng cũng sử dụng các
module tủ bày di động, paneau thào lắp dễ dàng cho phép thay đổi diện tích và không
gian của phòng trưng bày.
c. Thiết kế kho bảo quản – xưởng:
khái niệm:
Kho bảo quản của Bảo tàng không phải là một thứ kho hàng đơn giản. Nó là phòng
nghiên cứu đặc biệt bao gồm các sưu tập dự trữ được sắp xếp có hệ thống nhằm mục đích
tạo điều kiện cho cán bộ chuyên môn nghiên cứu, mà còn để cho cả khách tham quan
nữa. Do đó kho bảo quản của Bảo tàng phải dễ xem, dễ hiểu và thường xuyên có thể làm
việc ở đó. Thường chiếm 30% diện tích trưng bày.
Thành phần kho:
Sảnh, phòng tiếp nhận, phòng lựa chọn hiện vật, phòng cách ly (giữ và bảo quản tạm thời
các hiện vật cần phải khử trùng và trùng tu…) Ở lối vào kho chính có bộ phận thư mục
(phiếu, phích… ) về ảnh, băng ghi hình, ghi âm, vi film… và các phòng cho khách và
nhân viên làm việc.
SVTH : LÊ VĂN HÙNG LONG TRANG 25

×