Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NHƯNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVN CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138 KB, 23 trang )

NHƯNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVN CỦA NHTM
1.1.NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế.
1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại.
* Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
* Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
-Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt đông tạo nguồn vốn cho ngân
hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
của ngân hàng.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm có: Vốn chủ sở hữu và vốn nợ
Vốn chủ sở hữu chủ yếu bao gồm có nguồn vốn góp ban đầu, nguồn vốn bổ
sung trong quá trình hoạt động có thể là do đóng góp thêm hoặc trích từ lợi nhuận
giữ lại, các quỹ và cuối cùng là nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn nợ là nguồn vốn lớn nhất mà ngân hàng có được để sử dụng kinh
doanh. Theo luật các tổ chức tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với các ngân
hàng thương mại là 10%, riêng có ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam là 8%, tức là nguồn vốn này có thể chiếm tới 90% tổng nguồn vốn của
ngân hàng. Vốn nợ bao gồm có:
Thứ nhất là tiền gửi của khối dân cư và các doanh nghiệp các loại như tiền
gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của dân cư… Đây là nguồn vốn
huy động được nhiều nhất trong số vốn huy động được của ngân hàng. Dân cư và
các doanh nghiệp nhận thấy rằng mình có một lượng vốn không dùng đến tạm thời
hoặc cũng có thể họ có nhu cầu nhờ chi đối với ngân hàng để thuận tiện cho hoạt
động của mình nên họ quyết định gửi số tiền của mình để nhận được khoản phần
thưởng của ngân hàng cho việc đã sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền cho ngân hàng sử
dụng. Đây là các khách hàng của ngân hàng và đối với khách hàng mà nói thì đây
cũng là một phương pháp vừa tiết kiệm lại vừa sinh lời từ khoản tiền nhàn rỗi của
mình chính là những khoản tiền gửi.


Thứ hai, tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của ngân hàng nhưng không chỉ thế,
vốn nợ của ngân hàng còn được hình thành từ các khoản tiền vay, ngân hàng
thương mại có thể vay tiền ngân hàng trung ương bằng cách chiết khầu hoặc tái
chiết khấu thương phiếu. Các thương phiếu đã được ngân hàng chiết khấu (hoặc tái
chiết khấu) trỏ thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương
phiếu này tới ngân hàng nhà nước tái chiết khấu lại, như vậy trong ngắn hạn làm
cho lượng tiến mặt trong két của ngân hàng thương mại tăng lên đồng nghĩa với
thương phiếu của họ cũng giảm đi. Cũng có thể ngân hàng thương mại vay các tổ
chức tín dụng khác trong thị trường liên ngân hàng tuy nhiên việc đi vay các tổ
chức tín dụng khác thường ít được áp dụng hơn do chi phí của các khoản vay này
cao hơn là vay ngân hàng trung ương. Nếu vay các ngân hàng khác thì dự trữ của
ngân hàng thiếu vốn đi vay sẽ tăng lên và ngược lại với ngân hàng thừa vốn cho
vay trong ngắn hạn. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn đi vay trên thị trường vốn
bằng cách phát hành các loại giấy nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường vốn. Nhờ vậy mà các nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng có thể tăng
lên đảm bảo.
Thứ ba, ngân hàng cũng còn một lượng vốn nợ khác hình thành từ các hoạt
động như ủy thác thanh toán, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác như thuế
chưa nộp, lương chưa trả…Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có thể nhận được
những khoản ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân, ủy thác chi hộ … từ những cá nhân
hay tổ chức khác trong nền kinh tế làm cho nguồn vốn nợ của ngân hàng tăng lên;
nguồn vốn nợ cũng có thể tăng lên nhờ nguồn trong thanh toán như khoản tiền ký
quỹ trong thanh toán L/C
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng
Đây là hoạt động phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo
an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn quan trọng nhất là hoạt động tín dụng, bao gồm các khoản
đầu tư sinh lời của ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn
đối với nền kinh tế. Lợi nhuận thu từ hoạt động này là thường là cao nhất trong
tổng lợi nhuận, tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hạng. Tuy nhiên, đây là hoạt

động chứa đựng độ rủi ro cao nên các ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng
của hoạt động này.
Ngoài ra còn các hoạt động sử dụng vốn khác như hoạt động ngân quỹ, hoạt động
đầu tư tài chính, đầu tư vào trụ sở và những trang thiết bị kỹ thuật phục vụ quá
trình hoạt động của bản thân ngân hàng, chi phí thường xuyên cho quá trình vận
hành ngân hàng.
1.1.2.3. Các hoạt động kinh doanh khác
Ngoài các hoạt động cho vay và đầu tư tạo ra lợi nhuận, ngân hàng thương mại còn
đóng vai trò là trung gian thực hiện các dịch vụ và hoạt động ngân hàng khác theo
yêu cầu của khách hàng như: dịch vụ kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thanh toán, thu
hô, chi hộ, chuyển tiền, ủy thác, bảo quản vật có giá, nghiệp vụ bảo lãnh, tư vấn…
Các hoạt động trung gian này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư
trong khi vẫn mang lại nguồn thu lớn cho ngân hàng. Ở một số ngân hàng lớn trên
thế giới như Citibank, HSBC..thì tỷ trọng lợi nhuận thu từ dịch vụ lên đến 20%.
Ngày nay, lợi nhuận từ các hoạt động dịch vụ này ngày càng tăng cao và chiếm vị
trí quan trọng trong hoạt động ngân hàng
1.2 Khái quát về DNV&N
1.2.1.Khái niệm DNNVV:
Phát triển DNV&N là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
-xã hội nước ta .Bởi vì sự thành đạt của các doanh nghiệp
DNNVV là khái niệm tương đối đối với doanh nghiệp lớn. Phương thức phân loại
DNNVV thường là căn cứ các chỉ tiêu chuẩn như số lượng nhân viên, tổng số vốn,
tổng tài sản, thị phần của doanh nghiệp v.v… Vì vậy, trình độ phát triển kinh tế ở
các nước là khác nhau, dẫn đến các trị số của các chỉ tiêu trên cũng khác nhau. Do
đó, khái niệm DNNVV ở mỗi nước là không giống nhau.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ- CP ngày
23/11/2001 tại điều 3 đã đưa ra khái niệm mới về DNN&V: “ Doanh nghiệp nhỏ
và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 người”.

Khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
- Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập.
- Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ đăng kí hoạt động theo luật hợp tác xã.
- Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân có
quy mô vừa và nhỏ kinh doanh độc lập đăng kí hoạt động theo luật công ty, luật
doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí hoạt động theo Nghị định số 02/2000/NĐ -
CP ngày 03/02/2000 của chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Các DNN&V luôn chiếm số lượng lớn so với các khu vực khác và tốc độ
phát triển ngày càng tăng. Bằng chứng là cộng đồng DNN&V có khoảng 230 000
doanh nghiệp, trong đó chiếm đến 90% là DNN&V, đóng góp khoảng gần 30%
vào GDP mỗi năm. DNN&V cũng là đội ngũ chính cung cấp khoảng trên 30%
tổng sản lượng công nghiệp và tạo ra khoảng 40% lao động việc làm, chưa kể các
hợp tác xã, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên được thành doanh nghiệp.
1.2.2.Đặc điểm của DNV&N ở Việt Nam.
Các DNV&N ở Việt Nam được phát triển một cách chính thức kể từ khi có sự ra
đời của luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty áp dụng từ năm 1990 và sửa đổi
năm 1994. Một loạt các bộ luật khác đã thực sự hỗ trợ cho sự phát triển của khu
vực này. Theo các số liệu thống kê cùng kết quả điều tra các tổ chức kinh tế thì đến
cuối năm 1999 số lượng các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thuộc DNV&N là
43.772 doanh nghiệp chiếm 91%trong tổng số các doanh nghiệp, trong đó
DNV&N thuộc DNNN là 3.672 chiếm 64% tổng số DNNN và số DCV&V ngoài
quốc doanh là 40.100 doanh nghiệp chiếm 94,5% trong tổng số doanh nghiệp.
Trong năm 2000, số doanh nghiệp mới được thành lập theo luật doanh nghiệp dưới
dạng doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có số
vốn đăng ký trung bình trên dưới 1 tỷ đồng nên hầu hết các doanh nghiệp này cũng
có quy mô vừa và nhỏ.
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006 do tổng cục thống kê ( GSO) và
ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam công bố ngày 6/12/2006, số lượng doanh
nghiệp thực tế đang hoạt động tính đến 31/12/2005 là 113.352 doanh nghiệp, tăng

23,54% so với 31/12/2004. Trong đó, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp
chiếm 22,55%, doanh nghiệp hoạt động trong thương nghiệp chiếm 41,59%, trong
xây dựng chiếm 13,46%.
1.2.2.1. Những điểm mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Trong nền kinh tế của một quốc gia, hệ thống các doanh nghiệp đóng góp một
phần không nhỏ vào sự phát triển và tăng trưởng. Hệ thống các doanh nghiệp bao
gồm các doanh nghiệp lớn, các DNV&N. Mỗi loại doanh nghiệp đó đều có những
điểm mạnh, những khó khăn của mình trong quá trình hoạt động. Các doanh
nghiệp lớn họ gặp nhiều những khó khăn về mức độ rủi ro; bất lợi về quy mô dẫn
đến khả năng thay đổi mẫu mã sản phẩm, khả năng đa dạng hóa đầu tư, kinh phí
cao, kênh phân phối, khả năng xâm nhập thị trường; hạn hẹp trong các lĩnh vực
kinh doanh; cồng kềnh về mô hình tổ chức; khả năng hợp tác kém. Nếu như ở các
doanh nghiệp khó khăn như vậy thì ở các DNV&N họ lại có những lợi thế về
những mặt đó và đang ngày càng phát huy được những thế mạnh đó của mình
-Năng đông, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh:
Do có quy mô cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ nên khi có một sự thay đổi thị trường
các doanh nghiệp có quy mô lớn thường kém linh hoạt và nhanh nhậy đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng hơn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trước sự thay
đổi liên tục của thị trường, các doanh nghiệp có thể chuyển hướng kinh doanh,
thay đổi mặt hàng nhanh chóng, đồng thời có thể tăng giàm lao động hay sử dụng
lao động thời vụ, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, khi chuyển địa
điểm sản xuất các doanh nghiệp vừa và nhỏ không gặp khó khăn như các doanh
nghiệp lớn. DNV&N có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu
vực, địa phương. DNV&N có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng
kinh doanh. Điều này càng làm cho DNV&N khai thác hết năng lực của mình, đạt
được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
-Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh.
Điều này hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu
vực này. DNV&N có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh
nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.

Để cho một doanh nghiệp lớn đi vào hoạt động được thì cần lượng vốn đầu tư
ban đầu rất lớn, mặt khác các doanh nghiệp lớn chu kỳ sản xuất kinh doanh thường
dài, khả năng thu hồi vốn chậm, rủi ro lớn. Trong khi đó đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ thì chỉ cần lượng vốn ít hơn. Ngoài ra, với quy mô vừa, nhỏ nên các doanh
nghiệp chỉ đa số là sản xuất các mặt hàng có khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm
thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn. Đây chính là lợi thế cho các DNV&N
khi vay vốn tại các ngân hàng. Các ngân hàng khi thực hiện cho vay họ thường
phải xem xét kĩ những khoản vay và đặc biệt khả năng thu hồi vốn nhanh, giảm
thiểu được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn sẽ đóng góp một phần cho quyết định
cho vay của ngân hàng
-Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNV&N gọn nhẹ, linh hoạt, ti ết ki
ệm đ ư ợc chi ph í . Nhờ có bộ máy quản lý ngọn nhẹ, việc điều hành được thực
hiện được một cách trực tiếp không phải qua các khâu trung gian nên việc ra quyết
định hay việc thực hiện công việc được thực hiện được một cách nhanh chóng và
hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác giám sát diễn ra trực tiếp, đảm bảo hiệu quả công
việc. Nhờ đó nên có thể tiết kiệm được chi phí quản lý doanh nghiệp.
-Các DNV&N dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại:
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ nê nhiều khi thời gian tồn
tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó.
Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với
thiết bị công nghệ mới. Trong trường hợp này các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại sẽ
có lợi thế hơn. Hơn nữa việc phải thay đổi những tư bản cố định để chuyển hướng
kinh doanh cũng thuận lợi hơn do không phải chịu nhiều thiệt hại và có thể nhanh
chóng ứng dụng và đưa vao hoạt động những công nghệ tiên tiến, hiện đại.
-Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý trong các DNV&N khá
chặt chẽ:
Do số lượng lao dộng trong các DNV&N là không nhiều nên lãnh đạo doanh
nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để hiểu rõ trình độ năng lực cũng như mong muốn
nguyện vọng của người lao động, từ đó sẽ có những biện pháp thích hợp để tạo

động lực lao động, từ đó có thể nâng cao trình độ quản lý cũng như tận dụng triệt
đế năng lực lao động, nâng cao hiệu quả công việc.
DNV&N có tinh thần tự lực tự cường cao
Số lượng doanh nghiệp quá lớn, nhà nước không thể kiểm soát chắt chẽ được
hết cũng như khổng thể quan tâm hay có những tài trợ dễ dàng. Do vậy mà buộc
các doanh nghiệp phải nâng cao tinh thần tự chủ, đi lên trong cạnh tranh.
Những điểm mạnh đó của các DNV&N đã và đang là lợi thế của họ và với lợi thế
đó họ dễ dàng hơn tiếp cận với các nguồn vốn của ngân hàng
-Sự hội nhập kinh tế toàn cầu đã tạo ra một lợi thế không nhỏ đối với các
DNV&N.
Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam được
hưởng quy chế quan hệ bình thường (MNF) và đối sử quốc gia (NT) giữa các nước
thành viên của WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNV&N ngày càng đa
dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Bởi, hầu hết các sản phẩm của DNV&N của Việt Nam có giá thành cao, khối
lượng nhỏ lẻ, tiêu thụ ở thị trường nội địa nên khó thâm nhập vào thị trường nước
ngoài, nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch. Do đó, khi các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được dỡ bỏ, các sản phẩm của
các DNV&N sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn nhờ đó sẽ khai thác
được lao động rẻ.
Hội nhập WTO khiến cho hàng hóa nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với giá rẻ
và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập và các
DNV&N cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực
tiếp với các nhà phân phối của nước ngoài.
Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam, tính minh
bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức đối với các DNV&N cũng sẽ được
nâng cao. Mặt khác hiện tượng phân biệt đối sử giữa các DNNN với các DNV&N
(chủ yếu là khu vực tư nhân) sẽ không còn, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ
thuận lợi hơn trong việc tiếp cận nguồn lực tài chính, gia nhập thị trường hỗ trợ
kinh doanh.

1.2.2.2 Những hạn chế và khó khăn của DNV&N:
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô vừa và nhỏ trong những năm gần
đây ở mức rất thấp, mới ở trung bình trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Nguyên nhân là
do các DNV&N phải đối mặt với nhiều bất lợi. Cụ thể:
-Quy mô về vốn và lao động còn quá nhỏ bé:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động các số liệu thống kê cho
thấy, trong tổng số 88.222 DNV&N năm 2004 có 2.211.795 lao động, tương
đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 25 lao động như vậy quy mô về
vốn và lao động của DNV&N của Việt Nam còn quá nhỏ so với các nước phát
triển và đây cũng là lý khiến cho các Ngân hàng thương mại còn e dè trong việc
cấp tín dụng đối với các DNV&N bởi lẽ họ chưa có kinh nghiệp trong sản xuất
kinh doanh, nguồn trả nợ bé đội rủi ro khá cao. Việc mở rộng kinh doanh trang
thiết bị công nghệ hay cải thiện chất lượng lao động đối với các DNV&N là rất khó
khăn. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập WTO.
-Hiệu quả kinh doanh thấp:
Do quy mô của các DNV&N như vậy kéo theo kết quả kinh doanh không cao.
Theo thống kê, lợi nhuận bình quân của DNV&N là 240 triệu đồng. Các tiêu chí về
tỷ suất lợi nhuận trên vốn và lợi nhuận trên doanh thu cũng thấp ở mức 3 tỷ đồng

×