Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.96 KB, 24 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM
1.1. TÍN DỤNG TRUNG - DÀI HẠN VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRUNG - DÀI
HẠN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ.
1.1.1. Khái niệm đặc điểm và vai trò của tín dụng trung - dài hạn.
1.1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng trung - dài hạn là các khoản cho vay của Ngân hàng có thời hạn
trên một năm nhưng không dài hơn thời gian khấu hao cần thiết của tài sản
hình thành bằng vốn vay.
Ngân hàng cấp tín dụng trung - dài hạn cho khách hàng bằng các hình thức
sau:
- Tín dụng theo dự án: Đây là việc Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự
án phục vụ đời sống. Trước khi cho vay, NHTM thường thẩm định rất kỹ các
nội dung của dự án, đặc biệt là phương diện tài chính, nhằm hạn chế những
rủi ro có thể phát sinh.
- Tín dụng tuần hoàn: Tín dụng tuần hoàn là một hình thức cho vay, trong
đó Ngân hàng cam kết chính thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng
trong một thời hạn nhất định. Cam kết này có thể kéo dài từ 1 đến 5 năm.
- Cho thuê tài chính: Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một
hợp đồng tín dụng thuê mua theo đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng và người thuê có trách
nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê và có thể được quyền sở
hữu tài sản thuê, được quyền mua tài sản thuê, hoặc được quyền thuê tiếp theo
các điều kiện đã được hai bên thoả thuận. Theo phương thức này, người vay
được sử dụng tài sản mình cần trên cơ sở đi thuê, không phải bỏ vốn mua mà
chỉ phải trả tiền thuê tài sản cho công ty thuê mua.
- Cho vay đồng tài trợ: là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng
(từ hai tổ chức tín dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm
đầu mối, phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện.
1.1.1.2. Đặc điểm cơ bản của tín dụng trung - dài hạn.
a. Đặc điểm về pháp lý.


Vốn cho vay thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, nhưng quyền sử dụng vốn
thuộc doanh nghiệp vay vốn và doanh nghiệp vay vốn được quyền định đoạt,
sử dụng số vốn trên trong thời gian vay mặt khác, vốn vay trở thành nguồn
hình thành nên tài sản của doanh nghiệp và doanh nghiệp có đầy đủ quyền
năng: sở hữu, sử dụng, định đoạt, đối với tài sản này.
b. Đặc điểm của đối tượng tài sản đầu tư.
Tài sản đầu tư của tín dụng trung – dài hạn có đặc điểm là cần vốn lớn và
thời gian dài nên thu hồi vốn chậm.
Nếu như tín dụng ngắn hạn tài trợ chủ yếu cho tài sản lưu động của doanh
nghiệp và được hoàn trả bởi kết quả các khoản tiền thu về tương ứng thì tín
dụng trung - dài hạn tài trợ về nhà xưởng, máy móc thiết bị, công cụ lao động
của doanh nghiệp nên vốn đầu tư thường lớn, nguồn trả nợ tín dụng trung -
dài hạn chỉ có thể thực hiện cơ bản bởi khấu hao và lợi nhận trong tương lai.
Xuất phát từ tính phức tạp của hoạt động đầu tư là dài hạn, các công cuộc
đầu tư phải trải qua nhiều giai đoạn. Thông thường mỗi dự án đầu tư phải
trải qua ba giai đoạn đó là: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn tiến hành đầu
tư, và giai đoạn vận hành đầu tư. Mỗi giai đoạn phải tiến hành nhiều bước, để
hoàn thành các bước và các giai đoạn đó cần phải có thời gian. Tổng thời gian
để thực hiện các bước và các giai đoạn sẽ làm cho các công cuộc đàu tư phải
kéo dài.
Từ những đặc điểm của đối tượng tài sản đầu tư là những dự án lớn, thời
gian dài nên tín dụng trung - dài hạn có đặc điểm là khối lượng tín dụng
thường lớn và thời gian thu hồi vốn cũng dài để phù hợp với đối tượng đầu tư.
Các NHTM không thể cho vay ngắn hạn đối với dự án đầu tư trung - dài hạn, vì
như vậy các dự án mới xây dựng xong đã phải trả nợ, tạo sức ép buộc các doanh
nghiệp phải dùng nguồn khác để trả nợ. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng của NHTM.
c. Tín dụng trung - dài hạn có đặc điểm là tính rủi ro cao.
Với đặc điểm nêu trên, ta thấy tín dụng trung - dài hạn chịu tác động mạnh
của sự biến động thị trường, lãi suất. Tín dụng trung - dài hạn có thời gian

hoàn vốn dài và phụ thuộc nhiều vào hiệu hoạt độrng của dự án vay vốn. Hay
nói cách khác, tín dụng trung - dài hạn có tính rủi ro cao. Vì vậy, các NHTM
ngoài việc mở rộng cho vay thì ngày càng phải quan tâm tới chất lượng tín
dụng trung- dài hạn nhằm giảm thiểu tới mức thấp nhất rủi ro do tín dụng
trung - dài hạn đem lại.
1.1.1.3. Vai trò của tín dụng trung - dài hạn.
a. Vai trò của tín dụng trung - dài hạn đối với nền kinh tế.
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, đã phát triển hay đang phát triển, việc cho
vay trung - dài hạn từ các NHTM cũng giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Từ
chính khái niệm tín dụng trung - dài hạn, có thể thấy, rằng Ngân hàng đã cung
cấp vốn cho các doanh nghiệp để đầu tư đổi mới xây dựng nhà xưởng, trang
thiết bị bằng các nguồn vốn huy động từ dân cư và những nơi thừa vốn. Việc
vay vốn trung - dài hạn từ các Ngân hàng rất được các nhà kinh doanh yêu
thích vì nó cho phép các nhà kinh doanh vay vốn kiểm soát toàn bộ các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời họ có thể trả nợ sớm hơn khi họ
không cần sử dụng đến vốn đó nữa. So với việc phát hành trái phiếu dài hạn
hay cổ phiếu các doanh nghiệp luôn phải chịu sự kiểm soát của cổ đông và họ
phải đối phó với việc trả lãi cổ phiếu hay lãi cổ phần ưu đãi khi việc sử dụng
vốn của họ có khó khăn hoặc không cần thiết nữa.
Cho vay trung - dài hạn còn là phương pháp thích hợp trong phát triển nền
kinh tế đa thành phần. Bởi lẽ, đó là hình thức tín dụng đầu tư theo chiều rộng
nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô, tăng năng lực sản xuất kinh doanh, tăng
thêm sản lượng, nâng cao chất lượng công trình. Nó rất phù hợp với điều kiện
thực tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngay cả những công ty lớn cũng
thích vay trung - dài hạn để tránh phát hành cổ phiếu, trái phiếu là những hình
thức có thể dẫn đến việc phân chia quyền lợi kiểm soát công ty. Khi mục tiêu
của Đất nước là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì tất yếu việc cho
vay trung - dài hạn phải có giải pháp từ ba phía: Nhà nước, Ngân hàng, doanh
nghiệp để thực hiện được mục tiêu này.
Cho vay trung - dài hạn tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn, làm kích thích

việc mở rộng sản xuất, đòi hỏi vốn lưu động, nâng cao chất lượng sản phẩm,
chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước của các doanh nghiệp. Khi các doanh
nghiệp vay vốn trung - dài hạn có nghĩa là sẽ có một sự đầu tư mới vào các
trang thiết bị hay nhà xưởng làm sản xuất phát triển. Do sản xuất phát triển thì
cần nhiều vốn lưu động hơn và thị trường vốn ngắn hạn được mở rộng theo tốc
độ sản xuất.
Cho vay trung - dài hạn để phát triển nền kinh tế theo chiều sâu. Đối với
nền kinh tế kém phát triển thì việc đầu tư theo chiều sâu để tăng tính cạnh tranh
của hàng hoá trên thị trường quốc tế là giải pháp mang tính chiến lược không
chỉ đối với doanh nghiệp mà đối với cả nền kinh tế Đất nước. Cho vay trung - dài
hạn sẽ là một phương pháp để nhà nước theo chương trình đầu tư mang tính
trọng tâm, trọng điểm đối với các ngành mũi nhọn để xuất khẩu và tạo lợi thế
trên thị trường.
Việc cho vay trung - dài hạn giúp cho sản xuất phát triển theo, giúp cho các
doanh nghiệp tăng thêm thu nhập. Chính vì vậy, ngân sách sẽ tăng lên góp
phần cân đối ngân sách, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
Như vậy, việc cho vay trung - dài hạn có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển nền kinh tế. Nó là nền tảng vững chắc cho quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá Đất nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần có chính sách để tạo vốn
cũng như sử dụng vốn trong hệ thống Ngân hàng để việc cho vay trung - dài
hạn của Ngân hàng đóng góp tích cực vào quá trình chuyển biến của Đất
nước.
b. Vai trò của tín dụng trung - dài hạn đối với các doanh nghiệp.
Nền kinh tế của Đất nước đã chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường. Qua hơn mười năm đổi mới đến nay chúng ta đã nhận
thấy được những ưu điểm lớn của nền kinh tế thị trường đem lại, từ đó các
ngành các doanh nghiệp đã quán triệt và từng bước đổi mới về cơ cấu máy
móc, hoạt động của mình. Các doanh nghiệp quốc doanh phần lớn có hệ thống
máy móc, dây truyền làm việc lạc hậu không theo kịp được tiến trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay. Vì vậy cần phải từng bước khôi phục lại

bằng cách trang bị lại máy móc, trang thiết bị tiên tiến để làm việc. Việc cho
vay trung - dài hạn đối với các doanh nghiệp, cung cấp vốn cho các doanh
nghiệp, có tiềm năng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn.
Đặc biệt, đối với nền kinh tế các nước kém phát triển, nhu cầu vay vốn xây
dựng cơ bản là rất lớn, trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều,
chưa có thời gian để tích luỹ vốn, tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng vào các
doanh nghiệp còn rất hạn chế. Do vậy đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp mới
chủ yếu dựa vào vốn tự có của nhà kinh doanh và bộ phận còn lại dựa vào sự hỗ
trợ của hệ thống Ngân hàng. Đối với nền kinh tế Việt Nam, đẩy mạnh cho vay
trung - dài hạn là giải pháp đúng đắn kịp thời để chuyển hoạt động của các đơn
vị quốc doanh từ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh
doanh, góp phần tháo gỡ khó khăn, thật sự trao quyền tự chủ cho các doanh
nghiệp thuộc các ngành then chốt. Cùng với nền kinh tế thị trường ra đời đã kéo
theo sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp quốc
doanh... được thành lập, nó phù hợp với hoạt động của nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp này làm ăn tốt, có hiệu quả cần có sự cung ứng vốn của Ngân hàng
đặc biệt là vốn trung - dài hạn.
Như vậy, vốn trung - dài hạn thực sự cần thiết đối với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và doanh nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế của nước ta. Hiện nay,
hệ thống Ngân hàng cần có giải pháp nhanh chóng để mở rộng nguồn vốn này
đáp ứng kịp thời nhu cầu.
c. Vai trò tín dụng trung - dài hạn đối với bản thân hệ thống Ngân hàng.
Hoạt động chính của Ngân hàng là đi vay để cho vay nhằm mục đạt được
mục tiêu xã hội và mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động trong cơ chế kinh tế thị
trường là hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Để có thể đứng
vững đòi hỏi mỗi Ngân hàng phải thực sự quan tâm tới việc mở rộng và nâng
cao chất lượng tín dụng của mình. Chính vì vậy hoạt động tín dụng được xem
là thực sự cần thiết để nâng tính cạnh tranh của Ngân hàng. Hơn nữa, khi nền
kinh tế phát triển, tín dụng ngắn hạn phải thực sự xuất phát từ chính việc
nâng cao khả năng sản xuất của doanh nghiệp tức là liên quan đến tín dụng

trung- dài hạn, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Do vậy, các
Ngân hàng rất quan tâm tới nghiệp vụ tín dụng trung- dài hạn của mình.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường đang vận động trong điều
kiện nền kinh tế mở với nhu cầu mở rộng quy mô, trang bị cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, tiên tiến, đổi mới toàn bộ nền kinh tế cho thấy nhu cầu về vốn
trung - dài hạn là rất cần thiết và quan trọng, nguồn vốn này tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp đổi mới kỹ thuật, trang bị công nghệ mới, phương pháp sản
xuất mới, để sản xuất ra hàng hoá mới. Ngân hàng cần phải nắm bắt được tình
hình thực tế của nền kinh tế và nhiệm vụ của Ngân hàng là phải mở rộng, tăng
cường tín dụng trung - dài hạn đáp ứng yêu cầu thiết yếu của nền kinh tế. Đây
là điều kiện để mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định
vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường.
Chính vì vậy, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đóng góp tích cực vào sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá Đất nước thông qua việc nâng cao tỷ
trọng cho vay trung - dài hạn của mình. Hệ thống Ngân hàng nâng tỷ trọng cho
vay trung - dài hạn đối với nền kinh tế như vậy đã thể hiện sự lớn mạnh rõ rệt
sau những năm triền miên trong thời kỳ bao cấp. Và vì vậy mỗi Ngân hàng cần
chú ý và coi trọng loại hình tín dụng này là một chiến lược để phát triển do
tính cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, do tính đa dạng
về hình thức số lượng và ngày càng lớn mạnh về quy mô chất lượng của hệ
thống Ngân hàng nước ta nên Ngân hàng nào có đáp ứng được nhu cầu về
vốn trung - dài hạn thì Ngân hàng đó có cơ hội để phát triển. Và nhất là trong
giai đoạn hiện nay, điều này đã trở thành mục tiêu chiến lược của Ngân hàng.
1.1.2. Nội dung cơ bản của mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
trung - dài hạn của NHTM.
1.1.2.1. Quan niệm về mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn của NHTM
Hoạt động tín dụng nói chung, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn nói
riêng, là một nghiệp vụ chủ yếu đem lại lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn của các
ngân hàng thương mại. Vì vậy các ngân hàng thương mại đều đặc biệt quan
tâm chú trọng đến hoạt động mở rộng cho vay trung dài hạn để tăng lợi

nhuận. Hoạt động mở rộng tín dụng trung dài là sự thể hiện ở quy mô, phạm vi
và đối tương cho vay. Qua đó ta có thể nhìn nhận đánh giá hoạt động mở rộng
tín dụng trung – dài hạn của một ngân hàng thương mại qua thông số tuyệt
đối và tương đối.
Thông số tuyệt đối của hoạt động mở rộng tín dụng trung dài hạn là tăng
số dư của khoản mục này trong bảng cân đối kế toán so với kỳ trước, điều đó
đòi hỏi phải tăng số lượng các dự án đầu tư hay mở rộng quy mô sản xuất,
thay đổi quy trình công nghệ, tăng doanh số cấp tín dụng lớn hơn tăng số thu
hồi tín dụng trung dài hạn.
Thông số tương đối của hoạt động mở rộng tín dụng trung dài hạn là
tăng tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn trong tổng dư nợ và đầu tư của hệ
thống ngân hàng, làm thay đổi cơ cấu hoạt động kinh doanh của ngân hàng
theo hướng tăng hoạt động tín dụng trung dài hạn.
Mức dư nợ tín dụng trung dài hạn về con số tuyệt đối và tương đối tăng
cao là mục tiêu phấn đấu của tất cả các ngân hàng thương mại nhưng không
vì thế mà các ngân hàng bỏ qua chất lượng của các khoản vay này, ngược lại
họ đặc biệt chú trọng, quan tâm về chất lượng và thường họ tiến hành thẩm
định kiểm tra rất kỹ lưỡng khi cấp một khoản tín dụng trung dài hạn, nếu
không khoản cho vay đó có thể sẽ gặp rủi ro cao ảnh hưởng đến lợi nhuận và
kết quả kinh doanh.
Vì vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu hợp lý của khách hàng
có lựa chọn đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn
tại phát triển của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung - dài hạn là chất
lượng các món vay có thời hạn trên một năm, được đánh giá là có chất lượng
tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng đúng mục đích phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả đảm bảo trả nợ Ngân hàng đúng
hạn, vừa bù đắp được chi phí và lợi nhuận. Xét về tổng thể, Ngân hàng vừa tạo
ra hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội.
Từ khái niệm trên chúng ta thấy khách hàng, bối cảnh kinh tế xã hội và
NHTM đều là ba nhân tố được tính đến khi xem xét về chất lượng hoạt động tín

dụng trung - dài hạn. Việc xem xét chất lượng hoạt động tín dụng trung - dài
hạn nếu chỉ xuất phát từ một hoặc hai nhân tố là không đầy đủ, phiến diện vì
cả ba nhân tố này trong vận động thực tiễn đều có tác dụng qua lại hoặc thúc
đẩy hoặc kiềm chế lẫn nhau, gây ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến chất
lượng tín dụng trung - dài hạn. Vì thế chúng ta xem xét chất lượng tín dụng
trung - dài hạn trên từng giác độ.
Thứ nhất: Xét từ giác độ khách hàng:
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ giúp
Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của khách hàng từ đó tiếp cận tìm cách
thoả mãn nhu cầu của họ. Trong bất cứ nền kinh tế cạnh tranh nào, doanh
nghiệp muốn đứng vững thì việc quan tâm tới chất lượng là điều thiết yếu, vừa
thoả mãn nhu cầu khách hàng vừa tạo điều kiện cho họ nâng cao tỷ lệ chiếm
lĩnh thị trường. Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng là sự thoả mãn yêu
cầu hợp lý (người vay vốn) với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo thu
hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của tín dụng phù
hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội, góp phần lành mạnh tài chính doanh
nghiệp, cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh và duy trì sự tồn tại và phát
triển của Ngân hàng.
Thứ hai: Chất lượng hoạt động tín dụng trung - dài hạn xét từ giác độ kinh tế xã
hội.
Trong những năm gần đây, hoạt động tín dụng trung - dài hạn phản ánh
rõ nét sự tác động đối với nền kinh tế. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh,
tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần
tăng trưởng kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, vừa tranh
thủ vốn vay nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế.
Thứ ba: Xét từ giác độ Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn thể hiện ở phạm vị mức độ, giới
hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản
thân Ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, tuân thủ
nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng trung -

dài hạn phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, tỷ lệ nợ quá hạn
hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn - trung - dài hạn trong nền kinh
tế.
Qua đó có thể rút ra:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu
có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn…) vừa trừu tượng
(thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…) và
khách quan (theo sự thay đổi của môi trường bên ngoài). Khuynh hướng phát
triển của nền kinh tế, sự thay đổi các yếu tố thị trường, môi trường pháp lý
nhìn chung đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh
của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.

×