Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Biện pháp dạy thơ trữ tình ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.11 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC &ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH
HIỆN ĐẠI TRONG NHÀ TRƯỜNG THCS

Người thực hiện: LÊ THỊ LIÊN
Chức vụ: HIỆU TRƯỞNG
Môn: NGỮ VĂN
Đơn vị: TRƯỜNG THCS XI MĂNG –BỈM SƠN


NĂM HỌC 2011-2012
A- ĐẶT VẤN ĐỀ:
Thơ là một công trình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ, là hình thức
sáng tác văn học phản ánh đời sống của con người, xã hội thông qua những
hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn
ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhịp điệu.
Đặc trưng cơ bản nhất của thơ là tính trữ tình. Tác phẩm trữ tình là văn
bản biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước cuộc sống. Trong đó thơ trữ
tình là một hình thái nghệ thuật đặc biệt. Cảm xúc, tâm trạng của tác giả có
thể được bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp qua hệ thống từ ngữ, vần, nhịp, các
biện pháp tu từ … Một bài ca dao hay một bài thơ trữ tình hiện đại bao giờ
cũng là kết quả của sự huy động tổng lực những tâm tư, tình cảm, trí tưởng
tượng, vốn ngôn ngữ, vốn sống … của bản thân tác giả. Nó là sự kết hợp hài
hoà, chặt chẽ giữa “ ý và lời”, “giữa nghệ thuật và nội dung”.
Nội dung trữ tình luôn là cái đích cuối cùng phải vươn tới của quá trình
sáng tác cũng như cảm thụ, phân tích thơ. Nắm được những đặc điểm này,
người đọc, người nghe và đặc biệt người học phải biết khai thác, tìm hiểu
những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm thơ. Đây cũng là một vấn đề hết sức quan
trọng đối với giáo viên Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Để giúp học


sinh hiểu được tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ trước những vấn đề cuộc sống
và xã hội, giáo viên phải nắm vững đặc điểm thơ trữ tình để rút ra được
những cách thức khám phá, tìm hiểu thể thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình
hiện đại nói riêng; giúp học sinh tiếp cận văn bản thơ trữ tình đạt hiệu quả cao
nhất, đồng thời giáo viên sẽ có một định hướng rõ ràng trong việc tiếp cận,
phân tích đúng tác phẩm thơ.
Dạy học thơ trữ tình với những đặc trưng, sẽ góp phần bồi dưỡng tâm
hồn, cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ cho học sinh. Trong nhà
trường Trung học cơ sở (THCS), giáo viên dạy Ngữ văn có nhiệm vụ hướng
dẫn học sinh đi tìm, lĩnh hội được đầy đủ cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ.
Chương trình Ngữ văn THCS có rất nhiều tác phẩm thơ hay, khi đọc, học thơ
chúng ta mới chỉ ra cái hay, cái đẹp (cảm thơ), nhưng chưa phân tích được cái
hay cái đẹp đó. Hơn nữa tác phẩm thơ trữ tình rất đa dạng, phong phú, phức
tạp và sâu sắc: ngôn ngữ rất hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại. Hiểu
được các bài thơ một cách thấu đáo và giảng dạy như thế nào để học sinh cảm
thụ được cái hay cái đẹp của văn chương, tạo được sự rung cảm, bồi đắp được
tâm hồn, trí tuệ cho học sinh là vấn đề quan trọng được nhiều người quan tâm
và là vấn đề mà rất nhiều giáo viên đứng lớp rất trăn trở.…
Chính vì lẽ đó mà việc giảng dạy thơ trữ tình trong nhà trường THCS là
một vấn đề khó đối với giáo viên Ngữ văn hiện nay. Bởi lẽ, năng lực phân
tích thơ tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ hiểu biết văn chương, kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ diễn đạt các thao tác, phương pháp phân tích của người giáo viên
cũng như năng lực cảm thụ của học sinh. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả
giảng dạy thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình hiện nói riêng trong nhà
trường THCS?
2
Từ lý do trên, tôi nhận thấy rằng, người giáo viên phải là chiếc cầu nối
giúp các em cảm nhận được thơ cái hay cái đẹp trong văn chương. Việc lựa
chọn phương pháp giảng dạy thơ trữ tình phù hợp với từng đối tượng, vừa sức
với học sinh, giúp các em vượt qua những khó khăn trên để cảm nhận được

cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ trữ tình là cần thiết. Vì vậy, tôi đã chọn
nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao hiệu quả dạy thơ trữ tình hiện đại trong
nhà trường THCS.
3
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I- MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THƠ TRỮ TÌNH:
1.Khái lược về thơ trữ tình:
- Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ
ngắn gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm
trạng, thái độ, tình cảm, của người nghệ sĩ về đời sống thông qua những
hình tượng nghệ thuật.
- Trữ tình là phương thức phản ánh (hiện thực đời sống; hiện thực tâm
trạng) bằng cách bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý thức của tác giả thông qua cái tôi
trữ tình, mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể.
- Thơ trữ tình dùng để chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình, trong
đó nhà thơ bộc lộ một cách trực tiếp những cảm xúc riêng tư, cá thể về đời
sống, thể hiện tư tưởng về con người, cuộc đời và thời đại nói chung. Nội
dung của thơ trữ tình là biểu hiện tư tưởng, tình cảm làm sống dậy cái thế giới
chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư
tâm trạng, nỗi niềm.
2. Đặc điểm chung của thơ trữ tình:
2.1. Tính trữ tình:
Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên
về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời.
Những rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện,
những hiện tượng đời sống vào tâm hồn nhà thơ. Đây là đặc điểm cơ bản nhất
của tác phẩm thơ. Nắm vững đặc điểm này ta sẽ có một định hướng rõ ràng
trong việc tiếp cận, phân tích đúng tác phẩm thơ. Nghĩa là, khi phân tích tác
phẩm thơ, ta không phải đi sâu vào mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự
kiện, sự việc được nhà thơ đề cập, mà điều cốt lõi là thấy và nói được những

cảm xúc, tâm trạng, thái độ và suy tư của nhà thơ về các vấn đề trên.
2.2.Chủ thể trữ tình:
Trong tác phẩm thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn,
ngắm, đang rung động, suy tư về cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ thể
trữ tình. Nói cách khác, chủ thể trữ tình là con người đang cảm xúc, suy tư
trong tác phẩm thơ. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm thơ chỉ hiện diện, đối
thoại với độc giả bằng những sắc thái tình cảm, thái độ tình cảm. Trong tác
phẩm thơ, chủ thể trữ tình là yếu tố luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ tình
của tác phẩm. Cho nên, khi phân tích thơ, ta phải phân tích nội dung trữ tình.
Muốn phân tích nội dung trữ tình thì nhất thiết, nắm bắt và phân tích được
chủ thể trữ tình. Bởi lẽ, nội dung trữ tình luôn chứa trong chủ thể trữ tình.
3.Nội dung phản ánh trong thơ trữ tình:
3.1.Thơ trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người.
Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ được
trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, nhà
thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ
một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Người đọc cảm nhận trước hết là thế giới
4
nội tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con
người, cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về
con người và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này
chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu
biểu, đầu tiên của tác phẩm trữ tình.
3.2. Thơ trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới
chủ quan.
Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều
đó cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách
quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều
là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì Do đó, hiện tượng cuộc sống
vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan

của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện
tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Như
vậy, tác phẩm trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng
chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của
con người.
4.Đặc điểm của ngôn ngữ thơ trữ tình:
4.1.Ngôn ngữ thơ trữ tình hàm súc, cô đọng
Để có một vần thơ lắng đọng, các nhà thơ phải lao động hết mình để
lựa chọn ra những ngôn từ thơ tốt nhất diễn tả được cảm xúc tình cảm của
mình. Đó là sự gọt giũa về mặt ngôn từ để tạo ra những từ ngữ thơ mà đọc lên
người đọc ấn tượng và hiểu thấu nội dung tư tưởng nhà thơ gửi gắm.
4.2. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhịp điệu
Trong thơ, sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích nhịp điệu, tạo ra
nhịp điệu thơ. Cuối mỗi dòng thơ đều có chỗ ngắt nhịp. Tuỳ theo số chữ trong
mỗi dòng mà nhịp thơ thể hiện khác nhau.Và theo từng cung bậc tình cảm thì
nhà thơ sử dụng thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ hoặc dài hơn, hoặc
ngắn hơn chen nhau…Ngoài ra, trong các thể thơ Việt nam như lục bát, song
thất lục bát tứ tuyệt, hát nói…là những cấu tạo nhịp điệu đặc biệt, có lưng,
vần, chân, lối ngắt nhịp riêng độc đáo.
4.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhạc, tính hoạ
Bằng những âm thanh luyến láy,bằng những từ ngữ trùng điệp,sự phối
hợp bằng trắc và cách ngắt nhịp,nhà thơ đã xây dựng nên những câu
thơ,những hình tưọng thơ có sức truyền cảm lớn, tạo nên những cung bậc tình
cảm tinh tế của người nghệ sỹ.
Thơ được xây dựng bằng những hình tượng nghệ thuật có sức gợi cảm
lớn. Thi trung hữu hoạ, trong thơ thể hiện những bức tranh hoàn mỹ mà người
đọc có thể hình dung khi cảm nhận những vần thơ khắc hoạ. Đó là tính hoạ
trong thơ.
4.4.Ngôn ngữ thơ phải có tính biểu hiện:
Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phản ánh hiện thực cuộc sống qua

hình tượng nghệ thuật. Nghĩa là điều mà nhà nghệ sĩ nhận thức, suy tư về
5
cuộc sống luôn được thể hiện một cách gián tiếp. Để làm được điều này người
nghệ sĩ đi vào khai thác khả năng biểu hiện của ngôn ngữ. Đó là cách tổ chức
sắp xếp ngôn ngữ sao cho từ một hình thức biểu đạt có thể có nhiều nội dung
biểu đạt. Đó là quá trình chuyển nghĩa tạo nên lượng ngữ nghĩa kép trong thơ.
II- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1.Thơ trữ tình hiện đại trong chương trình Ngữ văn THCS:
Trong nền văn học Việt Nam, chúng ta có thể thấy mảng thơ trữ tình
chiếm một vị trí quan trọng và độc tôn. Vì vậy, môn Ngữ văn ở trường THCS
có số lượng thơ trữ tình khá lớn trong các lớp 6, 7, 8, 9 gắn liền với các đề tài,
chủ đề khác nhau. Với các nhân vật trữ tình khác nhau xoay quanh đời sống
tinh thần của con người, diễn tả nội tâm, tâm trạng và những cung bậc tình
cảm khác nhau của con người. Chính vì vậy mà thơ trữ tình được đưa vào nhà
trường là tất yếu. Vậy chúng ta phải dạy thơ trữ tình như thế nào để học sinh
nắm được tâm trạng, cảm xúc, cách thể hiện tình cảm của các nhân vật trữ
tình.
2. Thực trạng về việc học thơ trữ tình của học sinh:
- Trong chương trình THCS, môn Ngữ văn, một môn học quan trọng
và chiếm số tiết khá nhiều trong phân phối chương trình so với các môn học
khác. Nhưng nhiều học sinh tỏ ra thơ ơ, ngày càng nhiều học sinh chán học
với học tác phẩm văn chương đặc biệt là tác phẩm thơ. Các em chưa tự chủ
động tìm hiểu khám phá tác phẩm thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Một phần do
năng lực cảm thụ của học sinh, một phần do xu thế thời đại, hội nhập toàn cầu
đã ảnh hưởng đến nhận thức của phụ huynh học sinh về những môn học thời
thượng (Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ), văn chương không có tính năng
ứng dụng, tương lai người học không được đảm bảo. Vì vậy, học sinh ngày
càng xa rời văn chương.
- Việc tự học, tự soạn văn, chuẩn bị cho bài học trên lớp của học sinh
còn đối phó. Học sinh không tự nghiên cứu, thậm chí không đọc tác phẩm, để

tìm hiểu, khám phá tác phẩm mà chủ yếu chép lại và dựa vào gợi ý hướng dẫn
của các loại sách: Để học tốt, bình giảng văn học sách chuẩn kiến thức,
những bài văn mẫu Những tài liệu này, vô hình dung, đã làm cho học sinh
bỏ rơi sách giáo khoa, học sinh tỏ ra biết đầy đủ nội dung tác phẩm văn
chương mà không cần phải nghiên cứu, tự học tự suy nghĩ, liên tưởng cũng có
thể đáp ứng được những yêu cầu, phát vấn của thầy cô giáo ở trên lớp. Điều
này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành
những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời
có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở.
3.Thực trạng về giảng dạy của giáo viên:
- Giáo viên rất ngại dạy thơ, bởi lẽ dạy thơ rất khó, nếu giáo viên không
biết khai thác thơ theo đúng mạch cảm xúc của nhà thơ thì giờ học sẽ trở nên
khô khan không tạo được hứng thú học tập của học sinh.
- Quá trình giảng dạy của giáo viên phần lớn dựa vào hệ thống câu hỏi
trong sách giáo khoa rồi hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu tìm hiểu. Khi
6
phân tích giáo viên chỉ chú ý đến phân tích nội dung và tư tưởng được phản
ánh trong bài thơ, không thấy hình thức nghệ thuật. Đây thực chất chỉ diễn
xuôi nội dung thơ ra mà thôi. Hoặc cũng có chú ý đến các hình thức nghệ
thuật, nhưng tách rời các hình thức nghệ thuật ra khỏi nội dung (thường là gần
kết bài mới nói qua một số hình thức nghệ thuật được nhà thơ sử dụng trong
bài). Hoặc cũng có khi giáo viên chỉ suy diễn một cách máy móc, gượng ép
phi lí các nội dung và vai trò, ý nghĩa của các hình thức nghệ thuật trong bài
thơ.
- Năng lực của giáo viên còn hạn chế, nhiều giáo viên đọc diễn cảm còn
chưa đạt dẫn đến việc cảm tác phẩm chưa sâu. Năng lực bình thơ cũng kém,
vì vậy giáo viên chưa chú ý đến bình thơ mà chỉ giảng thơ, dẫn đến giờ dạy
khô khan, điều đó khiến cho năng lực cảm thụ cái hay cái đẹp của tác phẩm
với học sinh chưa hoàn toàn đúng mức.
- Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo phương pháp cũ,

chưa có sự đổi mới. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp
đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh.
Không chú ý đến sự sáng tạo của học sinh. Vì thế vẫn chưa thu hút được sự
chú ý của người học.
4.Kết quả thực trạng:
Năng lực cảm thụ và vận dụng của giáo viên
Trường THCS Xi Măng
Tổng số
giáo viên
Năng lực đọc
diễn cảm
Năng lực
cảm thụ
Năng lực
bình thơ
Vận dụng các phương
pháp trong giảng dạy
5 4 – 80% 2 -40% 2- 40% 3 -60%
Năng lực cảm thụ và vận dụng của học sinh
Trường THCS Xi Măng
Lớp Năng lực cảm thụ Năng lực vận dụng
9A 4 - 1,25% 15 – 47%
9B 1 – 6% 7- 21,2%
Kết quả học tập của học sinh trường THCS Xi Măng
( Khảo sát bài kiểm tra học sinh)
Giỏi Khá TB Yếu, kém
Lớp 9A 3 - 9,4% 15 - 47% 10 - 31,2% 5 - 15,5%
Lớp 9B 1- 3% 7- 21,2% 20 -60,6% 6 -18,2%
III- CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi thấy để nâng cao hiệu quả để giảng dạy

một tác phẩm thơ trữ tình trong nhà trường cần phải đổi mới phương pháp dạy
học, sáng tạo và sử dụng linh hoạt các những biện pháp dạy và học. Trong
quá trình dạy văn, không nên quan niệm những phương pháp, biện pháp dạy
học văn truyền thống đều lạc hậu, đáng loại bỏ, mà chỉ những cái xuất hiện ở
thời điểm hiện tại thì mới là tiến bộ, là khoa học mà chúng ta cần chú ý đến
7
mối quan mật thiết đến việc xác định phương pháp dạy học mới với phương
pháp dạy học truyền thống. Khi dạy tác phẩm văn học nói chung và thơ trữ
tình nói riêng cần bám sát các phương pháp, biện pháp dạy và học văn truyền
thống đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn linh hoạt nhịp nhàng giữa cái cũ và cái
mới. Có như vậy mới nâng cao được hiệu quả của giờ học văn.
Ngoài các phương pháp, các biện pháp, các bước tiến trình tổ chức dạy
học như: giới thiệu tác giả, tác phẩm, phân tích bố cục, phân tích giá trị nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm thơ nói chung…Tôi nhận thấy rằng, khi giảng
dạy một tác phẩm thơ trữ tình, cần đi sâu khai thác một số các yêu tố trọng
tâm sau: Nhân vật trữ tình (Chủ thể trữ tình), hình tượng trữ tình, hình tượng
ngôn từ…Bản thân tôi đã vận dụng trong bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt,
bước đầu đã có hiệu quả. Tôi mạnh dạn đề xuất biện pháp này để anh chị em
đồng nghiệp tham khảo.
1. Tìm hiểu tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thơ.
Tác giả nào, tác phẩm ấy. Mỗi tác phẩm thơ là thế giới nội tâm của nhà
thơ, thể hiện tư tưởng, thái độ, tình cảm của nhà thơ đối với cuộc sống, thể
hiện khát vọng Chân- Thiện- Mỹ của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đều sinh ra trong
một hoàn cảnh gia đình, với những sở thích, lối sống nào đó và sống trong
một bối cảnh lịch sử - xã hội nhất định. Môi trường gia đình và xã hội, với
những biểu hiện đa dạng của nó về chính trị, kinh tế, văn hoá, ảnh hưởng trực
tiếp đến tư tưởng và tình cảm của nhà thơ, và điều này được phản ánh trong
tác phẩm ở một phạm vi nào đó.
Để hiểu nội dung của tác phẩm trữ tình trước hết giáo viên cần phải
giúp học sinh nắm chắc được tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác

phẩm. Không nắm được tiểu sử tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, thì
không thể hiểu đúng, đánh giá đúng được tác phẩm.
Ngoài những thông tin trong sách giáo khoa về tác giả và tác phẩm giáo
viên cung cấp thêm nhưng thông tin về tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ
giúp học nắm chắc hơn và tích lũy được những tư liệu quý về tác phẩm.
2. Đọc và quan sát bước đầu để hiểu bài thơ.
Một trong những yêu cầu của việc dạy và học môn Ngữ văn THCS hiện
nay là rèn cho các em các kỹ năng “Nghe - Đọc - Nói - Viết”. Vì vậy trước
khi tìm hiểu tác phẩm thơ trữ tình, giáo viên cần tổ chức cho các em đọc. Đọc
là bước đầu để hiểu bài thơ. Đọc tác phẩm văn học trước hết chúng ta tiếp xúc
với những hình thức nghệ thuật cụ thể của ngôn từ nghệ thuật. Đó là những
dấu câu và cách ngắt nhịp, là vần điệu, âm hưởng và nhạc tính, là từ ngữ và
hình ảnh, là câu và sự tổ chức đoạn văn, là văn bản và thể loại của văn bản…
Phân tích tác phẩm văn học không được thoát ly văn bản có nghĩa là trước hết
phải bám sát các hình thức biểu hiện lên của ngôn từ nghệ thuật, chỉ ra vai trò
và ý nghĩa của chúng trong việc thể hiện nội dung. Vậy chúng ta phân tích thơ
trữ tình phải dựa trên thi pháp. Qua việc đọc, để xác định giọng điệu chủ đạo
của bài thơ. Nhưng đọc những gì, đọc như thế nào? Vì thế vai trò của người
giáo viên là rất quan trọng, giáo viên cần hướng dẫn học sinh các phương
8
pháp đọc: Đọc hiểu, đọc phân tích, đọc diễn cảm trong đó đọc diễn cảm là
một phương pháp cơ bản để giúp học sinh cảm nhận được giá trị của tác
phẩm. Một bài thơ hay, nhưng nếu đọc không đúng giọng điệu, âm hưởng của
bài thơ sẽ làm hỏng giá trị của thơ, người đọc không thể cảm được tư tưởng
tình cảm của tác giả thể hiện trong từng câu, từng chữ của bài thơ.
Để phương pháp đọc đạt được hiệu quả, giáo viên cần rèn luyện cho
mình và cho học sinh kỹ năng đọc, giáo viên biết đọc đúng, đúng vần, đúng
nhịp, đúng âm hưởng của từng câu thơ. Rèn luyện giọng đọc cũng rất quan
trọng. Thơ trữ tình là “Tiếng lòng” của tác giả, là tâm hồn, tình cảm, cảm xúc
của tác giả gửi gắm trong ngôn từ, hình ảnh. Vì thế việc đọc thơ trữ tình cần

có giọng đọc thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ.
3.Phân tích tiêu đề bài thơ.
Thông thường giáo viên khi dạy tác phẩm thơ không hay chú ý đến
hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiêu đề của tác phẩm. Song, đây là một nội dung
vô cùng quan trọng. Bởi tiêu đề một tác phẩm thơ nơi thể hiện tinh thần cơ
bản của nội dung bài thơ. Cũng có khi có những bài thơ không có đề (vô đề)
có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài thơ, suy ngẫm và tưởng
tượng mà tự hiểu. Ðề thơ có thể chỉ nên được coi như một định hướng để hiểu
đúng bài thơ.
Mặt khác tiêu đề bài thơ thường chứa đựng những thông tin quan trọng
đối với người đọc về ý nghĩa của toàn bộ tác phẩm. Đôi khi người ta có thể
không hiểu bài thơ nếu người ta không chú ý đến tiêu đề bài thơ. Cũng có khi
người đọc hiểu sai bài thơ, nếu hiểu không chính xác tiêu đề của nó. Bởi khi
sáng tác, bao giờ các tác giả cũng phải đặt tên cho đứa con tinh thần, của sự
sáng tạo nghệ thuật một lần của mình một cái tên. Đặt tiêu đề cho tác phẩm là
một cách gây ấn tượng, tạo cảm xúc cũng như kích thích sự tò mò nơi người
đọc. Vì thế khi dạy bất cứ bài thơ trữ tình nào cùng phải phân tích kỹ tiêu đề
bài thơ.
4. Xác định chủ đề bài thơ.
Chủ đề là vấn đề lớn được đặt ra trong tác phẩm, chủ đề lưu giữ tư
tưởng chủ đạo của bài thơ mà nhà thơ đã khái quát hoá một vấn đề xã hội
hoặc đời sống. Chủ đề tác phẩm thơ là tâm trạng của nhân vật trữ tình trước
một vấn đề nào đó trong hiện thực đời sống. Hiểu được chủ đề là bước quan
trọng đầu tiên để có thể phân tích được bài thơ. Khi phân tích văn học nói
chung, thơ nói riêng ta cần phải nắm chủ đề của tác phẩm. Xác định được chủ
đề của thi phẩm sẽ góp phần định hướng, chi phối mọi thao tác phân tích của
chúng ta.
Thơ ca thuộc loại tác phẩm trữ tình, do vậy chủ đề của bài thơ luôn là
cảm xúc, tâm trạng, thái độ, của nhân vật trữ tình đối với một sự vật, sự
việc, con người nào đó. Nói cách khác, thơ là sản phẩm của trái tim, tâm hồn

người nghệ sĩ, nên dù muốn hay không nó phải mang hơi ấm tâm hồn, nhịp
đập trái tim người nghệ sĩ.
Việc tìm hiểu chủ đề tác phẩm thơ là một hoạt động khó đối với học
9
sinh, nhất là học sinh khối 6,7 mặc dù các em đã được học về chủ đề, đã hiểu
được khái niệm chủ đề nhưng việc xác định chủ đề không phải học sinh nào
cũng có thể xác định được. Vì vậy giáo viên cần cho học sinh đọc kỹ tác
phẩm, có những câu hỏi gợi mở đề học sinh biết tìm hiểu chủ đề giúp học sinh
phân tích tác phẩm hiệu quả hơn.
5.Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ:
Như đã trình bày, nhân vật trữ tình là con người đang cảm xúc, rung
động trong thơ. Nội dung trữ tình trong thơ luôn được thể hiện thông qua
nhân vật trữ tình. Sâu xa hơn, tác giả cũng chỉ có thể thể hiện xúc cảm của
mình thông qua nhân vật trữ tình. Độc giả cần phân biệt nhân vật trữ tình và
nhân vật tự sự. Sự phân biệt ấy dựa vào việc đối lập những nét đặc trưng của
loại tác phẩm trữ tình và tự sự. Sự phân biệt này giúp ích rất lớn trong quá
trình phân tích thơ. Nhân vật trữ tình là con người, nhưng đó là con người của
tâm trạng, của cảm xúc chứ không phải con người hành sự, đi đứng, nói
năng, như nhân vật tự sự. Do đó, khi phân tích nhân vật trữ tình ta cần phải
tập trung khai thác thế giới tâm trạng của nhân vật. Phân tích thơ mà không
nói được tâm trạng của nhân vật trữ tình thì coi như không phân tích được gì
cả!
6. Phân tích hình tượng của bài thơ
6.1. Phân tích nhân vật trữ tình (Chủ thể trữ tình)
Nhân vật trữ tình là người phát ngôn trong bài thơ. Nó chia sẻ với
chúng ta những điều quan sát được cũng như tư tưởng và tình cảm. Khi phân
tích giáo viên cần phân biệt rõ 2 khái niệm: nhân vật trữ tình và nhân vật
trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà
thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ của mình, là nguyên nhân trực tiếp
khêu gợi nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối

tượng để nhà thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm
trạng, suy tư về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm.
Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không chỉ xuất hiện những
cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một
ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung.
Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm
lòng mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.
Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình cảm, tâm
trạng, suy tư của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp
nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác giả. Do tính chất tiêu biểu,
khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào
đối tượng để xây dựng nhân vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng
tạo nghệ thuật. Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai. Vì vậy, khi
phân tích nhân vật trữ tình giáo viên cần phân biệt cho học sinh, có hai dạng
thức là cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình ẩn.
6.2. Phân tích hình tượng trữ tình
Như người hoạ sĩ, nhà thơ cũng xây dựng hình tượng trữ tình thông qua
10
những phần (hoặc những đoạn) khác nhau. Nhà thơ xây dựng hình tượng trữ
tình thông qua ngôn ngữ nghệ thuật. Thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, nhà thơ
nâng cao sức tưởng tượng cho người đọc.
Người học có thể hình dung ra vị thế của nhà thơ và khát vọng, tư
tưởng tình cảm, thái độ của tác giả trước cuộc sống. Nhà thơ đã vẽ bằng ngôn
từ bức tranh phong cảnh thiên nhiên và cuộc sống rất sống động với đủ các
gam màu, với ánh sáng, đường nét, với các cung bậc cảm xúc ở độ tuyệt đích
của chúng, cùng với nhịp thơ, hơi thơ và giọng thơ thật đắm say, thật hồ hởi,
thật cuồng nhiệt, khiến người đọc như cũng bị cuốn theo cái rạo rực, mê say
đó.
6.3.Phân tích hình tượng ngôn ngữ
6.3.1. Phân tích vần, nhịp điệu, âm điệu

Tác phẩm thơ trữ tình để bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những ý tập
Trung,hàm súc thì phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu gây
ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh,
nhịp điệu của từ ngữ nữa. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là những yếu tố cơ
bản tạo nên tính nhạc của Tiếng Việt nói chung và ngôn từ văn học nói riêng.
Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác
nhau. Trong thơ Việt Nam, tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân
đối, trầm bỗng, nhịp nhàng và trùng điệp.
Vì vậy khi phân tích thơ trữ tình giáo viên cần chú ý phân tích vần thơ,
cách gieo vần. Hình thức gieo vần góp phần tạo độ âm vang cho các câu thơ,
nó mang giá trị nghệ thuật và giá trị biểu cảm cao. Các nhà thơ hay chọn vần
để trình bày, biểu đạt tình cảm và tư tưởng.
Bên cạnh vần, nhịp điệu có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với thơ trữ
tình. Nó giúp nhà thơ nâng cao khả năng biểu cảm, cảm xúc. Phân tích thơ trữ
tình tình không thể không chú ý đến phân tích nhịp thơ. Để xác định nhịp điệu
của từng bài thơ ngoài việc đọc từng câu thơ cho ngân vang âm điệu và làm
bừng sáng hình ảnh thơ.
6.3.2. Phân tích từ ngữ và biện pháp tu từ
Tiếp xúc với một bài thơ trữ tình trước hết là tiếp xúc với hình thức
nghệ thuật ngôn từ. Như thế phân tích thơ trữ tình trước hết phải xuất phát từ
chính những hình thức nghệ thuật ngôn từ mà chỉ ra vai trò và tác dụng của
chúng trong việc thể hiện tình cảm, thái độ của nhà thơ. Từ ngữ và các biện
pháp tu từ là yếu tố quan trọng nhất của hình thức chất lượng ngôn từ. Từ ngữ
trong thơ trữ tình là ngôn ngữ đời thường được nâng cấp, sửa sang, gọt dũa
làm cho nó càng óng ả giàu đẹp hơn. Các biện pháp tu từ chính là những
phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ văn
học. Tất cả những cách ấy nhằm mục đích giúp người nói, người viết có nhiều
cách diễn đạt hay hơn, đẹp hơn, phong phú hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
Vì vậy việc phân tích từ ngữ, biện pháp tu từ trong thơ trữ tình chính là
khám phá ra cái hay cái đẹp của bài thơ và hiểu hơn nội dung bài thơ cần biểu

đạt. Đây cũng chính là lý do vì sao một trong những nội dung đổi mới phương
11
pháp dạy học là đề cao phương pháp dạy học tích hợp: Học sinh vận dụng các
kiến thức Tiếng Việt -Tập làm văn để tìm hiểu để phân tích thơ.
7.Bình giảng.
Bên cạnh việc phân tích tìm ra cái hay của ngôn từ, giá trị nghệ thuật
của thơ, việc bình thơ cũng đóng vai trò quan trọng trong giảng dạy thơ trữ
tình. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học mặc dù giáo viên là người
định hướng chỉ đạo hoạt động học, học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức
nhưng ta không nên bỏ qua việc bình thơ. Nhất là khi sử dụng bài giảng điện
tử, giáo viên thiên về trình chiếu mà quên bước bình thơ cho học sinh, đây là
một thiếu sót lớn trong quá trình giảng văn bởi bình giảng giúp các em hiểu
sâu sắc hơn về tác phẩm. Giáo viên bình hay còn tạo sự chú ý, thu hút người
học (học sinh rất thích những lời diễn giảng hay). Công việc bình giảng nên
xen kẽ trong quá trình phân tích tìm hiểu yếu tố nghệ thuật thì bài dạy sẽ hay
hơn, đạt hiệu quả hơn.
Thao tác bình giảng trên lớp tỏ ra có ưu thế hơn so với phương pháp
phân tích, diễn giảng theo lối truyền thống. Trước kia, giáo viên thường phải
“làm thay” việc cảm thụ tác phẩm cho học sinh, cách dạy ấy không tránh khỏi
những áp đặt mà học sinh cũng không dám phát biểu tranh luận với giáo viên.
Còn dạy theo phương pháp bình giảng, cần phải tạo môi trường thân thiện,
hướng học sinh cùng tham gia cảm thụ tác phẩm theo định hướng và những
gợi ý từ giáo viên. Giáo viên cần xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng bình
giảng, bám sát những đặc trưng thể loại của tác phẩm. Trong khâu này, giáo
viên cần khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu suy nghĩ riêng của bản
thân. Quá trình bình giảng, giáo viên cần chọn lọc những ý thơ, đoạn thơ,
chọn lọc được những từ ngữ, hình ảnh đắt giá, đúng trọng tâm để bình thật
trúng ý, vừa mang tính bao quát vừa thể hiện chiều sâu trong bài giảng.
Trên đây là một số biện pháp, cách tiến hành dạy một bài thơ trữ tình
hiên đại trong nhà trường THCS. Trong quá trình giảng dạy thơ trữ tình trên

lớp, giáo viên là người chủ đạo, người truyền thụ kiến thức, người hướng dẫn,
gợi ý để học sinh tìm hiểu, khám phá, tiếp cận tác phẩm với nhiều biện pháp
khác nhau với mục đích để học sinh hiểu được các giá trị nội dung và hình
thức nghệ thuật của tác phẩm. Giáo viên phải chủ đạo, định hướng cho học
sinh tìm hiểu, phân tích tác phẩm, nhưng nhiều khi phải khuyến khích các em
tinh thần phản biện, tìm tòi, phát hiện những cái đẹp, cái hay (và cả cái khiếm
khuyết) của tác giả trong tác phẩm; nghĩa là phải phát huy tinh thần “dân chủ”
trong giờ học, song cũng tránh để việc học sinh có thể sa đà vào những điều
lệch lạc, không trọng tâm. Đồng thời, giáo viên phải sử dụng linh hoạt các
hình thức dạy học: khi thì phát vấn; khi thì phân tích, tổng hợp; khi thì diễn
giảng; có khi còn tạo ra những “khoảng lặng nghệ thuật” để học trò thẩm thấu
tác phẩm.
IV- VẬN DỤNG QUA BÀI “BẾP LỬA” CỦA BẰNG VIỆT
1. Tìm hiểu tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thơ.
Đối với bài thơ “ Bếp lửa”, việc hướng dẫn học sinh hiểu kỹ hoàn cảnh
12
ra đời của bài thơ là cần thiết, bởi hoàn cảnh đó ảnh hưởng tới tư tưởng, tình
cảm của nhà thơ khi sáng tác bài thơ.
Ngoài những thông tin trong sách giáo khoa về tác giả, hoàn cảnh ra
đời của bài thơ, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh biết thêm về những
thông tin sau:
- Bài thơ "Bếp lửa" được viết năm 1963, lúc nhà thơ Bằng Việt đang
học năm thứ hai tại Đại hoc Tổng hợp quốc gia Kiev (Ukraina, hồi đó còn
thuộc Liên Xô). Nhà thơ Bằng Việt kể lại. “Những năm đầu theo học Luật tại
đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng
sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi
nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dậy sớm đi học, tôi hay nhớ đến
khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm
nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà”. Trong hoàn cảnh đó nhà thơ
Bằng Việt đột nhiên nhớ lại thói quen bao nhiêu năm ấy của bà, những kỷ

niệm ấu thơ như một cuốn phim cứ lần lần hiện lại…Nhà thơ Bằng Việt thú
nhận: “Tôi chẳng nhớ được gì ngoài tiếng hú còi tàu và tiếng chim tu hú kêu
khăc khoải. Rồi lại cũng tiếng chim tu hú ấy vẫn kêu suốt những mùa vài chín
dọc những triền sông dọc những bờ đê của cả vùng quê tôi, những năm tôi ở
cùng bà”.
- Bài thơ như một câu chuyện thật về những nhân vật có thật.
Nhà thơ kể “Bố mẹ tôi ở trong Huế 18 năm và sinh tôi trong ấy. Sau khi cách
mạng nổ ra cả nhà chuyển ra Bắc, tản cư về một vùng quê ở chân núi Ba Vì –
Hà Tây. Sau khi cách mạng thành công bố tôi chưa có việc gì làm cho dù ông
là một trí thức ngành luật. May sao trong lúc khó khăn đó bác tôi có cỗ xe
ngựa chuyên chạy tuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội nên bố tôi
nhận lời mời của bác đi phụ xe kiếm tiền nuôi gia đình. Những năm đói 1945
– 1946 ấy người còn đói nữa huống hồ ngựa nên chuyện tôi nói trong thơ “Bố
đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” không có gì là sai hay cường điệu hoàn cảnh
cả”.
Ngoài việc giới thiệu thêm về hoàn cảnh ra đời bài thơ, giáo viên cung
cấp cho học sinh những tư liệu quý, những hình ảnh về tác giả, bà…bằng
những phương tiện dạy học, như máy chiếu, tranh ảnh…
Với bước làm đó, học sinh sẽ hiểu đúng về tác giả và đánh giá đúng
được giá trị của bài thơ.
2. Đọc và quan sát bước đầu để hiểu bài thơ.
Bài thơ “ Bếp lửa” là một bài thơ hay, khi đọc giáo viên cần lưu ý học
sinh đọc đúng và diễn cảm từng câu, từng hình ảnh, từng nhịp điệu trong bài
thơ. Bài thơ vừa kể, vừa tả với giọng thủ thỉ tâm tình nên đọc chậm và lắng
đọng để thể hiện đúng cung bậc tình cảm xúc động và bồi hồi của nhà thơ.
Giáo viên cần đọc mẫu một số đoạn và hướng dẫn cách đọc diễn cảm
cho học sinh. Từ việc đọc để học sinh bước đầu hiểu nội dung của bài thơ và
xác định được cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Ví dụ:-Ba câu thơ đầu đọc chậm, nhấn mạnh ở các hình ảnh “chờn vờn”
13

“ấp iu”…
- Đoạn kể về kỷ niệm tuổi thơ sống với bà đọc với giọng thủ
thỉ, tâm tình.
- Khi nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời bà đọc chậm thể hiện sự
lắng đọng đặc biệt nhấn mạnh những từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần
trong đoạn thơ.
3. Phân tích tiêu đề bài thơ.
Để giúp học sinh tìm hiểu tiêu đề bài thơ, giáo viên nêu câu hỏi:
?Nhan đề bài thơ có ý nghĩa như thế nào?
Học sinh sẽ thảo luận và đưa ra những ý kiến khác nhau về ý nghĩa
nhan đề của bài thơ. Giáo viên tổng hợp ý kiến của học sinh và khái quát lại
một số ý sau:
- Bếp lửa là một hình ảnh quen thuộc, bình dị, gắn với cuộc sống của
mỗi gia đình.
- Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu của
người cháu với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.
- “Bếp lửa” hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho tình bà cháu thiêng liêng,
sâu nặng; biểu tượng của hơi ấm tình người, sự yêu thương, sẻ chia, tình yêu
con người và cuộc sống. Bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn
sưởi ấm một đời người.
4. Xác định chủ đề bài thơ.
Để tìm hiểu chủ đề của bài thơ “Bếp lửa”, giáo viên cần cho học sinh
đọc kỹ tác phẩm, sau đó hướng dẫn học sinh tìm hiểu tư tưởng chủ đạo của
bài thơ bằng câu hỏi sau:
Bài thơ viết về nội dung gì? Nhà thơ muốn thể hiện tư tưởng, tình
cảm gì trong bài thơ?
Bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa - hình ảnh người bà vừa thiêng liêng
vừa cao đẹp, thể hiện tình cảm bà cháu thật sâu đậm. Qua đó để nhà thơ thể
hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn đối với với bà. Khơi gợi trong lòng
chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, quê hương, đất nước, với

những người đã tô màu cho tuổi thơ trong sáng của ta.
5. Xác định hình tượng thơ
Hình tượng thơ trong bài “Bếp lửa” là cặp hình tượng sóng đôi: Cháu
- Bà, trong đó Bà là trung tâm. Nhưng để làm nổi bật ấn tượng sâu nặng về
bà, thi sĩ còn khai triển một tương quan đa dạng với nhiều hình tượng khác.
Đó chính là Bếp lửa, hình tượng bếp lửa vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa
biểu tượng.
+ Hình tượng có ý nghĩa thực: Bếp lửa là một hình ảnh quen thuộc,
bình dị, gắn với cuộc sống của mỗi gia đình. Bếp lửa đã gắn với tuổi thơ của
Bằng Việt khi sống với bà.
+ Hình tượng có ý nghĩa biểu tượng: “Bếp lửa” hình ảnh biểu tượng về
người bà, người bà tần tảo, chắt chiu, chịu thương chịu khó. “Bếp lửa” là cái
cụ thể còn ngọn lửa là trìu tượng. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa, truyền lửa -
14
ngọn lửa của sự sống, của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. “Bếp lửa” biểu
tượng của hơi ấm tình người, sự yêu thương, sẻ chia, tình yêu con người và
cuộc sống.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi: ?Hình tượng trung tâm trong bài thơ là
hình tượng nào? Để làm nổi bật hình tượng trung tâm tác giả đã tập trung
miêu tả hình tượng nào?Ý nghĩa của hình tượng đó?
Vậy là, nhìn vào hình tượng thơ, có thể thấy một cấu trúc tinh vi và
sống động. Từ mối tương quan giữa Bếp lửa – Người bà, lòng thi sĩ lại sống
dậy một niềm thương cảm. Thế giới trữ tình của thi phẩm lại được làm giàu
lên. Cứ thế, tiếng nói tâm tình càng lúc càng được mở rộng thêm, sâu nặng
hơn, lan xa mãi.
6. Phân tích hình tượng của bài thơ
6.1. Phân tích nhân vật trữ tình (Chủ thể trữ tình)
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân biệt hai dạng có hai dạng thức
cơ bản về nhân trữ tình. Nhân vật trữ tình có khi đồng nhất với nhất với nhà
thơ cũng có khi không phải là nhà thơ. Có nghĩa là khi là hiện thân của tác giả

nhân vật ấy là cái tôi trữ tình và khi không đồng nhất với tác là chủ thể trữ
tình ẩn.
Giáo viên nêu câu hỏi: Bài thơ có những nhân vật nào? Nhân vật trữ
tình trong bài thơ là ai?
Bài thơ có 2 nhân vật: người cháu - người bà. Ở đây, nhân vật trữ tình
chính là người cháu và là hiện thân tác giả. Bếp lửa là lời tâm tình của đứa
cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà thân yêu ở quê nhà. Lời tâm
tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong
một nỗi nhớ thương vừa dâng trào vừa sâu lắng. Nhà thơ đã hóa thân vào
nhân vật chia sẻ với chúng ta về những kỷ niệm tuổi thơ gắn bó với bà, với
bếp lửa để thể hiện tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, suy tư về người bà.
Tình cảm ấy là nỗi nhớ da diết, tình cảm yêu thương kính trọng của
mình đối với bà. Cũng từ hình ảnh về người bà để nhà thơ gửi gắm tâm sự,
cảm xúc, suy nghĩ của mình về lẽ sống và con người được thể hiện trong tác
phẩm.
6.2. Phân tích hình tượng trữ tình
Giáo viên cần giúp học sinh đi phân tích sâu ngôn từ nghệ thuật như: từ
ngữ, hình ảnh, nhạc điệu trong bài thơ để giúp học sinh làm nổi bật được hình
tượng trữ tình trong bài thơ.
Ví dụ: Giáo viên có thể nêu câu hỏi
? Hình ảnh “Bếp lửa” ở đầu bài thơ gợi điều gì? Sự hồi tưởng về
Bếp lửa được thể hiện bằng những ngôn từ nào?
Giáo viên tập trung phân tích một số từ ngữ: chờn vờn; ấp iu; mấy nắng
mưa. Với ngôn từ chọn lọc này tác giả gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình
cảm chứa chan. Hình ảnh bếp lửa khơi gợi hình ảnh về người bà, Bếp lửa hiện
lên nồng nàn trong tình cảm, dạt dào trong cảm xúc.
? Những khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã dùng ngôn từ như thế nào để
15
nhớ về ký ức tuổi thơ sống bên bà và suy ngẫm về cuộc đời bà?
Bằng những ngôn từ nghệ thuật, mang tính biểu cảm cao và hàng loạt

những từ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu: “Khói hun nhèm mắt”; “sống mũi
còn cay”; “khô rạc ngựa gầy”; “tiếng tu hú”; và những điệp từ, điệp ngữ, hình
ảnh ẩn dụ; lời thơ giản dị như lời kể đã giúp cho người đọc là trở về những kỉ
niệm của những năm tháng sống với bà, với cuộc sống tủi cực đăng cay, vất
vả, khốn khó của bà cháu nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung.
Hoặc khi phân tích hình tượng người bà trong suy ngẫm của tác giả,
cần chú ý điệp từ “nhóm”, điệp từ nhóm được lặp lại nhiều lần trong bài thơ
có nhiều ý nghĩa.
- Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm sưởi ấm cho cháu qua cái lạnh của
sương sớm.
- Nhóm bếp lửa mang đến cái ngọt bùi của sắn khoai, tình yêu
thương vô hạn của bà.
- Nhóm bếp lửa để mang đến tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó.
- Nhóm dậy những ước mơ, tâm tình tuổi nhỏ.
Như vậy, “Bếp lửa” là tình bà ấm áp, “Bếp lửa” gắn với khó khăn gian
khổ đời bà… “Bếp lửa” được bà nhen lên không chỉ bằng nhiên liệu bên
ngoài mà còn chính là được nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà - ngọn lửa
của sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mãnh liệt.
6.3.Phân tích hình tượng ngôn ngữ
6.3.1. Phân tích vần, nhịp điệu, âm điệu
Trước hết giáo viên cần cho HS đọc, xác định cách gieo vần trong bài
thơ
? Vần trong bài thơ được gieo vần như thế nào? Vần gì? Gieo vần
ở đâu? Tác dụng cách gieo vần đó ?
Vần trong bài thơ “Bếp lửa” được sử dụng khá linh hoạt, nhưng thường
gieo vần chân và vần cặp đôi, kiểu gieo vần cặp đôi xuất hiện khi các câu thơ
kế tục nhau, giải thích, bổ sung cho nhau.
Ví dụ: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm…
Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi…
Hoặc cũng có khi gieo vần gián cách:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ có khói hun nhèm mắt cháu
Đến tận bây giờ sống mũi còn cay
Với những cách gieo vần đó đã góp phần tạo nhịp điệu, độ âm vang cho
các câu thơ, nó mang giá trị nghệ thuật và giá trị biểu cảm cao.
Cùng với phân tích vần, giáo viên chú ý phân tích âm điệu, nhịp điệu
của bài thơ. Âm điệu được các tác giả sử dụng để nhấn mạnh hoặc không
nhấn mạnh một cái gì đó. Âm điệu có thể được tạo nên bằng điệp từ, từ láy
16
hay từ các câu thơ cắt dòng, từ các hình ảnh
Để dẫn dắt học sinh phân tích âm điệu của bài thơ, giáo viên có thể đặt
câu hỏi như sau:
?Bài thơ được sử dụng từ láy nào, những điệp từ nào? Hình ảnh nào
được lặp lại nhiều lần trong bài thơ?
?Phân tích giá trị nghệ thuật của các từ láy, điệp từ được sử dụng
trong bài thơ?
Với câu hỏi này, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích những từ láy,
điệp từ, điệp ngữ trong bài thơ: “chờn vờn”, “ấp iu”, “bếp lửa”, “một ngọn
lửa”, “nhóm”…
Bài thơ “Bếp lửa” là bài thơ cảm động, tình cảm dạt dào bài thơ đã tìm
đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp. Ấy là giọng nồng đượm của
lửa, ấy là nhịp bập bồng của lửa, giọng kể lể cứ tràn ra, dâng lên một ngày
một nồng nàn, ấm nóng…Bởi thế vai trò quan trọng của giáo viên là làm sao
để học sinh cảm nhận được nhịp điệu ấy, âm điệu, giọng điệu ấy. Nhịp điệu,
giọng điệu ấy có tác dụng để nhà thơ bộc lộ cảm xúc, tình cảm về một vấn đề
trong cuộc sống mỗi con người.
Chẳng hạn khi phân tích kỷ niệm tuổi thơ của người cháu gắn bó với

bà, giáo viên lưu ý phân tích hình ảnh “tu hú” được điệp lại ba lần:
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà…
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế…
Cách điệp này làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho
người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của
tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng
lâng lòng người cháu xa xứ.
Hoặc suốt dọc bài thơ, có mười lần xuất hiện hình ảnh “Bếp lửa”. Mỗi
lần bếp lửa xuất hiện là tác giả nhắc tới bà. Sự lặp ại ấy đã thể hiện âm điệu
những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi
biển xanh thẳm lòng bà. Qua đó nhà thơ muốn nhấn mạnh, Người bà đã là,
đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì
phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim
cháu.
Như vậy, với những từ láy, điệp từ ngữ, cách gieo vần, bài thơ được
viết với âm điệu tha thiết, sự nhớ thương trào dâng, đang tỏa ấm trong trái tim
nhà thơ. Âm hưởng bài thơ là sự hoà điệu giữa hai sắc điệu: kể lể (tự sự) nắm
vai trò tổ chức chung đối với toàn bài và cảm thương (trữ tình) thấm đượm
vào mỗi kỉ niệm, mỗi đoạn thơ. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể
hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm & giàu sức
liên tưởng, suy ngẫm.
6.3.2.Phân tích từ ngữ và biện pháp tu từ:
Bài thơ “ Bếp lửa” sử dụng khá nhiều biện pháp tu từ: Ẩn dụ, hoán dụ,
điệp từ, điệp ngữ…Giáo viên chọn lọc những biện pháp tiêu biểu để phân
17
tích. Khi phân tích giáo viên cho học sinh phát hiện, tìm ra những biện pháp
tu từ rồi phân tích tác dụng của biện pháp tu từ đó.
Ví dụ:
- Hình ảnh ẩn dụ được thể hiện đó là hình ảnh bếp lửa. Hình tượng bao

trùm bài thơ là “Bếp lửa” - một hình ảnh thực nhưng lại là một hình ảnh ẩn
dụ. Bếp lửa còn là ngọn lửa của tình yêu thương, đức hi sinh và niềm tin của
con người, cuộc đời mà bà đã nhóm hết lên trong lòng cháu. Sự sống của cháu
đã được nhen lên và giữ gìn cùng ngọn lửa ấy. Vì vậy trong nỗi nhớ của nhà
thơ, hình ảnh người bà bao giờ cũng hiện lên cùng bếp lửa.
- Hình ảnh hoán dụ: Hình ảnh “khoai sắn”, “nồi xôi”, “gạo mới”… gợi
ra tình cảm gắn bó với những gì giản dị, gần gũi của quê hương và tình làng
nghĩa xóm.
- Điệp từ “nhóm”: làm nổi bật sự tần tảo, đức hy sinh với những
công việc nhóm lửa hàng ngày và nhóm lên nét đẹp trong tâm hồn tuổi thơ
của cháu.
Như vậy, tác giả đă khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc,
cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức thuyết phục cao và những
liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài thơ. Ta cảm nhận được ở đây tấm
lòng biết ơn sâu nặng, sự nhớ nhung da diết, chân thành của nhà thơ đối với
người bà yêu dấu. Đặc biệt ta đă hiểu thêm được nguyên do vì sao tác giả lại
có tình thương yêu vô bờ đối với quê hương như vậy.
7. Bình giảng.
Bài thơ “Bếp lửa” có nhiều từ ngữ hay, hình ảnh đẹp, giáo viên cần
chọn lọc những ý thơ, đoạn thơ, chọn lọc được những từ ngữ, hình ảnh đắt giá
đúng trọng tâm để bình.
Ví dụ 1: Giáo viên chọn hình ảnh “ Đến tận bây giờ sống mũi còn
cay”
Giáo viên nêu câu hỏi: ?Hình ảnh khói cay thể hiện điều gì?
 Mùi khói từ những năm đầu đời vẫn còn nguyên trong ký ức chẳng
thể tiêu tan. Mùi khói của quá khứ làm cay sống mũi hiện tại hay là nhớ
thương từ hiện tại làm sống dậy ngọn khói quá khứ. Hình ảnh khói cay thể
hiện nỗi gian nan vất vả, đắm chìm trong khổ nghèo. Nhà thơ đã chọn được
một chi tiết thật hợp, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, nhấn lại dòng
kỷ niệm, xoáy sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả thể xác con người.

Ví dụ 2: ?Vì sao tác giả lại viết Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!
 Đó là lời thốt lên từ niềm trân trọng, biết ơn cũng là lời thốt lên khi
chợt nhận ra trong một vật đơn sơ, lại ẩn náu bao điều kì diệu. Bà đã chịu
đựng tất cả vất vả, khó khăn, hy sinh, mất mát. Kì lạ và thiêng liêng nhất là
tình yêu quê hương, xứ sở bắt đầu từ sự gắn bó với những gì đơn sơ, bình dị
và gần gũi nhất. Tình bà cháu gắn bó với lòng yêu nước thật thiêng liêng, cao
cả. Cháu lớn khôn trưởng thành trong đôi bàn tay nâng niu trong tấm lòng yêu
18
thương vô hạn của bà. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi
ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu. Vì vậy mà nhà thơ cảm
nhận hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc, kì diệu, thiêng liêng.
?Từ hình ảnh bếp lửa nhà thơ đã khái quát điều gì?
 Bếp lửa là tình bà ấm áp, Bếp lửa gắn với khó khăn gian khổ đời
bà… Bếp lửa được bà nhen lên không chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà còn
chính là được nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà - ngọn lửa của sức sống,
lòng yêu thương, niềm tin mãnh liệt. Và bà không chỉ là người nhóm lửa,
giữ lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các
thế hệ nối tiếp.
V- KẾT QUẢ
Trên đây là những vấn đề cơ bản tôi đã vận dụng vào giảng dạy bài thơ
“Bếp lửa”. Tuy nhiên khi giảng dạy thơ trữ tình không chỉ thực hiện khai thác
tác phẩm theo các bước trên mà cần biết vận dụng một cách linh hoạt, có sự
kết hợp sáng tạo các biện pháp dạy học truyền thống, với sự đổi mới phương
pháp dạy học. Quân tâm và chú ý phân tích hình tượng nghệ thuật với hình
tượng nghệ thuật ngôn từ để giờ dạy sinh động, có hiệu quả và kích thích
được sự hứng thú học tập của học sinh.
Mặc dù là một cán bộ quản lý, không chuyên sâu trong chuyên môn
như trước đây, nhưng tôi và giáo viên trường THCS Xi Măng đã thử nghiệm
trong năm học 2011-2012, qua kết quả khảo sát bước đầu đã có hiệu quả.
KẾT QUẢ CỤ THỂ:

Năng lực cảm thụ và vận dụng của học sinh THCS Xi Măng
Lớp Năng lực cảm thụ Năng lực vận dụng
9A 8 - 25% 20 – 62,5%
9B 3– 9%% 10- 30,3%
Kết quả giảng học của học sinh trường THCS Xi Măng
( Khảo sát bài kiểm tra học sinh)
Giỏi Khá TB Yếu, kém
Lớp 9A 8 – 25% 20 – 62,4% 7 - 22% 0
Lớp 9B 3- 9,0% 10 – 30,3% 19 -57, 6% 2 - 6,0%
VI- ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ:
- Đối với Phòng GD&ĐT: Tăng cường công tác chỉ đạo tổ chức các
chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn, để nâng cao chất
lượng giảng dạy bộ môn.
- Đối với Sở GD&ĐT:
Chỉ đạo sát sao việc thực hiện các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy
học bộ môn. Tổ chức các Hội thảo về chuyên đề về phương pháp dạy học Văn
trong nhà trường Phổ thông

19
C - KẾT LUẬN
Tiếp cận tác phẩm theo loại thể vẫn là một hướng nghiên cứu đã và
đang được chú ý, có hiệu quả cao trong nghiên cứu văn học. Dạy học tác
phẩm văn chương nói chung và thơ trữ tình nói riêng trong nhà trường theo
loại thể cũng vậy, nó đòi hỏi những nỗ lực, cố gắng, sự thẳng thắn, trung thực
trong khoa học. Thơ trữ tình được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn THCS với những bài được chọn lọc, tiêu biểu giúp học sinh không những
được tiếp xúc với những thành tựu rực rỡ nhất của nền văn học Việt Nam hiện
đại, mà còn bồi dưỡng các em về tâm hồn, khả năng thẩm mỹ, những cái đẹp
trong cuộc sống.
Dù là thơ hay văn cũng đặt ra những khó khăn thử thách cho người học

và người dạy. Người học phải tích cực chủ động tìm hiểu kiến thức, tìm hiểu
tác phẩm trữ tình, cảm nhận và tự bồi dưỡng năng lực cảm thụ, vận dụng cho
bản thân.
Người dạy cần phải nghiên cứu công phu tìm cho mình những phương
pháp dạy phù hợp để nâng cao hiệu quả. Không chỉ có thế người dạy cũng
phải bồi dưỡng cho học sinh năng lực văn học nhằm giúp học sinh có thể từ
các bài đã học trong chương trình mà hiểu được các tác phẩm văn học, các
vấn đề văn học chưa được đề cập đến, khi không có thầy hoặc người hướng
dẫn bên cạnh. Hiện nay có hiện tượng rất nhiều học sinh chỉ có thể nhắc lại
kiến thức đã được thầy truyền đạt trên lớp chứ không vận dụng được kiến
thức ấy để cảm hiểu, phân tích các tác phẩm khác, các phần khác trong tác
phẩm chưa được trực tiếp truyền đạt. Thầy chỉ bày sẵn kiến thức cho HS chứ
không hướng dẫn HS tự đi trên con đường đến với kiến thức, nghĩa là thầy chỉ
“đưa cá chứ không đưa cần câu” mà ai cũng biết rằng cho chiếc cần thì quan
trọng hơn là cho con cá vì với chiếc cần người ta có thể cho tự câu được nhiều
con cá khác.
Không chỉ có thế mà giáo viên cũng cần bồi dưỡng cho mình năng lực
cảm thụ, bình giảng thơ. Người giáo viên dạy văn vừa là nhà khoa học vừa
nhà sư phạm, nhà nghệ sĩ (trong đó nhà sư phạm là nhóm trưởng), 3 nhà đó
cần làm việc với nhau và quyết định cách dạy từng bài tương ứng với từng đối
tượng lớp
Tóm lại, trong việc đổi mới dạy và học văn ở trường THCS hiện nay
cần có một tư duy giảng dạy toàn diện: Dạy văn là trau dồi năng lực văn học
cho HS chứ không phải chỉ là cung cấp sự hiểu về một số bài văn trong
chương trình. Muốn thế phải giải quyết mối quan hệ giữa người dạy - văn bản
- người học, cụ thể là: người dạy phải đưa người học vào văn bản bằng cách
20
gợi mở cho HS tự khám phá văn bản và qua đó trau dồi năng lực văn học cho
học trò.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã đã và đang áp dụng đối với bản

thân và đối với giáo viên Ngữ văn trường THCS Xi Măng trong việc giảng
dạy các văn bản thơ trữ tình trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới.
Việc giảng dạy này bước đầu đã thu được kết quả khả quan. Hi vọng rằng,
kinh nghiệm nhỏ có thể góp phần nhỏ vào việc tìm ra cách dạy học thơ trữ tình
nói riêng, dạy học văn nói chung, một môn học vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính nghệ thuật trong nhà trường. Tuy nhiên kinh nghiệm còn nhiều
thiếu sót. Rất mong những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp tôi hoàn
thiện hơn.
Đông Sơn, Ngày 24 tháng 4 năm 2012
Người thực hiện
Lê Thị Liên
21

×