Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận môn tài chính công TRÁI PHIẾU CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.8 KB, 14 trang )

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁI
PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG (TPCQĐP)
1.1. Khái niệm trái phiếu:
Trái phiếu là một hợp đồng nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành
(Chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay đảm bảo một sự chi trả lợi tức
định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên
giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu.
1.2. Phân loại trái phiếu
Căn cứ theo chủ thể phát hành, trái phiếu gồm 3 loại:
- Trái phiếu chính phủ ( TPCP): do ngân sách chính quyền trung ương hay
địa phương phát hành nhằm mục đích bù đắp các khoản chi đầu tư của
Ngân sách Nhà nước, quản lý lạm phát, hoặc tài trợ cho các công trình,
các dự án của Nhà nước
- Trái phiếu chính quyền địa phương ( TPCQĐP): là loại trái phiếu đầu tư
có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do chính quyền địa phương ủy quyền cho
Kho bạc hoặc các pháp nhân do chính quyền địa phương lập ra, phát
hành với mục đích huy độn vốn để đầu tư xây dựng các công trình mang
tính công cộng như đường xá, bến cảng, trường học, bệnh viện…
- Trái phiếu doanh nghiệp: do các doanh nghiệp phát hành ( có đủ điều
kiện của Ủy ban chứng khoán) nhằm mục đích đầu tư dài hạn cho doanh
nghiệp, mở rộng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh.
1.3. Đặc điểm của TPCQĐP:
TPCQĐP là công cụ nợ của chính quyền địa phương. Trái phiếu này có tính
linh hoạt, tính khả mại cao và thường được kinh doanh rộng rãi trên thị trường
phi tập trung (OTC), phần lớn TPCQĐP là loại đa thời hạn và được niêm yết
1
theo lợi tức chứ không theo đơn vị tiền tệ. Giá của trái phiếu sẽ biến động
thường xuyên theo giá chứng khoán; trái phiếu chính quyền địa phương được
phát hành dưới dạng vô danh, kèm theo phiếu lãi suất hoặc dưới dạng ký danh


(trái phiếu có ghi tên người sở hữu trái phiếu). Những trái phiếu chính quyền
địa phương cũng có thể phát hành dưới dạng đăng ký gốc và kèm phiếu lãi suất,
nghĩa là chứng chỉ trái phiếu có ghi tên chủ sở hữu trái phiếu, phần lãi suất tách
khỏi phần gốc và người sở hữu trái phiếu chỉ cần xuất trình phiếu lãi suất để
thanh toán tiền lãi.
1.4. Vai trò của TPCQĐP đối với chính sách của chính quyền địa phương
và Trung ương
1.4.1. Đối với chính sách của chính quyền địa phương
Nguồn vốn đầu tư dành cho phát triển cơ sở hạ tầng luôn là một sức ép
đối với chính quyền địa phương, nhất là các đô thị lớn có tốc độ đô thị hóa
nhanh chóng. Để giải tỏa sức ép này, công cụ hiệu quả để chính quyền địa
phương thu hút vốn rải rác trong dân cư tập hợp lại thành khối lượng vốn lớn
phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng, hoặc các công trình phúc lợi công cộng.
Ngoài ra, thực hiện việc vay nợ trên thị trường vốn thông qua việc phát hành
trái phiếu còn đòi hỏi chính quyền địa phương phải minh bạch, công khai, có
trách nhiệm trong việc phân bổ, sử dụng nguồn vốn và còn phải chịu sự giám
sát chặt chẽ từ công chúng và nhà đầu tư. Thông qua hoạt động của thị trường
trái phiếu địa phương, công chúng sẽ có được thông tin nhiều hơn về tình hình
tài chính địa phương. Tạo điều kiện để chính quyền địa phương hoạt động hiệu
quả, tự chủ trong việc phân bổ nguồn vốn hợp lý và không còn phụ thuộc quá
nhiều vào ngân sách Trung ương.
1.4.2. Đối với chính sách của Trung ương
Khi chính quyền địa phương đã tự chủ được nguồn vốn ngân sách, thì
ngân sách Trung ương sẽ giảm được áp lực chi tiêu hỗ trợ cho chính quyền địa
phương. Từ đó sẽ cải thiện được cán cân thu, chi ngân sách Trung ương, giảm
bội chi ngân sách hằng năm do phải bù đắp những khoản chi ngoài dự kiến.
2
Ngoài ra, một khi chính quyền địa phương tự chủ được nguồn vốn ngân sách
hằng năm thì Trung ương cũng sẽ hạn chế được nguồn vay nợ từ nước ngoài,
cơ chế xin - cho sẽ được xóa đi; việc giảm bớt được vay nợ và viện trợ từ nước

ngoài sẽ góp phần nâng cao hệ số tín nhiệm của quốc gia, đây là cơ sở quan
trọng nhất để tiếp cận thị trường vốn quốc tế khi cần thiết.
3
Chương 2:
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT
HÀNH TRÁI PHIẾU CHÍNH QUYỀN
ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Một số quy định về việc phát hành TPCQĐP
2.1.1. Điều kiện phát hành:
• Địa phương phải có công trình, dự án thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch
đầu tư 05 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
• Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn
trả nợ vay khi đến hạn được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng trình Hội
đồng nhân dân thông qua và được Bộ trưởng Bộ Tài chính chấp thuận bằng
văn bản.
• Có quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho Kho bạc
Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát
hành, thanh toán trái phiếu.
2.1.2. Tổ chức phát hành:
Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng trên địa bàn do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh ủy quyền.
2.1.3. Mục đích sử dụng vốn:
Tài trợ cho các dự án, công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách địa
phương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm.
2.1.4. Phương thức phát hành: có 3 phương thức
• Đấu thầu
• Bảo lãnh phát hành
• Đại lý phát hành.
4
2.1.5. Giới hạn tổng số phát hành

Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ
bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh. Đối với Thủ đô Hà Nội và thành
phố Hồ chí Minh thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ.
2.2. Thực trạng
Có thể chia việc phát hành TPCQĐP tại Việt Nam thành 2 giai đoạn như sau:
2.2.1. Giai đoạn trước năm 2003:
Từ năm 1991 đến năm 2003, cơ chế phân cấp của ngân sách trong giai đoạn
này còn mang nạng tính tập trung, phần lớn nguồn thu các dự án đầu tư đều do
ngân sách Trung ương thực hiện. Vì vậy, chỉ có một số địa phương vận dụng
nội dung các văn bản pháp lý về phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu công
trình để đầu tư cho các công trình địa phương. Những trái phiếu này được đảm
bảo thanh toán bằng nguồn ngân sách địa phương.
Năm 1995, triển khai Nghị định 72/CP của Chính phủ, Bộ Tài chính hướng
dẫn Ủy ban Nhân dân các tỉnh xây dựng đề án huy động vốn cho các dự án đầu
tư trọng điểm của địa phương về phát triển kinh tế xã hội. Ủy ban Nhân dân các
tỉnh như: Bình Thuận, Tiền Giang, Cà Mau, Lào Cai… đã triển khai kế hoạch
đầu tư các công trình thuộc hạ tầng kinh tế xã hội.
TP.HCM là địa phương đi đầu trong việc phát hành TPCQĐP. Năm 1995,
Ủy ban Nhân dân TP.HCM đề xuất Bộ Tài chính cho phép phát hành trái phiếu
đô thị (mang tính thí điểm) để tài trợ cho dự án đường Nguyễn Tất Thành.
Tổng vốn đầu tư của dự án là 41,8 tỷ đồng, trong đó 30 tỷ đồng được huy động
dưới hình thức trái phiếu đô thị. Trái phiếu có lãi suất 15%/năm, kỳ hạn 3 năm
và được bảo đảm bằng ngân sách của thành phố. Vào thời điểm phát hành, trái
phiếu được xem là không hấp dẫn do lãi suất tiền gửi ngân hàng lúc đó ở vào
mức 21%/năm. Mặc dù vậy, lạm phát sau đó đã giảm, kéo lãi suất thị trường
giảm xuống theo. Những nhà đầu tư vào trái phiếu (chủ yếu là ngân hàng và
một số doanh nghiệp nhà nước) thực ra lại thu được lợi lớn. Dự án đường
5
Nguyễn Tất Thành cũng thành công trong việc thu phí, từ đó đảm bảo hoàn trả
lãi và nợ gốc trái phiếu đúng hạn.

Cũng trong giai đoạn này, Bộ Tài chính đã thực hiện một số đợt huy động
vốn cho các công trình thông qua việc phát hành trái phiếu như: trái phiếu khu
đô thị mới Linh Đàm (42 tỷ), khu đô thị mới Định Công (50 tỷ), đô thị mới Chí
Linh (71 tỷ), xi măng Bút Sơn (122 tỷ) và một số trái phiếu công trình của các
địa phương khác như Tiền Giang, Bình Thuận, Khánh Hòa…Nhìn chung thị
trường TPCQĐP ở giai đoạn này còn sơ khai, quy mô thị trường còn nhỏ và tốc
độ tăng trưởng tương đối chậm.
2.2.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay:
Đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế cùng với tiến trình đô thị hóa, nhu cầu
đầu tư và phát triển rất lớn và cấp bách nhưng nguồn vốn từ ngân sách Nhà
nước luôn không đủ đáp ứng, đặc biệt đối với các dự án phát triển hạ tầng cơ sở
của các tỉnh và thành phố nhu cầu vốn đầu tư rất lớn. Do đó, một số tỉnh và
thành phố có điều kiện về tiềm lực kinh tế đã tiến hành phát hành trái phiếu huy
động vốn tài trợ cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng. Trong 2003, Thành phố
Hồ Chí Minh là đơn vị tiên phong trong việc phát hành TPCQĐP, với việc ủy
thác cho Quỹ đầu tư phát triển đô thị Thành phố (HIFU) phát hành trái phiếu đô
thị với các kỳ hạn 2 năm và 5 năm nhằm bổ sung vốn cho đầu tư phát triển hạ
tầng theo kế hoạch hằng năm của ngân sách thành phố với đối tượng mua là các
công ty bảo hiểm, các NHTM, Quỹ đầu tư như Dragon Capital, Vina Capital,
công ty tài chính và được giao dịch trên TTGDCK TP.HCM (HOSE). Để thu
hút các nhà đầu tư, lãi suất của trái phiếu này được quy định là cao hơn nhưng
không vượt quá 0,2% so với lãi suất TPCP trong cùng thời kỳ. Với 2000 tỷ
đồng được phát hành trong năm 2003, 1400 tỷ đồng phát hành trong năm 2004
có thể nói việc phát hành trái phiếu đô thị đã phần nào thành công so với kế
hoạch đặt ra là phải thu hút mỗi năm 2000 tỷ đồng trong giai đoạn 2003-2005
cho ngân sách thành phố.
6
Năm 2005, UBND TP Hà Nội lần đầu tiên đã thực hiện phát hành trái phiếu
Xây dựng Thủ đô để huy động vốn cho đầu tư phát triển được 1.092 tỷ đồng
đầu tư xây dựng công trình Cầu Vĩnh Tuy. Năm 2006, Hà Nội cũng đã có kế

hoạch huy động 1.000 tỉ đồng từ phát hành trái phiếu đến hết quý I/2007 để đầu
tư công trình đường 5 kéo dài này. Cũng trong năm này Đồng Nai phát hành
trái phiếu để huy động vốn cho công trình xây dựng hồ chứa nước Cầu Mới.
Các địa phương đã huy động được một khối lượng vốn lớn cho ngân sách
thông qua phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay, có hai địa
phương tiêu biểu là TP.HCM và Hà Nội phát hành trái phiếu với tổng mệnh giá
khoảng 10.000 tỷ đồng niêm yết tại các TTGDCK (TPHCM: 8.500 tỷ đồng và
Hà Nội: 1.500 tỷ đồng), các địa phương khác quy mô huy động còn rất hạn chế.
Năm 2006, 245 tỷ trái phiếu đô thị tiếp tục được phát hành thông qua Quỹ
Đầu tư Phát triển Đô thị TP.HCM, một tổ chức tài chính thuộc Ủy ban Nhân
dân Thành phố. Trái phiếu có mệnh giá 100.000 VNĐ, kỳ hạn 10 năm và đáo
hạn vào 10/8/2016. Lãi suất của trái phiếu là 9,25%/năm; lãi được trả sau, 1 lần
trong năm vào 10 tháng 8. Sau ngày phát hành 10/8/2006, trái phiếu được niêm
yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM với mã số HCMA0506.
Bảng 1: Tình hình phát hành trái phiếu đô thị TP.HCM 2003-2007
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm 2năm 5 năm 10 năm 15 năm
Giá
trị
Lãi
suất
(%)
Giá trị
Lãi
suất
(%)
Giá
trị
Lãi
suất

(%)
Giá trị
Lãi suất
( %)
2003 200 8.52 1.800 9 2.000
2004 1.600 8,5-8,7 400 9 2.000
2005 1.185 9-9,05 965 9,55 2.150
2006 850 8,8-9,05 525
9,15-
9,25
625 9,25-9,55 2.000
2007 466 8,5 466
Tổng 200 5.716 925 1.590 8.431
(Nguồn: Quỹ đầu tư và phát triển đô thị TP.HCM)
7
2.3. Hạn chế trong hoạt động phát hành TPCQĐP
Việc phát hành trái phiếu đô thị vẫn còn một số hạn chế tồn tại cần phải
khác phục như sau:
- Tư tưởng lệ thuộc và ỷ lại của chính quyền địa phương vào nguồn trợ cấp
từ Ngân sách trung ương còn tương đối lớn. Nhiều địa phương chưa chủ
động đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư và chưa nhận thức
được vai trò , hiệu quả của việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu.
- Quy mô thị trường phát hành TPCQĐP còn quá nhỏ, vốn huy động còn
hạn chế chưa đáp được nhu cầu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đô
thị. Mặc dù, Luật NSNN cho phép các địa phương huy động vốn đầu tư
các công trình cơ sở hạ tầng, tuy nhiên các địa phương vẫn chưa mạnh
dạn lựa chọn phương thức này. Tính đến cuối năm 2007, chỉ mới có 2 địa
phương thực sự chủ động thực hiện phát hành trái phiếu để huy động vốn
đầu tư cho ngân sách là Hà Nội và TP.HCM. Điều này xuất phát từ
những nguyên nhân cơ bản sau:

• Quy trình, thủ tục lập phương án phát hành còn quá nhiều phức tạp: dựa
trên nhu cầu vốn đầu tư trong năm, cơ quan tài chính địa phương lập
phương án huy động trình Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố xét duyệt.
Tuy nhiên, khâu báo cáo và giải trình với Bộ Tài chính rất phức tạp.
• Phân cấp nguồn tài chính cho ngân sách địa phương còn hạn chế, chưa
tạo được cơ sở đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách địa phương
chủ động cân đối trả nợ.
• Nền kinh tế tuy đạt tăng trưởng khá, nhưng nước ta vẫn là nước có nền
kinh tế chưa phát triển, thu nhập bình quân đầu người và tỷ trọng nguồn
vốn tiết kiệm để đầu tư còn thấp. Chính các yếu tố này đã làm hạn chế
khả năng huy động vốn và mở rộng quy mô của thị trương TPCQĐP.
- Cũng như trái phiếu chính phủ, công tác lập kế hoạch phát hành
TPCQĐP vẫn chưa tốt, do đó hiệu quả phát hành không cao. Công tác kế
hoạch hóa kế hoạch huy động vốn còn chưa được quan tâm đúng mức.
8
Chỉ mới xây dựng kế hoạch hàng năm, các địa phương chưa có chiến
lược tổng thể về huy động vốn thông qua phát hành trong khoảng thời
gian dài 5-10 năm, trong khi đã phát hành loại trái phiếu có kỳ hạn 15
năm. Việc xây dựng kế hoạch phát hành trái phiếu mang tính thụ động,
chủ yếu dựa vào nhu cầu chi tiêu và dự toán Ngân sách đã được thông
qua. Quy trình lập dự toán ngân sách hiện nay vẫn còn theo mô hình cũ,
dựa trên cơ sở nguồn tài chính huy động đầu vào từ đó xác định đầu ra.
- Cơ chế phát hành còn nhiều bất cập:
• Về lãi suất đấu thầu: thời gian qua lãi suất đấu thầu trái phiếu
chính phủ do Bộ Tài chính đưa ra còn phần nào mang tính chủ
quan, chưa căn cứ vào tình hình biến động của nền kinh tế, cũng
như việc quy định về biện độ dao động giữa trái phiếu chính phủ
và trái phiếu đô thị còn cứng nhắc. Ví dụ như tình hình đấu thầu
trái phiếu đô thị TP.HCM năm 2007, rất nhiều phiên không thực
hiện được, phải áp dụng phương thức bảo lãnh phát hành.

• Hình thức trái phiếu chưa thật sự phong phú, chủ yếu là dạng
chứng chỉ có ghi hoặc không ghi tên, lãi suất cố định. Phương thức
trả lãi phổ biến là hàng năm, định kỳ 6 tháng đối với trái phiếu đô
thị TP.HCM.
- Quy mô phát hành trái phiếu công trình đô thị còn hạn chế. Hiện nay,
TPCQĐP chỉ có loại trái phiếu được đảm bảo chi trả trực tiếp bằng
nguồn ngân sách, chưa có loại trái phiếu được đảm bảo chi trả bằng
nguồn thu nhập trực tiếp từ công trình đầu tư công. Điều này, xuất phát
từ nguyên nhân cơ bản là chưa có một cơ chế chính sách tài chính cụ thể
cho hoạt động huy động vốn đầu tư bằng phương thức phát hàng trái
phiếu cho các doanh nghiệp công ích địa phương.
- Các tiêu chí phát hành không được quy định rõ ràng: mặc dù các đợt phát
hành trái phiếu được phê duyệt căn cứ theo năng lực của tổ chức phát
hành, nhưng lại không có một quy định rõ ràng về tiêu chí để xác định
9
năng lực trong các văn bản pháp luật. Do đó điều này đã khiến các nhà
phát hành và cơ quan phê duyệt tốn rất nhiều thời gian trong việc đàm
phán và vì thế, không khuyến khích các nhà phát hành tiềm năng huy
động vốn qua kênh phát hành trái phiếu.
- Chưa có tổ chức định mức tín nhiệm (CRA): TPCQĐP là trái phiếu
nghĩa vụ chung, nhưng quy định pháp luật mới chỉ chú trọng vào mục
đích sử dụng vốn, chứ chưa tập trung vào khả năng trả nợ vay.
10
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH
TPCQĐP TẠI VIỆT NAM
Trong điều kiện ở Việt Nam , để thị trường TPCQĐP trở thành một kênh
huy động vốn thực hiện các dự án đầu tư mở rộng và chỉnh trang các đô thị lớn,
cần có một số giải pháp sau:

3.1. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các địa phương phát hành trái
phiếu:
Bộ Tài Chính cần phải cụ thể hóa các tiêu chuẩn phê duyệt phát hành
TPCQĐP nhằm tạo điều kiện cho các địa phương ( đặc biệt là những nơi có
nguồn thu ngân sách lớn và ổn định, đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu để cân
đối ngân sách, giảm bớt áp lực từ ngân sách Trung ương. Tuy nhiên việc triển
khai cần có lộ trình, khoa học tránh tạo ra một phong trào nơi nơi phát hành
TPCQĐP như tình trạng phát triển nhà máy đường, nhà máy xi măng tại nhiều
tỉnh, thành trong thời gian qua.
Muốn thực hiện điều này trước hết cần hoàn thiện cơ chế pháp lý, sửa đổi
các nghị định và công khai hóa các thông tư hướng dẫn và các tiêu chuẩn để
được phép phát hành TPCQTP.
Và trong cơ chế phê duyệt phát hành, Bộ Tài Chính nên có lộ trình
chuyển dần từ phương thức phát hành dựa trên năng lực – đơn vị được phép
phát hành trái phiếu khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về công bố thông tin với
bất kỳ điều kiện thực trạng tài chính nào. Việc chuyển phương thức phê duyệt
phát hành này sẽ giúp cho trái phiếu được phát hành dễ dàng hơn và các nhà
đầu tư quyết định đầu tư dựa trên việc đánh giá khẩu vị và mức độ rủi ro. Vấn
đề cần lưu ý là các tổ chức tham gia thị trường tài chính sẽ phải có trình độ cao
11
trước khi chuyển sang khuôn khổ về phê duyệt dựa trên yêu cầu công bố thông
tin.
3.2. Điều chỉnh luật ngân sách theo hướng trao quyền chủ động cho các
địa phương:
Từng bước tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính
quyền địa phương trong việc thực hiện dự toán thu chi ngân sách và các mục
tiêu mà ngân sách địa phương phải đảm bảo. Trước mắt cần xem xét, mở rộng
phạm vi và giới hạn được phép huy động vốn của Chính quyền địa phương, đặc
biệt là các tỉnh, thành phố có nhu cầu đầu tư phát triển lớn và việc huy động
vốn phải quán triệt nguyên tắc chỉ huy động vốn cho nhà đầu tư phát triển. Với

cơ chế này, các địa phương sẽ chủ động và linh hoạt hơn trong việc tìm kiếm
nguồn vốn cho đầu tư phát triển, giảm bớt sự ỷ lại, trong chờ vào ngân sách
trung ương cũng như khai thông, tận dụng tốt các nguồn vốn tại chỗ.
3.3. Công khai hóa ngân sách chính quyền địa phương:
Các Chính quyền địa phương bên cạnh việc cần phải xây dựng các dự
án đầu tư hiệu quả, khả thi từ đó dễ dàng gọi vốn thông qua việc phát hành các
trái phiếu công trình còn cần phải thông tin công khai, minh bạch về ngân sách
địa phương, khả năng trả nợ của Chính quyền địa phương từ các dự án đầu tư
hiệu quả hay từ nguồn thu thuế… Những thông tin này phải được công bố công
khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để các nhà đầu tư có thế dễ dàng
tiếp cận, phân tích thông tin và quyết định đầu tư.
3.4. Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn:
Phải có kế hoạch khai thác và sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả và
hợp lý. Việc sử dụng vốn huy động đúng mục đích, có hiệu quả sẽ làm tăng độ
tín nhiệm của địa phương đối với người dân cũng như làm tăng độ an toàn, khả
năng hoàn trả nợ của địa phương đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Kết quả này kéo theo việc phát hành TPCQĐP sẽ dễ dàng hơn, khả năng được
chấp nhận sẽ cao hơn cũng như chi phí cho huy động sẽ giảm bớt khi chỉ số
niềm tin được nâng lên
12
3.5. Đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành TPCQĐP:
Như đã trình bày ở những phần trên, một trong những hạn chế hiện nay
của việc phát hành TPCQĐP đó là chưa đa dạng các loại kỳ hạn phát hành từ
đó đã làm hạn chế khả năng huy động của TPCQĐP khi kỳ hạn huy động chưa
tương thích được với nguồn vốn khả dụng trong dân cư vốn rất đa dạng và linh
họat về thời gian. Việc đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành không những giúp thu
hút tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi, khả dụng trong xã hội mà còn có mục đích
xây dựng nên đường cong lãi suất chuẩn làm cơ sở cho việc định giá các loại
hàng hóa trên thị trường tiền tệ.
3.6. Cơ chế điều hành lãi suất cần linh hoạt hơn và phù hợp với lãi suất thị

trường:
Gắn chặt lãi suất phát hành TPCQĐP với lãi suất thị trường, tránh dùng
các biện pháp hành chính để can thiệp thị trường phát hành. Phải xem lãi suất
TPCQĐP là lãi suất định hướng thị trường và do đó nó phải gắn liền với lãi suất
thị trường. Điều này thể hiện qua việc TPCQĐP có được phát hành theo đúng
nghĩa thị trường của nó đến với người mua trên cơ sở tự nguyện vì mục tiêu lợi
nhuận thay vì bị vận động, chỉ định mua nhằm đảm bảo kế hoạch phát hành.
3.7. Thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm:
Các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tài Chính, NHNN hay Hiệp hội
các nhà đầu tư chứng khoán nên xem xét và khuyến khích việc thành lập các tổ
chức định mức tín nhiệm (ĐMTN) trong nước cũng tạo điều kiện để thu hút các
tổ chức ĐMTN nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam. Với yếu tố khách
quan, tính chuyên nghiệp và những ràng buộc pháp lý liên quan, tổ chức
ĐMTN sẽ thực hiện việc phân tích và đưa ra ý kiến về mức độ rủi ro tín dụng
hay đánh giá về khả năng trả nợ gốc và lãi đúng hạn của đơn vị phát hành
chứng khoán. Các tổ chức ĐMTN không đưa ra cho nhà đầu tư một lời khuyên
nên mua hay bán một loại chứng khoán nào mà chỉ đơn giản đánh giá mức độ
rủi ro của loại chứng khoán đó, nhà đầu tư trên cơ sở nhận biết mức độ rủi ro sẽ
so sánh với mức lợi nhuận đem lại để quyết định có nên đầu tư hay không. Hoạt
13
động của các tổ chức ĐMTN do đó sẽ góp phần chuẩn hóa lãi suất của thị
trường trái phiếu trên cơ sở có sự so sánh rủi ro và lợi nhuận, cũng như tạo điều
kiện cho cách nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm hơn đến hoạt động của
thị trường trái phiếu.
14

×