Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Cảnh quan học ứng dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.32 KB, 31 trang )

Phan Văn Phú

CẢNH QUAN HỌC ỨNG DỤNG
Vấn đề 1. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu Cảnh quan ứng dụng 3
1.1. Nhiệm vụ nghiên cứu của Cảnh quan ứng dụng 3
1.1.1. Khái niệm Cảnh quan học ứng dụng 3
1.1.2. Nhiệm vụ của cảnh quan ứng dụng 3
1.2. Nội dung nghiên cứu cảnh quan ứng dụng 5
1.2.1. Đánh giá cảnh quan 5
1.2.2. Xây dựng các sơ đồ thể hiện hoạt động đánh giá và nội dung nghiên cứu của
cảnh quan ứng dụng 7
1.2.3. Giải quyết các mối quan hệ 8
Vấn đề 2. Các hướng nghiên cứu cảnh quan ứng dụng trên thế giới và ở Việt Nam11
2.1. Các hướng nghiên cứu cảnh quan học ứng dụng trên thế giới 11
2.1.1. Học thuyết cảnh quan và hệ sinh thái cảnh quan. Hướng cảnh quan ứng dụng
vào việc quản lí các hệ sinh thái dựa trên phân tích cấu trúc cảnh quan (Liên Xô cũ
và Đức) 11
2.1.2. Hướng ứng dụng thực nghiệm chủ yếu dựa trên hình thái (Mĩ và Úc) 12
2.1.3. Hướng phân kiểu cảnh quan cho mục đích sử dụng và quy hoạch dựa trên các
quá trình động lực phát sinh : địa mạo động lực và phát sinh thổ nhưỡng (Pháp) 13
2.1.4. Hướng sinh thái cảnh quan 13
2.2. Các cách tiếp cận nghiên cứu cảnh quan ở Việt Nam 14
2.2.1. Học thuyết cảnh quan 14
2.2.2. Hướng phân tích lưu vực trong quy hoạch sử dụng đất và quản lí tổng hợp lưu
vực sông 15
2.2.3. Hướng đánh giá đất đai trong sử dụng đất nông nghiệp (FAO) 15
2.2.4. Hướng nghiên cứu lập địa trong sử dụng đất lâm nghiệp (Đức) 15
2.2.5. Hướng ứng dụng các mô hình thực nghiệm 15
Vấn đề 3. Phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan ứng dụng. Quan điểm hệ thống
và quan điểm phát triển bền vững 16
3.1. Quan điểm (phương pháp luận) hệ thống trong nghiên cứu cảnh quan ứng


dụng 16
3.1.1. Quan điểm hệ thống và phương pháp tiếp cận hệ thống 16
3.1.1.1. Khái niệm hệ thống 16
3.1.1.2. Phương pháp luận hệ thống 17
3.1.1.3. Phương pháp tiếp cận hệ thống 17
3.1.2. Vận dụng quan điểm hệ thống và cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu
cảnh quan ứng dụng 18
3.1.2.1. Nhận thức đặc điểm của hệ địa sinh thái 18
3.1.2.2. Nhận thức đặc điểm của hệ địa kĩ thuật 19
3.1.3. Vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu cấu trúc 19
3.1.3.1. Xây dựng các mô hình sự vật 19
3.1.3.2. Xây dựng mô hình hình thái 19
3.1.3.3. Mô hình tư duy 20
3.1.4. Vận dụng lí thuyết hệ thống trong quy hoạch lãnh thổ 20
3.2. Quan điểm phát triển bền vững 21
Phan Văn Phú

Vấn đề 4. Phương pháp đánh giá tổng hợp môi trường tự nhiên phục vụ quy hoạch
lãnh thổ 23
4.1. Quá trình tiến hành đánh giá 23
4.1.1. Giai đoạn thu thập tư liệu 23
4.1.2. Giai đoạn xử lí tư liệu và chẩn đoán, đánh giá đối tượng 23
4.1.3. Giai đoạn đưa ra các phương án 24
4.1.4. Giai đoạn thực hiện phương án và điều chỉnh phương án 24
4.2. Phương pháp đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
phục vụ quy hoạch lãnh thổ - phương pháp chẩn đoán, đánh giá đối tượng 24
4.2.1. Một số điểm cần chú ý khi tiến hành đánh giá 24
4.2.2. Phương pháp đánh giá 25
4.2.2.1. Xác định mục đích, nhiệm vụ đánh giá 25
4.2.2.2. Lựa chọn đơn vị cơ sở để đánh giá 25

4.2.2.3. Xác định các chỉ tiêu đánh giá 26
4.2.2.4. Lựa chọn phương pháp kết hợp các chỉ tiêu đánh giá 26

Phan Văn Phú

Vấn đề 1. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu Cảnh quan ứng dụng

1.1. Nhiệm vụ nghiên cứu của Cảnh quan ứng dụng
1.1.1. Khái niệm Cảnh quan học ứng dụng
− Sự phát triển nhận thức về chức năng ứng dụng của địa lí học :
Sự phát triển của khoa học địa lí Chức năng ứng dụng
+ Giai đoạn đầu, khoa học địa lí có
nhiệm vụ khám phá để hiểu biết về
các vùng.
+ Cung cấp thông tin

+ Sự phát triển của địa lí tự nhiên (địa
lí bộ phận) : địa mạo học, khí hậu
học, địa chất học.
+ Địa mạo học ứng dụng, khí hậu học
ứng dụng.
+ Sự kết hợp các ngành địa lí bộ phận
 phân hoá địa quyển thành các thể
tổng hợp địa lí tự nhiên  ra đời
cảnh quan học. Cảnh quan học là
khoa học nghiên cứu về các địa tổng
thể.
+ Hướng ứng dụng tổng hợp, đánh
giá tiềm năng tự nhiên cho việc sử
dụng hợp lí tài nguyên tự nhiên và

phát triển kinh tế - xã hội  lập kế
hoạch quy hoạch tổng thể phát triển
KT-XH.
+ Sự kết hợp của địa lí học với các
ngành khác, hướng ứng dụng dân
sinh, kinh tế.
+ Địa lí ứng dụng, địa lí công trình,
địa lí cải tạo đất, địa lí y học, du
lịch,…
⇒ Tham gia quản lí tốt hơn mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Địa lí
học ứng dụng có 2 chức năng :
+ Cung cấp thông tin (bản đồ cảnh quan, tư liệu thống kê mô tả) để
phục vụ cho 1 mục đích hạn hẹp – 1 công trình cụ thể, rộng rãi
nhất là phục vụ sản xuất nông nghiệp  truyền thống.
+ Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
phục vụ quy hoạch, dự báo trước thực tiễn.
1.1.2. Nhiệm vụ của cảnh quan ứng dụng
− Nhiệm vụ chung :
Giải quyết tối ưu hoá mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa hệ
tự nhiên và hệ kinh tế - xã hội (hệ địa kĩ thuật), nhằm đạt hiệu quả kinh tế
Phan Văn Phú

cao, huy động nhiều tiềm năng tự nhiên, đảm bảo sự phát triển bền vững
(bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển xã hội). Giải quyết tối ưu hoá phải
thông qua việc tổ chức, xây dựng các cảnh quan văn hoá.
Khái niệm tối ưu hoá của Armand có 3 mặt :
+ Sử dụng hợp lí tài nguyên tự nhiên.
+ Điều chỉnh một cách có mục đích rõ rệt cấu trúc của hệ địa lí.
+ Bảo tồn các bộ phận trong hệ địa lí ấy.
Muốn vậy cần hiểu biết sâu sắc các hệ địa lí để có đánh giá đúng đắn

nhất, xác thực nhất các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, đề xuất
sử dụng hợp lí nhất cả về kinh tế, xã hội và môi trường, trên cơ sở đó lập
quy hoạch, dự báo sự biến đổi của môi trường tự nhiên  nhằm điều chỉnh
tác động.
− Nhiệm vụ cụ thể :
+ Tìm ra các hệ địa sinh thái thuận lợi nhất cho một công trình kinh
tế - kĩ thuật đã xác định.
+ Tìm ra công trình kinh tế - kĩ thuật phù hợp với một hệ địa sinh
thái đã xác định.
+ Nghiên cứu kĩ các vùng lãnh thổ ít được hiểu biết và xác định xem
ở đó nên phát triển những ngành kinh tế nào (điều tra cơ bản).
+ Hệ thống tự nhiên – kinh tế đã xác định, vấn đề là tạo ra các điều
kiện tốt nhất cho hệ thống đó hoạt động (tìm phương án).
− Quan hệ giữa cảnh quan ứng dụng với lập quy hoạch và tổ chức lãnh
thổ một khu vực :
Cách thức giải quyết tối ưu hoá mối quan hệ giữa con người và môi
trường là nội dung của khoa học quy hoạch và tổ chức lãnh thổ.

Cảnh quan ứng dụng
Đánh giá điều kiện tự nhiên
và tài nguyên thiên nhiên
Quy hoạch
Tổ chức lãnh thổ (liên vùng)
Định hướng và dự kiến phát
triển kinh tế từng vùng
Cơ sở
Phan Văn Phú

Quy hoạch là định hướng và dự kiến phát triển kinh tế từng vùng,
từng ngành và mối liên hệ giữa các ngành nhằm đưa ra bản đồ tổng hợp các

ngành để phát triển vùng.
Tổ chức lãnh thổ là sự phân bố tối ưu về người và các hoạt động vật
chất để tránh sự mất cân đối trên các vùng của nước ta. Nguyên tắc của tổ
chức lãnh thổ là sử dụng hợp lí cả tiềm năng tự nhiên và kinh tế - xã hội.
Nhiệm vụ của cảnh quan ứng dụng trong việc quy hoạch tổ chức lãnh
thổ là tìm ra phương pháp đánh giá đúng đắn nhất, xác thực nhất các tài
nguyên thiên nhiên, môi trường, đề xuất phương án sử dụng hợp lí các loại
tài nguyên đó – là giai đoạn đầu của 1 công trình nghiên cứu.
1.2. Nội dung nghiên cứu cảnh quan ứng dụng
1.2.1. Đánh giá cảnh quan
− Đối tượng và bản chất của hoạt động đánh giá
Bản chất của hoạt động đánh giá cảnh quan là đánh giá tổng hợp các
tổng thể tự nhiên cho mục đích cụ thể nào đó, xem xét mối quan hệ giữa hệ
tự nhiên và kinh tế - xã hội.
Đối tượng của hoạt động đánh giá tổng hợp không phải là bản thân
các tổng thể tự nhiên (do các nhà tự nhiên nghiên cứu), cũng không phải là
bản thân các tổng thể sản xuất – xã hội (do các nhà kinh tế - xã hội nghiên
cứu), mà chính là “cơ chế quan hệ tương hỗ giữa các hệ thống tự nhiên và
các hệ thống kinh tế - xã hội”. Nếu coi kinh tế - xã hội là chủ thể (mục đích
phục vụ) và coi các điều kiện và tài nguyên tự nhiên là khách thể (là cơ sở
vật chất của sản xuất) thì đối tượng của hoạt động đánh giá là quan hệ tương
hỗ giữa khách thể và chủ thể ấy. Như vậy, muốn đánh giá kinh tế - xã hội
các điều kiện và tài nguyên tự nhiên thì phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các
nhà tự nhiên và các nhà kinh tế - xã hội, đồng thời phải hiểu đánh giá là một
hoạt động kéo dài suốt thời gian hệ thống kinh tế - xã hội hoạt động, phải
luôn có sự điều chỉnh, phải có trách nhiệm đánh giá cho thật sát trên cơ sở
dự báo mối quan hệ tương hỗ tự nhiên – kinh tế, sao cho sự điều chỉnh chỉ
nhằm sửa chữa các chi tiết chứ không phải làm thay đổi một cách căn bản.
Phan Văn Phú



Terry Rambo
− Khoa học đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên là khoa học liên ngành có phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu riêng
Một chương trình nghiên cứu liên ngành là một chương trình hành
động nhằm một mục tiêu chung, nhưng còn thiếu một lí luận chung, phương
pháp chung, do đó dễ xảy ra tình trạng nghiên cứu không đồng bộ và khó đi
đến một kết luận chắc chắn được mọi người công nhận. Khoa học liên ngành
trước hết vẫn chỉ là một bộ môn khoa học, có đối tượng nghiên cứu riêng, có
nhiệm vụ riêng, được tiến hành dưới ánh sáng của một lí luận riêng và
những phương pháp riêng, có thể có cả trang thiết bị riêng để thu thập và xử
lí thông tin. Những người làm nhiệm vụ đánh giá có thể dựa vào các thông
tin thu thập được từ nhiều ngành để đưa ra các nhận định, từ đó xác định
được phương án sử dụng tự nhiên một cách tối ưu.
Chương trình liên ngành có thể thu hút số lượng không hạn chế các
chuyên môn khác nhau, còn khoa học liên ngành chỉ bao gồm một số ít
chuyên môn thật cần thiết và càng ít càng hay. Khi các chuyên môn này gia
nhập khoa học liên ngành mới sẽ được thống nhất lại theo lí luận và phương
pháp mới, vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, nhưng vừa có thể thay
thế vì nó bao gồm nhiều thành viên làm những công việc khác nhau nhưng
cùng một đối tượng, cùng một nhiệm vụ nghiên cứu.
Vì đối tượng nghiên cứu là hệ thống tự nhiên – kinh tế, nên không
phải ngẫu nhiên mà trên thế giới, nói chung việc đánh giá các điều kiện và
tài nguyên tự nhiên thường do ngành địa lí đảm nhiệm và quy hoạch tự
nhiên – kinh tế sẽ được chuyển cho các nhà kinh tế - chính trị học làm tiếp.
Sau đó, cần phải có các nhà toán – điều khiển học, nhà bản đồ học và tốt hơn
Hệ tự
nhiên
Hệ

kinh tế
- xã hội
Chọn lọc, thích ứng
Vật chất, năng
lượng, thông tin
Vật chất, năng
lượng, thông tin
Vật chất, năng
lượng, thông tin
Vật chất, năng
lượng, thông tin
Phan Văn Phú

cả là phải có các nhà quản lí. Còn người chỉ huy chung phải là người có hiểu
biết rộng, có trình độ tổng hợp cao và có tài tổ chức, điều hành.
− Khoa học đánh giá là khoa học địa tiêu chuẩn hoá
Khoa học đánh giá để quy hoạch phải định ra được để Nhà nước
thông qua chính thức những tiêu chuẩn sử dụng, bảo vệ và cải tạo tự nhiên
sao cho sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Khi đã có những tiêu chuẩn
xác định chính xác, thì việc đánh giá chỉ là sự so sánh tiêu chuẩn với các tính
chất hiện tại và khả năng biến đổi của tính chất đó trong tương lai của tự
nhiên để đi đến kết luận xem trong hệ địa – sinh thái có khâu nào tốt, khâu
nào xấu, mức độ tốt xấu ra sao đối với mục tiêu kinh tế cụ thể. Hiện nay việc
xác định các tiêu chuẩn đó chưa hoàn thành nên hoạt động đánh giá phải vừa
làm vừa xây dựng các tiêu chuẩn đó.
1.2.2. Xây dựng các sơ đồ thể hiện hoạt động đánh giá và nội dung nghiên
cứu của cảnh quan ứng dụng
− Mô hình hoạt động đánh giá
(Hình 1 tài liệu của Vũ Tự Lập)
− Cấu trúc nhận thức của hoạt động đánh giá và quản lí tài nguyên


− Sơ đồ thể hiện nội dung nghiên cứu của cảnh quan ứng dụng
Đánh giá

Kiểm kê điều kiện tự
nhiên và tài nguyên
M
ục ti
êu

Đánh giá tác động của
phương án
Đề xuất
phương án
Phương án điều
chỉnh tác động
Phan Văn Phú


1.2.3. Giải quyết các mối quan hệ
− Cảnh quan cơ bản và cảnh quan ứng dụng
Cảnh quan cơ bản và cảnh quan ứng dụng dù gì thì vẫn là một tổng
thể tự nhiên và phát triển theo những quy luật tự nhiên. Việc nghiên cứu các
cảnh quan ứng dụng đều phải bắt đầu từ các cảnh quan cơ bản, tức là muốn
xây dựng cảnh quan ứng dụng thì phải dựa vào việc nghiên cứu cấu trúc của
cảnh quan cơ bản. Việc chuyển từ cảnh quan cơ bản sang cảnh quan ứng
dụng theo 3 thể thức tiến hành :
+ Mức độ tương ứng giữa bậc địa sinh thái với yêu cầu quy hoạch cũng
như bản đồ cần xây dựng. Bậc địa sinh thái càng xuống thấp thì bậc
cảnh quan cơ bản là khu, á khu hoặc loại cảnh quan. Tỉ lệ bản đồ là 1 :

1 000 000 cho toàn quốc, 1 : 500 000 ÷ 1 : 250 000 cho các khu vực.
o Đối với quy hoạch vùng hay tỉnh thì đơn vị thích hợp nhất là cảnh
quan, cấp phân vị ở bản đồ cảnh quan sinh thái là kiểu cảnh quan (đặc
Kết quả
nghiên cứu
của cảnh
quan cơ b
ản

Mục tiêu
Nhiệm vụ nghiên cứu
Kiểm kê điều kiện tự nhiên,
tài nguyên, hiện trạng sử dụng
Đánh giá cảnh quan sinh thái
Đề xuất hệ địa kĩ thuật
Thích nghi
sinh thái
Hiệu quả
kinh tế
Bền vững
môi trường
Ổn định xã
hội
Đề xuất phương án sử dụng
Định hướng quy hoạch lãnh thổ
Đề xuất quy hoạch – tổ chức lãnh thổ
Sử dụng phương án tối ưu
Dự báo
Phan Văn Phú


điểm sinh khí hậu, thổ nhưỡng). Bản đồ tương ứng có tỉ lệ 1 : 250 000
÷ 1 : 100 000.
o Đối với quy hoạch phạm vi cấp huyện, thì cấp cảnh quan tương
ứng là dạng địa lí, cấp phân vị trong phân loại cảnh quan sinh thái là
loại cảnh quan (quần xã thực vật, loại đất, đặc điểm hình thái các quá
trình tự nhiên ưu thế, hiện trạng sử dụng). Bản đồ tỉ lệ tương ứng là 1 :
25 000 ÷ 1 : 50 000.
o Trong các dự án quy hoạch chi tiết thì đơn vị là diện địa lí (dạng
cảnh quan – tổ hợp thực vật – thổ nhưỡng). Bản đồ tỉ lệ tương ứng là
1 : 10 000 ÷ 1 : 2000.
+ Sưu tập các đặc trưng địa lí của các hệ địa sinh thái – cơ sở đánh giá.
Tuỳ theo mục đích đánh giá và mức độ nghiên cứu đối tượng mà lựa
chọn các thông số đánh giá, lựa chọn thang phân cấp khác nhau, đơn
vị đo đạc khác nhau. Đánh giá là đối chiếu giữa đặc điểm của hệ địa
sinh thái với chỉ tiêu yêu cầu sử dụng, phân loại các đơn vị cơ sở theo
mức độ thuận lợi cho mục tiêu sử dụng.
+ Xây dựng nội dung quy hoạch.
− Đánh giá cảnh quan và quy hoạch lãnh thổ
Quy hoạch là một hoạt động có mục đích bố trí các đối tượng của nền
kinh tế quốc dân (các đối tượng công nghiệp, đường giao thông,…) và các
địa điểm phân bố cư trú trong phạm vi các khu hành chính của đất nước, các
đầu mối công nghiệp riêng biệt, các vòng đai ngoại thành của các thành phố
lớn,… (Bogorad 1965, Pertxik 1973). Như vậy các đối tượng của quy hoạch
vùng là các vùng kinh tế - hành chính thuộc cấp nào đấy hay các tổng thể
sản xuất lãnh thổ.
Đánh giá và quy hoạch là hai mặt của vấn đề, từ yêu cầu của quy
hoạch mà chọn chỉ tiêu và thang đánh giá và từ kết quả đánh giá mà quy
hoạch, hơn nữa hai công việc này cứ lặp đi lặp lại cho đến khi chọn xong
phương án cuối cùng.
Sơ đồ thể hiện quan hệ giữa đánh giá và quy hoạch : hình 38 tài liệu

VTL
− Quy hoạch và tổ chức lãnh thổ
Quy hoạch và tổ chức lãnh thổ về thực chất là một phương pháp tiếp
cận tổng hợp, xem xét, nghiên cứu để bố trí lại các ngành sản xuất, kinh tế,
xây dựng những định hướng phát triển một cách toàn diện cho từng vùng,
từng miền lãnh thổ sao cho phù hợp với tiềm năng tự nhiên, kinh tế - xã hội
Phan Văn Phú

chung, đồng thời dự báo xu thế phát triển trong một tương lai lâu dài và theo
từng giai đoạn cụ thể, đảm bảo sự hài hoà trong phạm vi cả nước nói chung.
Đây là một việc đòi hỏi có sự tham gia của nhiều ngành khoa học, kinh tế,
của các nhà khoa học, nhà quản lí, các ngành, các cấp trong các lĩnh vực liên
quan.
Xét về tổng thể thì cơ sở quan trọng trước nhất của việc xây dựng các
phương án quy hoạch, tổ chức lãnh thổ phải được xem xét, lựa chọn từ các
đặc điểm đặc trưng chung của tự nhiên, tiềm năng của các điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên, các nguồn lực tự nhiên mỗi vùng. Để có được
những định hướng, những phương thức quy hoạch và tổ chức lãnh thổ phù
hợp thì việc đánh giá đúng tiềm năng, nghiên cứu kĩ lưỡng các quy luật phân
hoá và phát triển của tự nhiên, mối liên quan và tác động tương hỗ giữa các
thành phần, các yếu tố tự nhiên, môi trường và giữa các tổng thể tự nhiên
với nhau sẽ có một tầm quan trọng đặc biệt, có những ý nghĩa về khoa học
và ứng dụng thực tế hết sức to lớn. Những nội dung và nhiệm vụ này trước
hết thuộc về các nhà nghiên cứu tự nhiên, trong đó có một phần đóng góp
đáng kể của các nhà địa lí nói chung và những người làm công tác nghiên
cứu cảnh quan nói riêng.
Từ các kết quả nghiên cứu tổng hợp tự nhiên, phân tích làm rõ những
đặc điểm cấu trúc, chức năng và động lực phát triển của cảnh quan, đặc biệt
có xem xét, đề cập đến những yếu tố động nhân tác đã cho những cơ sở khoa
học tin cậy, đầy đủ nhất để hoạch định các kế hoạch phát triển, xây dựng

những định hướng bố trí hợp lí các ngành sản xuất, kinh tế, các phương án
tối ưu cho quy hoạch và tổ chức lãnh thổ theo các vùng.
Phan Văn Phú

Vấn đề 2. Các hướng nghiên cứu cảnh quan ứng dụng trên thế giới
và ở Việt Nam
2.1. Các hướng nghiên cứu cảnh quan học ứng dụng trên thế giới
2.1.1. Học thuyết cảnh quan và hệ sinh thái cảnh quan. Hướng cảnh quan
ứng dụng vào việc quản lí các hệ sinh thái dựa trên phân tích cấu trúc
cảnh quan (Liên Xô cũ và Đức)
− Đức :
Trường phái này chú ý nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố trong
cảnh quan. G.Harse (1967) – Đức đã nêu phương pháp luận trong nghiên
cứu sinh thái cảnh quan và môi trường tự nhiên, chia ra các phức hệ địa lí
được đặc trưng bởi sự trao đổi vật chất giữa các hệ sinh thái và các đặc điểm
động lực phát sinh. Khoa học sinh thái cảnh quan nghiên cứu mối quan hệ
giữa các thành phần của hệ sinh thái theo chiều thẳng đứng và sự phân bố
của chúng trong không gian, sự trao đổi vật chất – năng lượng và sự thay đổi
theo thời gian của các thành phần tự nhiên.
Phân tích rất chi tiết các hợp phần của cảnh quan : sự trao đổi nhiệt,
độ ẩm, quá trình thành tạo thổ nhưỡng, sinh trưởng và phát triển các quần
thể sinh vật trên từng cảnh quan và các cấp khác nhau, đo đạc toàn bộ các
yếu tố tự nhiên ở các trạm định vị tại các điểm chìa khoá dựa trên các khoa
học hỗ trợ như địa hoá học, địa vật lí.
− Liên Xô cũ :
Quan điểm phân tích cảnh quan cũng rất tỉ mỉ mà Treicast (Pháp) đã
gọi đó là phương pháp “nguyên tủ hoá cảnh quan”.
Ưu điểm : tạo cơ sở phân kiểu cảnh quan ở tỉ lệ lớn và đề xuất sử
dụng cụ thể đối với từng mảnh đất để lập dự án quy hoạch. Các kết quả phân
tích định lượng cho phép đưa ra 1 hệ thống các thông số để ứng dụng vào

giải quyết các vấn đề thực tiễn. Các đặc trưng về địa hoá học và địa vật lí tạo
điều kiện cho con người can thiệp vào các hợp phần của tự nhiên, đạt được
hiệu suất sử dụng tự nhiên tối ưu. Dự báo được sự phản ứng của tự nhiên đối
với các hoạt động bất hợp lí của con người  rất thiết thực khi quản lí hệ
sinh thái.
Hạn chế : trong việc lập các dự án quy hoạch tổ chức lãnh thổ đa
ngành, đa mục đích thường đưa ra các kiểu cảnh quan theo 3 bậc :
+ Các kiểu cảnh quan nhận được lượng bức xạ mặt trời như nhau.
Phan Văn Phú

+ Trên cơ sở nền bức xạ mặt trời đồng nhất, phân ra các kiểu cảnh
quan theo lượng ẩm.
+ Trên cơ sở lượng ẩm như nhau phân ra các kiểu cảnh quan theo độ
phì hữu cơ và vô cơ của đất.
− Có 2 trường phái khác nhau trong sự nhận thức về mối quan hệ giữa
cảnh quan cơ bản và cảnh quan ứng dụng :
+ Phủ nhận vai trò cảnh quan cơ bản, cho rằng bất cứ việc nghiên
cứu nào cũng có mục đích cụ thể. Tuỳ theo mục đích và nhiệm vụ
thực tế kết quả xây dựng bản đồ phân vùng cảnh quan là khác
nhau, không có 1 hệ thống phân vùng chung và bảng chú giải cảnh
quan chung. Mục đích có ý nghĩa quyết định trong việc xác định
lãnh thổ.
+ Trường phái đưa ra các bản đồ phát sinh cho rằng nó là cần thiết
đối với việc nghiên cứu các địa tổng thể, các bản đồ ứng dụng phải
được sản sinh từ bản đồ bách khoa tổng hợp. Để xây dựng các bản
đồ cảnh quan ứng dụng vẫn cần nghiên cứu tổng hợp các hợp phần
tự nhiên và dựa trên các đơn vị cơ sở là các hệ địa lí, hệ sinh thái.
Hệ địa lí ở cấp nào tuỳ theo mục đích nghiên cứu.
2.1.2. Hướng ứng dụng thực nghiệm chủ yếu dựa trên hình thái (Mĩ và
Úc)

Úc đã chọn phương pháp phân ảnh để nắm bắt và khai thác tài nguyên
một cách nhanh nhất, thành lập bản đồ 1 : 1 000 000 cho cả lãnh thổ, 1 :
500000 ÷ 1 : 250 000 cho các vùng. Việc lập bản đồ dựa trên 4 yếu tố : địa
chất, địa mạo, thổ nhưỡng và thực vật (có tham khảo thêm về khí hậu và
thuỷ văn), theo 1 hệ thống phân loại cấp lớn nhất là hệ đất (tương đương các
vùng tự nhiên). Cấp nhỏ hơn tiếp theo là các đơn vị đất, đơn vị cơ sở thấp
hơn là các diện đất (tương đương các yếu tố riêng lẻ của địa hình) và có thể
nói là gần cấp cảnh diện của phân vùng tự nhiên  ưu điểm : nhanh chóng
lập được bản đồ phân loại sử dụng đất. Hạn chế : không chú ý đến nhân tố
phát sinh động lực, không đáp ứng được những quy hoạch lãnh thổ địa đới.
Mĩ : thành công trong bảo vệ đất chống xói mòn. Công tác quy hoạch
bảo vệ đất được giao cho các nhà thổ nhưỡng và nông học nhưng thiếu vai
trò của các nhà địa chất động lực và địa mạo động lực. Phương trình mất đất
phổ dụng của W.H. Wishmeier và D.D. Smith là một công trình tiêu biểu.
Ưu điểm : có thể chỉ đạo tác nghiệp hạn chế xói mòn đất trong từng trang
trại và chủ yếu dựa trên yếu tố hình thái ; hạn chế : chưa chú ý quá trình phát
Phan Văn Phú

sinh xói mòn, mối quan hệ giữa con người và môi trường khi thực hiện các
phương án sử dụng đất.
2.1.3. Hướng phân kiểu cảnh quan cho mục đích sử dụng và quy hoạch
dựa trên các quá trình động lực phát sinh : địa mạo động lực và phát sinh
thổ nhưỡng (Pháp)
Trường phái Montpellier : 2 nhà cảnh quan nổi tiếng là G. Cabaussel
và G. Bertran đã xây dựng phương pháp phân kiểu cảnh quan, mỗi kiểu cảnh
quan tương ứng với 1 kiểu thích nghi của toàn bộ thảm thực vật tự nhiên hay
đã biến đổi bởi hoạt động con người với môi trường của nơi ấy.
Cách làm : chồng xếp các bản đồ chuyên đề phản ánh điều kiện tự
nhiên. Phân kiểu cảnh quan nhằm mô tả một số đặc điểm tự nhiên nhưng
chưa xác định được cường độ của các quá trình cũng như xu hướng của

chúng. Cách làm thì tương đối dễ nhưng không đáp ứng được những yêu cầu
quy hoạch cụ thể. Bertran bổ sung các yếu tố địa lí khác nhau, bao gồm các
yếu tố tự nhiên, sinh học và con người. Khi phân loại cảnh quan, Bertran chú
ý đến 2 khía cạnh đặc trưng của cảnh quan : ổn định - không ổn định cân
bằng sinh học và đặc trưng về biến động địa mạo ngăn cản quá trình hình
thành thổ nhưỡng và lớp phủ thực vật.
Chia làm 3 cấp kiểu cảnh quan : geotope  geofacies  geosystems.
Ông chú ý đầy đủ mặt phát sinh động lực và quan điểm này được các nhà địa
lí ứng dụng, trung tâm ứng dụng và các nhà địa lí nhiệt đới phát triển. Điển
hình là công trình của Tricarst và Kilian, cơ sở cho quy hoạch, giải quyết
mối quan hệ giữa địa mạo động lực và phát sinh thổ nhưỡng. Căn cứ vào
cường độ của quá trình địa mạo động lực chia ra 3 trạng thái : ổn định,
không ổn định và nửa ổn định.
Kết quả nghiên cứu địa mạo động lực : lập bản đồ địa mạo động lực
chi tiết ở các tỉ lệ 1 : 10 000 ; 1 : 5 000 ; 1 : 2 000  cung cấp cơ sở cho việc
hiểu biết quá trình hình thành thổ nhưỡng cả trong thời gian trước đó và hiện
tại, giúp đề xuất các biện pháp bảo vệ những nơi thổ nhưỡng đã bị thoái hoá.
Có 3 loại bản đồ : địa mạo – thổ nhưỡng ; các yếu tố hạn chế và bản đồ các
phương án quy hoạch.
2.1.4. Hướng sinh thái cảnh quan
Cảnh quan sinh thái là 1 nhánh khoa học cảnh quan mới, nghiên cứu
sự phân hoá các đơn vị cảnh quan sinh thái theo 1 hệ thống phân loại, kế
thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu cảnh quan và hệ sinh thái, thể hiện
xu thế sinh thái hoá cảnh quan và thể hiện hướng nghiên cứu cảnh quan ứng
dụng xem xét môi trường hình thành cảnh quan nhân sinh, cảnh quan văn
Phan Văn Phú

hoá. Nghiên cứu cảnh quan sinh thái có mục tiêu rõ ràng hơn, chú ý vấn đề
sinh thái môi trường, vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên, tối ưu hoá cảnh
quan.

Các cấp phân vị :
Hệ cảnh quan
Phụ hệ cảnh quan
Lớp cảnh quan
Phụ lớp cảnh quan
Kiểu cảnh quan
Phụ kiểu cảnh quan
Hạng cảnh quan
Loại cảnh quan

Dạng cảnh quan
Yếu tố địa đới – nền bức xạ
Phi địa đới – hoàn lưu gió mùa
Đại địa hình (đồng bằng và miền núi)
Đai cao
Khí hậu – kiểu thảm thực vật phát sinh, kiểu đất
Các đặc trưng cực đoan của khí hậu
Kiểu địa hình phát sinh và động lực hiện tại
Quần xã thực vật, loại đất, đặc điểm hình thái các
quá trình tự nhiên ưu thế, hiện trạng sử dụng.
Tổ hợp thực vật, tổ hợp đất
Sinh thái cảnh quan là hướng sử dụng các phương pháp nghiên cứu hệ
sinh thái trong nghiên cứu cấu trúc cảnh quan, tìm hiểu và xây dựng các
nguyên tắc về các kiểu đa dạng sinh học, ảnh hưởng của cấu trúc cảnh quan
đến các quá trình sinh thái, diễn biến các quá trình sinh thái và diễn thế sinh
thái của cảnh quan  khoa học tổng hợp liên ngành phục vụ quy hoạch.
2.2. Các cách tiếp cận nghiên cứu cảnh quan ở Việt Nam
2.2.1. Học thuyết cảnh quan
− Dựa trên kết quả nghiên cứu cảnh quan cơ bản :
+ Xác định bậc hệ địa lí  bậc quy hoạch – yêu cầu kinh tế - xã hội,

từ đó xác định tỉ lệ bản đồ tương ứng.
+ Sưu tập các đặc trưng địa lí của hệ - kiểm kê toàn bộ tiềm năng tự
nhiên của tổng thể.
+ Phân nhóm ứng dụng hệ địa lí : gộp các hệ địa lí có cùng điều kiện
giống nhau cho sự phát triển ngành kinh tế nào đó hoặc cho sinh
hoạt dân cư. Gồm 4 bước :
o Xây dựng loạt bản đồ đặc trưng của các hệ địa lí.
Phan Văn Phú

o Xây dựng bản đồ đánh giá tiềm năng cho từng hợp phần tự
nhiên.
o Xây dựng bản đồ đánh giá tổng hợp tiềm năng tự nhiên.
o Đưa ra bản đồ cảnh quan phục vụ phát triển kinh tế.
− Dựa trên kết quả phân loại cảnh quan sinh thái.
− Tiếp cận sinh thái cảnh quan và kinh tế sinh thái trong nghiên cứu
cảnh quan ứng dụng :
Kinh tế sinh thái  phát triển bền vững : thích nghi sinh thái, hiệu
quả kinh tế, bền vững môi trường (bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và cân
bằng sinh thái), ổn định xã hội (mức sống và công bằng xã hội).
2.2.2. Hướng phân tích lưu vực trong quy hoạch sử dụng đất và quản lí
tổng hợp lưu vực sông
Phương trình mất đất phổ dụng.
Phương trình ứng dụng phân cấp đầu nguồn (WSC).
2.2.3. Hướng đánh giá đất đai trong sử dụng đất nông nghiệp (FAO)
2.2.4. Hướng nghiên cứu lập địa trong sử dụng đất lâm nghiệp (Đức)
Xác định cây trồng. Đơn vị cơ bản được xây dựng dựa vào 4 yếu tố
chính : địa hình, khí hậu, đất, giới hữu cơ.
Hệ thống phân cấp chia làm 3 cấp :
− Dạng địa lí (tỉ lệ 1 : 10 000) = đơn vị đất đai. Các lập địa riêng lẻ có
những tổ chức cơ bản tương tự nhau, có ý nghĩa đối với sinh trưởng

của cây rừng và các yếu tố cấu thành dạng lập địa là dạng địa thế,
dạng đất, độ dày tầng đất, hàm lượng nước và trạng thái thực bì.
− Bức khảm lập địa, tỉ lệ bản đồ : 1 : 25 000 ÷ 1 : 50 000.
− Các dạng đất (khu lập địa) phục vụ quy hoạch vùng, là hệ thống cấp
phân vị.
2.2.5. Hướng ứng dụng các mô hình thực nghiệm
Phan Văn Phú

Vấn đề 3. Phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan ứng dụng.
Quan điểm hệ thống và quan điểm phát triển bền vững
3.1. Quan điểm (phương pháp luận) hệ thống trong nghiên cứu cảnh
quan ứng dụng
3.1.1. Quan điểm hệ thống và phương pháp tiếp cận hệ thống
3.1.1.1. Khái niệm hệ thống
− Định nghĩa :
Theo B. Canber, hệ thống được hiểu là 1 thể hoàn chỉnh phức tạp có tổ
chức, tổng hợp và phối hợp các vật thể, các bộ phận tạo thành 1 thể hoàn
chỉnh thống nhất.
− Đặc điểm :
Demek cho rằng hệ thống có 4 đặc điểm :
+ Hệ thống là 1 tổ hợp các yếu tố hoàn chỉnh có mối quan hệ lẫn nhau.
+ Hệ thống tạo nên sự thống nhất đặc biệt với môi trường.
+ Hệ thống là bộ phận của hệ thống bậc cao hơn.
+ Mỗi hệ thống gồm các hệ thống bậc thấp hơn.
 Phải nghiên cứu nội hệ thống và cả ngoại hệ thống.
− Các dấu hiệu nhận biết hệ thống (theo Demek):
+ Xác định phạm vi của tất cả các yếu tố nằm trong hệ thống.
+ Xác định mối quan hệ tương quan giữa các yếu tố. Lực liên hệ : thay
đổi theo không gian và thời gian, có thể mạnh hay yếu ; Dấu hiệu liên
hệ : tốt – xấu, thuận – nghịch, dương – âm ; Mức độ liên hệ : chặt –

yếu ; Mức độ xác suất của mối liên hệ : độ bắt gặp.
+ Quan hệ nhân quả : thể hiện ở các quan hệ phụ thuộc và hướng của
các mối liên hệ.
+ Các kiểu liên hệ.
+ Bề mặt của hệ thống : mối liên hệ giữa các hệ thống với môi trường
bên ngoài và ngược lại.
− Các kiểu liên hệ của hệ thống :
+ Thể hiện mối liên hệ giữa các yếu tố theo cấu trúc đứng : mối liên hệ
trực tiếp hay chuỗi, ngược âm : là giảm tác động từ bên ngoài vào và
Phan Văn Phú

đó là cơ chế tự điều chỉnh. Ngược dương : tác động bên ngoài vào phá
vỡ thế cân bằng và suy thoái địa sinh thái.
+ Các kiểu liên hệ giữa các bộ phận trong hệ thống hoặc giữa các bậc
trong hệ thống khác nhau – cấu trúc ngang :
o Hệ thống hình thái : giữa các thành phần chỉ có quan hệ tương
quan.
o Hệ thống dòng thác : giữa các thành phần có các dòng trao đổi vật
chất và năng lượng.
o Hệ thống quá trình hưởng ứng : là sự thống nhất giữa hệ thống
hình thái và hệ thống bậc (dòng thác) thông qua sự trao đổi vật
chất và năng lượng giữa chúng.
o Hệ thống bị điều khiển : đó là hệ thống quá trình hưởng ứng trong
đó thành phần chủ đạo được con người kiểm soát có ý thức, buộc
hệ thống phải hoạt động theo một hướng xác định. Ý nghĩa : giúp
cho việc điều khiển của con người đối với một yếu tố, một ảnh
hưởng nào đó.
+ Các kiểu hệ thống theo chức năng :
o Hệ thống cô lập : không cho phép sự vào ra của vật chất và năng
lượng.

o Hệ thống kín : có ranh giới ngăn cản sự vào ra của vật chất và
không ngăn cản dòng năng lượng.
o Hệ thống hở : trao đổi vật chất và năng lượng với môi trường xung
quanh.
3.1.1.2. Phương pháp luận hệ thống
Là sự kế tục và phát triển tự nhiên của tư duy khoa học dựa trên nền tảng
biện chứng, nghiên cứu những đối tượng mà ta gọi là các hệ thống – 1
hướng mới về phương pháp luận nghiên cứu khoa học (lí thuyết này xây
dựng quan điểm mới đối với các đối tượng nghiên cứu trong thực tế và xây
dựng những nguyên tắc mới trong tư duy khoa học). Cơ sở của quan điểm hệ
thống là quan niệm về sự hoàn chỉnh của các đối tượng nghiên cứu, là sự
thống nhất về động lực bên trong của hệ thống.
3.1.1.3. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Là phương pháp nghiên cứu để nhận thức các đối tượng là hệ thống.
Hoàng Tuỵ phân chia 3 trình độ khảo sát đối tượng :
Phan Văn Phú

− Mô tả thông số : tính chất, đặc điểm, quan hệ.
− Mô tả hình thái, cơ cấu thành phần của đối tượng, phân tích tương quan
giữa các đặc điểm đã mô tả thông số.
− Mô tả chức năng, hành vi của đối tượng.
Cách tiếp cận hệ thống ở giai đoạn thứ 3 là sự kết hợp các nhiệm vụ
nghiên cứu hệ thống. Giai đoạn 1 là sự thu nhận thông tin một cách khoa
học, đúng đắn và có mục đích, hiểu được bản chất đối tượng và quan hệ giữa
chúng, biết cách tiến hành sắp xếp, phân loại thông tin, và cuối cùng là phải
xác định mối liên hệ và quan hệ giữa các đối tượng, chọn ra các đối tượng
với mối liên hệ chủ yếu – là cơ sở để xây dựng mô hình, từ định tính đến
định lượng, từ hình thái đến chức năng để tìm hiểu hoạt động của hệ thống,
như vậy mới gọi là đạt trình độ tiếp cận hệ thống.
Mô hình hoá cấu trúc hệ thống là sự khái quát hoá, trừu tượng hoá, hình

thành các mối quan hệ bản chất của đối tượng và phản ánh tư duy khoa học
cao trong nghiên cứu đối tượng, mô hình hoá quá đơn giản hoặc quá phức
tạp đều không nêu được bản chất của đối tượng : mô tả thông số  quan hệ
 cấu trúc hình thái  cấu trúc chức năng  hoạt động của hệ thống.
Phương pháp tiếp cận hệ thống – quá trình phân tích hệ thống, mô tả hệ
thống bằng loạt mô hình từ đơn giản đến phức tạp để biểu đạt được cấu trúc
hoạt động của hệ.
Phương pháp nhận thức khoa học chia làm 3 loại :
− Phương pháp hình thức hoá : toán.
− Phương pháp phi hình thức : định tính.
− Phương pháp bán hình thức : phương pháp tiếp cận hệ thống (có sự kết
hợp cả 2 loại hình thức và phi hình thức để nhận biết đối tượng) – còn
được vận dụng trong các chương trình nghiên cứu.
3.1.2. Vận dụng quan điểm hệ thống và cách tiếp cận hệ thống trong
nghiên cứu cảnh quan ứng dụng
3.1.2.1. Nhận thức đặc điểm của hệ địa sinh thái
Hệ địa sinh thái là một hệ thống động lực hở tự điều chỉnh, có ranh giới
xác định, có sự thống nhất biện chứng giữa các thành phần cấu tạo và các
đơn vị cấu tạo (chu trình sinh – địa – hoá).
Việc xác định năng suất sinh học và sinh khối của hệ địa sinh thái là một
tiêu chí để đánh giá tính thích nghi và độ ổn định của hệ. Tác động của con
Phan Văn Phú

người phải đảm bảo cân bằng của hệ, là cơ sở của hướng sinh thái trong
nghiên cứu các hệ địa sinh thái.
− Hệ địa sinh thái là một hệ thống động lực, nghĩa là hệ địa sinh thái có khả
năng thay đổi trạng thái theo thời gian, có một lịch sử phát sinh và phát
triển. Vì vậy ta phải nghiên cứu chúng theo không gian và thời gian. Hệ
thường thay đổi theo một nhịp điệu, chu trình xác định (ngày đêm, mùa).
Bên cạnh đó là sự thay đổi theo một hướng nào đó, hoặc hướng tiến hoá,

hoặc hướng thoái hoá thông qua một loạt chuỗi diễn thế.
− Hệ địa sinh thái là một hệ thống hở, điều đó có nghĩa là giữa hệ thống với
môi trường xung quanh luôn luôn có sự trao đổi vật chất, năng lượng và
thông tin. Khi nghiên cứu cần phải xác định ranh giới của hệ thống.
− Hệ địa sinh thái là một hệ thống tự điều chỉnh : sự tự điều chỉnh là khả
năng chống đỡ của nó đối với những tác động làm thay đổi sự cân bằng
cần thiết cho sự ổn định của hệ thống. Cơ chế tự điều chỉnh được thực
hiện nhờ các mối liên hệ ngược, gồm có mối liên hệ ngược âm (giảm dần
tác động từ bên ngoài, chính là cơ chế tự điều chỉnh) và mối liên hệ
ngược dương (phá vỡ sự cân bằng, dẫn đến tiêu diệt hệ địa sinh thái).
− Hệ địa sinh thái thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa giới hữu cơ và vô
cơ. Mối quan hệ giữa chúng mật thiết tới mức khó mà tách biệt, đồng
thời vai trò chính thuộc về giới hữu cơ. Vì vậy, phải nghiên cứu thật đầy
đủ để không lấy ra quá sức chịu đựng của nó.
3.1.2.2. Nhận thức đặc điểm của hệ địa kĩ thuật
Hệ địa kĩ thuật là tốt khi có sự phù hợp giữa hệ địa sinh thái và hệ kinh tế
- xã hội. Hệ địa kĩ thuật là hệ thống không có khả năng tự điều chỉnh. Ví dụ
như hệ thống trồng trọt, con người có thể điều chỉnh năng suất bằng cách
huy động tối đa nguồn tài nguyên sử dụng các phương tiện kĩ thuật và các
tác động làm tăng cường hiệu suất sử dụng quang năng và sử dụng đất, hoặc
đưa vào hệ các nguyên tố địa hoá và các nguồn năng lượng.
3.1.3. Vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu cấu
trúc
3.1.3.1. Xây dựng các mô hình sự vật
Dùng để nghiên cứu sự phân hoá cảnh quan.
3.1.3.2. Xây dựng mô hình hình thái
Xác định cấu trúc không gian của hệ, xác định được cơ cấu thành phần
của đối tượng, tương quan định lượng giữa các thành phần, cấu trúc bộ phận
Phan Văn Phú


và mối quan hệ giữa các hệ. Phương pháp sử dụng : định lượng so sánh, bản
đồ, sơ đồ, đồ thị, mô hình. Các bản đồ không chỉ thể hiện sự phân bố không
gian mà còn thể hiện các đường đẳng trị, hoặc bằng các đồ thị để phản ánh
quan hệ phụ thuộc, diễn biến của các thành phần địa lí. Trong phương pháp
mô hình, có thể chia ra mô hình đơn hệ thống (thể hiện cấu trúc chức năng)
và mô hình đa hệ thống (ít hơn vì phức tạp, thể hiện mối liên hệ giữa các hệ
thống).
3.1.3.3. Mô hình tư duy
Thể hiện chức năng hoạt động của hệ, mới chỉ xây dựng cho các diện địa
lí và có đặc tính mô hình phân tích, chỉ phản ánh từng quá trình, chức năng,
trạng thái của hệ và phân tích thành 3 loại : năng lượng, vật chất và thông
tin.
Các mô hình chức năng có đặc tính phân tích, mỗi mô hình thể hiện một
chức năng của hệ. Mô hình chức năng phát triển trên cơ sở mô hình cấu trúc
hình thái, bổ sung bằng các kí hiệu thể hiện lực, hướng của mối liên hệ
(đường, mũi tên, số của các dòng vật chất – năng lượng – thông tin).
Một biểu hiện của mô hình tư duy là mô hình động lực – sự phát triển cao
hơn của mô hình chức năng, thể hiện sự thay đổi trạng thái của địa hệ bởi
mỗi trạng thái thể hiện 1 đặc trưng của địa hệ. Các mô hình động lực này
cũng rất đa dạng, có thể trình bày động lực của địa hệ dưới dạng graph thể
hiện các quá trình tự nhiên (dòng chảy, sự phát triển của lớp phủ thực vật, sự
hình thành và phân huỷ sinh khối).
Như vậy, để phân tích hệ thống và tiếp cận chức năng hệ thống thì cần
xây dựng mô hình chung phản ánh cấu trúc liên hệ của các quá trình địa hệ.
Phương pháp có khả năng xây dựng mô hình tổng hợp là phương pháp xây
dựng mô hình toán học, phải xác định các biến số trong mô hình và lựa chọn
hàm số.
Theo Preobrazenski thì khó nhất của xây dựng mô hình toán học là
chuyển từ mô hình chú giải bằng lời sang mô hình toán học và từ mô hình
toán học sang mô hình thực tế vì để chuyển sang mô hình toán học thì phải

xác định được các tham số cần thiết, đòi hỏi tài liệu ban đầu phải chính xác ;
bản thân các mô hình toán học không thể cắt nghĩa các hiện tượng địa lí 
đòi hỏi các chuyên gia có kinh nghiệm. Phương pháp toán học phải kế thừa
kết quả nghiên cứu của các phương pháp khác.
3.1.4. Vận dụng lí thuyết hệ thống trong quy hoạch lãnh thổ
Cải thiện hệ thống : tiếp cận tới các điều kiện hoạt động tiêu chuẩn, các
vấn đề cơ bản cần phải giải quyết :
Phan Văn Phú

− Hệ thống không phù hợp với mục đích.
− Hệ thống không đảm bảo kết quả dự đoán.
− Hệ thống không đảm bảo dự án ban đầu.
Thiết kế hệ thống mới : bao gồm vấn đề cải tạo và thay đổi nhưng phân
biệt với quá trình cải thiện hệ thống cả về mục đích, phạm vi, phương pháp,
lập luận và kết quả. Các phương pháp sử dụng và cải thiện hệ thống hình
thành một phương pháp khoa học là phân tích hệ thống, còn các phương
pháp dùng để thiết kế hệ thống mới được gọi là tiếp cận hệ thống.
Các dấu hiệu
nhận biết
Cải thiện hệ thống Thiết kế hệ thống
Điều kiện làm
việc của hệ thống
Thừa kế sơ đồ hệ thống đã
chấp nhận
Thiết kế sơ đồ mới
Đối tượng nghiên
cứu
Bản chất, nội dung,
nguyên nhân
Cấu trúc, quá trình,

phương pháp, mục đích và
chức năng
Paradiagram
(mẫu) hệ biến hoá

Phương pháp phân tích hệ
thống và á hệ thống
Thiết kế toàn bộ hệ thống,
phương pháp tiếp cận hệ
thống
Phương pháp lập
luận
Phân tích để diễn dịch và
loại trừ
Quy nạp và tổng hợp
Kết quả đạt được Cải thiện hệ thống đã có Thiết kế hệ thống mới, tối
ưu hoá hệ thống
Phương pháp Tìm ra nguyên nhân làm
lệch hoạt động thực của hệ
thống so với trước
Xác định sự khác nhau
giữa hệ thống thực và tối
ưu
Điểm cần chú ý
(cơ bản)
Phân tích hệ thống để cắt
nghĩa sự khác biệt cơ bản
so với chuẩn
Dự báo được kết quả trong
tương lai

Điểm xuất phát Đi từ ngoài vào hệ thống Từ hệ thống ra ngoài
Vai trò người làm
quy hoạch
Thụ động, tiếp tục hướng
phát triển của hệ thống
Chủ động, tác động vào
hướng phát triển của hệ
thống
3.2. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là khái niệm xuất hiện gần đây, đến năm 1987, trong
báo cáo của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) với
nhan đề “Tương lai chung của chúng ta”, khái niệm phát triển bền vững mới
được sử dụng một cách chính thức trên quy mô quốc tế và được định nghĩa:
Phan Văn Phú

“Phát triển bền vững là phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại,
nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau”.
Nói cụ thể hơn, phát triển bền vững là phát triển hài hòa cả về kinh tế,
văn hoá, xã hội, môi trường và tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng những nhu
cầu về đời sống vật chất, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn
hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển kinh tế – xã
hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc sống của các thế hệ tương lai.
Nội hàm của phát triển bền vững có thể được đánh giá bằng những tiêu
chí nhất định về kinh tế, tình trạng xã hội, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
chất lượng môi trường.
− Bền vững về kinh tế : đòi hỏi các quốc gia phải đảm bảo kết hợp hài hòa
giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với các yêu cầu phát triển văn hoá – xã
hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế với các điều kiện nguồn lực, tài
nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, việc sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên không tái tạo được và việc phát triển công nghệ sạch.

− Bền vững về tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường : là các tài
nguyên không tái tạo phải sử dụng trong phạm vi khôi phục được về số
lượng và chất lượng bằng các con đường tự nhiên và nhân tạo, môi trường tự
nhiên (không khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên) và môi trường xã hội
(sức khỏe, cuộc sống lao động và học tập của con người) nhìn chung không
bị hoạt động của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các nguồn
phế thải từ công nghiệp và sinh hoạt được xử lí, tái chế kịp thời, vệ sinh môi
trường được bảo đảm, con người được sống trong môi trường trong sạch,…
− Bền vững xã hội : phải là một xã hội trong đó phát triển kinh tế đi đôi với
công bằng và tiến bộ xã hội ; giáo dục đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải
được chăm lo.
Những tiêu chí nói trên là những điều kiện cần và đủ để đảm bảo mục
tiêu đã đề ra, nếu thiếu một trong những điều kiện đó thì sự phát triển sẽ
đứng trước nguy cơ mất bền vững.
Phan Văn Phú

Vấn đề 4. Phương pháp đánh giá tổng hợp môi trường tự nhiên
phục vụ quy hoạch lãnh thổ
4.1. Quá trình tiến hành đánh giá
Hình 8. Chương trình hoá việc nghiên cứu đánh giá - quy hoạch (theo J.
Tricart và J. Kilian 1979) – trang 23 tài liệu Vũ Tự Lập.
4.1.1. Giai đoạn thu thập tư liệu
− Các loại tư liệu cần thu thập, các đại lượng và mức độ chi tiết của tư liệu
tuỳ thuộc vào dự kiến phương án, mục tiêu đánh giá ban đầu.
− Cần xây dựng một mô hình ban đầu làm cơ sở cho việc thu thập tư liệu
− Nguồn tư liệu phải đồng bộ : đủ về thành phần và đảm bảo độ chính xác
về đơn vị lãnh thổ đánh giá cùng tỷ lệ bản đồ tương ứng.
− Cố gắng thu thập các thông số định lượng về các đặc điểm cơ bản và các
mối quan hệ chủ yếu nhất cần xét đặc trưng cho hệ thống.
Ngoài các tư liệu thu thập được từ các ngành cần bổ sung bằng tư liệu

viễn thám và khảo sát thực địa.
4.1.2. Giai đoạn xử lí tư liệu và chẩn đoán, đánh giá đối tượng
Bước trọng tâm của quá trình đánh giá, bao gồm : Xử lí, phân tích tư liệu
đồng thời là quá trình tìm hiểu đối tượng và đánh giá. Nhằm :
− Thể hiện các mối quan hệ cấu trúc của hệ thống.
− Xác định và phân cấp chỉ tiêu đánh giá.
− Liên kết các chỉ tiêu để đánh giá tổng hợp
− Phân loại các hệ địa sinh thái cơ sở theo mục tiêu đánh giá.
Các phương pháp được áp dụng là phương pháp địa lí so sánh, biểu thị
các mối quan hệ bằng các biểu đồ, đồ thị, các mô hình cấu trúc, mô hình
toán, ma trận tương quan và phương pháp bản đồ, hệ thông tin địa lí.
Kết quả ở giai đoạn này là:
− Thể hiện được sự phân hoá không gian về:
+ Mức độ thuận lợi theo mục tiêu đánh giá;
+ Những vùng đồng nhất về ĐKTN&TNTN cho cùng mục đích sử
dụng.
Phan Văn Phú

+ Những vùng đồng nhất về điều kiện KTXH để dùng cùng biện pháp
tác động, điều khiển hệ KTXH.
− Điều quan trọng là đánh giá được vai trò của từng yếu tố thành phần đối
với mục đích sử dụng, đặc biệt là những yếu tố hạn chế, gây khó khăn trở
ngại đối với phương án đưa ra. Khó khăn trở ngại cả về mặt tự nhiên và
cả về mặt kinh tế xã hội.
− Giai đoạn chẩn đoán đối tượng bao gồm cả việc dự báo sự biến đổi của
hệ địa kỹ thuật khi hệ thống này hoạt động (báo cáo đánh giá tác động
môi trường), một nội dung cần xem xét khi lựa chọn phương án.
4.1.3. Giai đoạn đưa ra các phương án
− Để đưa ra các phương án có luận chứng kinh tế kỹ thuật, cần tiến hành
thực nghiệm. Quá trình thực nghiệm phải tiến hành ở những vùng đồng

nhất cả về điều kiện tự nhiên và về mặt kinh tế xã hội.
− Có thể đưa ra nhiều phương án. Mỗi phương án cần nêu đầy đủ các mặt
thuận lợi, khó khăn, điều kiện và giải pháp thực hiện, hiệu quả kinh tế.
Về cơ bản xong bước này thì nhiệm vụ đánh giá phục vụ quy hoạch là
hoàn thành. Việc lựa chọn phương án cần xem xét toàn diện mối quan hệ
liên ngành, liên vùng, hiệu quả kinh tế chung và lợi ích lâu dài. Đôi khi giá
trị về mặt môi trường sinh thái lâu dài không tính được bằng tiền lại còn lớn
hơn nhiều so vơí lợi nhuận thu được tức thời. Vấn đề này chủ yếu thuộc
nhiệm vụ của các nhà quản lí.
4.1.4. Giai đoạn thực hiện phương án và điều chỉnh phương án
Trong quá trình thực hiện phương án có thể nảy sinh các vấn đề mà các
nhà đánh giá - quy hoạch chưa lường hết được, đòi hỏi sự bổ sung kịp thời.
Bởi vậy, hoạt động đánh giá - quy hoạch không phải làm một lần mà
xong. Sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan nghiên cứu đánh giá với các tổ chức
quản lý thực hiện phương án là cần thiết nhằm giám sát thực hiện và điều
chỉnh phương án để đạt được mục đích tối ưu.
4.2. Phương pháp đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên phục vụ quy hoạch lãnh thổ - phương pháp chẩn đoán, đánh
giá đối tượng
4.2.1. Một số điểm cần chú ý khi tiến hành đánh giá
− Quan điểm tổng hợp lãnh thổ (cảnh quan)
Đối tượng đánh giá không phải là từng yếu tố, thành phần riêng lẻ mà là
những hệ thống hoàn hảo các hệ địa lí.
Phan Văn Phú

− Xác định mục tiêu kinh tế- xã hội phải rõ ràng, cụ thể
Tuỳ thuộc mức độ cụ thể của mục tiêu mà quy định bậc hệ địa sinh thái
cần xét, tỷ lệ bản đồ tương ứng, các yếu tố, các đại lượng cần thu thập, quy
định cả số lượng chỉ tiêu và mức độ chi tiết của chỉ tiêu tham gia vào việc
đánh giá.

− Xác định nhiệm vụ đánh giá thuộc loại đánh giá chất lượng hay đánh giá
kinh tế
+ Đánh giá chất lượng : theo 3 hướng : Hướng sản xuất, hướng sinh thái
- xã hội, hướng cải tạo. Mục đích tổng quát của các cuộc nghiên cứu
đều nhằm xác định hướng sử dụng, cải tạo hợp lí môi trường tự nhiên.
Đánh giá chất lượng các hệ địa lí cần bao gồm cả việc đánh giá sự ổn
định và động lực của chúng, khả năng chống lại các tác động bên ngoài
và khả năng phục hồi, đánh giá tác động đến môi trường TN-KTXH của
các công trình kinh tế kỹ thuật sử dụng và cải tạo môi trường tự nhiên.
+ Đánh giá kinh tế : Mục đích là đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai
thác - sử dụng môi trường tự nhiên. Giá trị kinh tế được tính bằng tiền
từ lợi nhuận thu được trong khai thác sử dụng môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên trong đánh giá kinh tế cũng cần tính đến toàn diện các chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật và sinh thái. Lợi ích sinh thái môi trường nhiều khi
không tính được bằng tiền. Xét theo quan điểm phát triển bền vững (gồm
3 mặt bền vững về sinh thái, bền vững về kinh tế và bền vững về xã hội ).
− Xác định nhiệm vụ đánh giá thuộc tình huống nào
+ Tìm hệ KT-XH thích hợp với hệ ĐST đã biết.
+ Đã có mô hình hệ KT-XH, tìm hệ ĐST thích hợp
+ Cả hệ ĐST và hệ KT-XH đều chưa biết
+ Tìm phương án sử dụng tối ưu cho hệ địa kỹ thuật đang hoạt động
4.2.2. Phương pháp đánh giá
4.2.2.1. Xác định mục đích, nhiệm vụ đánh giá
Mục đích, nhiệm vụ đánh giá cần cụ thể, rõ ràng vì nó quy định việc xây
dựng chương trình nghiên cứu, nguồn tư liệu cần thu thập bổ sung, bậc hệ
ĐST cần xét, các yếu tố cần lựa chọn làm chỉ tiêu đánh giá.
4.2.2.2. Lựa chọn đơn vị cơ sở để đánh giá

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×