Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Cồng chiêng Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.24 KB, 5 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cồng chiêng Tây Nguyên
I, Lịch sử cồng chiêng Tây Nguyên
Cồng chiêng tây nguyên là một di sản văn hóa cũng là một bộ môn nghệ thuật đạc sắc của
dân tộc đã được Unessco công nhận là không gian văn hóa công chiêng Tây Nguyên , di
sản phi vật thể của thế giới sau nhã nhạc cung đình Huế ở Việt Nam.
Cồng chiêng có lịch sử từ rất lâu đời, cách đây khoảng 3000 năm từ thời kì phát triển của
đồng thau tại vùng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên . Cồng chiêng như cái tên vốn có của
nó bao gồm hai loại n hạc cụ chính là cồng và chiêng. Cồng và chiêng gần giống nhau đều
có dạng hình tròn như chiếc nón quai thao bằng đồng và chỉ khác nhau ở chỗ cồng có thêm
núm ở giữa. "chênh hân" (không núm). Nhìn chung, còn khá nhiều cách gọi và phân biệt
giữa hai nhạc cụ có núm và không núm này.
Người ta dùng dùi gỗ có quấn vải mềm (hoặc dùng tay) để đánh cồng, chiêng. Cồng,
chiêng càng to thì tiếng càng trầm, càng nhỏ thì tiếng càng cao.
Âm thanh của cồng, chiêng vang như tiếng sấm rền. Đối với các dân tộc ở Việt Nam, cồng,
chiêng được coi là nhạc cụ thiêng. Lúc đầu, cồng, chiêng chỉ dùng để tế lễ thần linh, sau
này mới được dùng trong các lễ hội dân gian. Nghệ nhân chỉnh chiêng hay người điều
khiển giàn chiêng là nhạc công giỏi, có khả năng thẩm âm, biết phát hiện và chỉnh sửa
thanh âm lạc điệu của từng chiêng để đạt được âm thanh chuẩn của cả giàn chiêng. Nghệ
nhân chỉnh chiêng không chỉ chỉnh âm cho các chiếc chiêng sai âm, mà còn chỉnh âm cho
các giàn chiêng mới. Nghệ nhân chỉnh chiêng được coi là báu vật dân gian sống, bao hàm
tính truyền thống và tính khoa học, không chỉ đơn thuần là một kĩ thuật viên.
Loại nhạc cụ này không chỉ mang tính chất giải trí cho người dân tộc thiểu số Tây Nguyên
mà giá trị của nó chính là vì nó gắn liền với các lễ hội hay sự kiện quan trọng.
Vì vậy cồng chiêng được xem như một vật thiêng, là phương tiện để con người giao lưu
với những bậc vô hình, là sợi dây nối kết giữa người trần và các đấng linh thiêng. Do đó
âm nhạc ở đây không đơn thuần là nghệ thuật mà có chức năng phục vụ một sự kiện đặc
biệt trong xã hội hoặc trong đời sống hàng ngày của dân gian. Hầu như mỗi sinh hoạt trong
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bộ tộc đều dính liền với nét nhạc. Lúc đứa trẻ mới lọt lòng thì già làng sử dụng cái cồng


xưa cổ nhứt đến bên giường đánh lên để cho những âm thanh đầu tiên lọt vào tai đứa bé là
tiếng của bộ lạc, khẳng định nó là một phần của cộng đồng bộ tộc. Khi đứa trẻ lớn lên thì
mỗi giai đoạn của đời sống đều gắn liền theo tiếng cồng chiêng, từ việc đồng áng như gieo
mạ, gặt lúa; cho đến những buổi gặp gỡ nam nữ, cuộc chia ly hay tang lễ … đều có những
bài bản riêng.
Hệ thống của cồng chiêng Tây nguyên rất đa dạng. Dàn cồng chiêng có thể chỉ đơn giản
gồm 2 chiếc cồng, cho đến dàn 9,12,15 chiếc cồng và chiêng. Mỗi nhạc công sử dụng một
cồng. Trong những lễ hội quan trọng còn có thêm cả trống. Người đánh cồng chiêng Tây
nguyên luôn di động, còn động tác thì đa dạng như nghiêng mình, cúi người, khom lưng ...
Khi đánh cồng, bàn tay mặt của nhạc công vỗ vào núm cồng như xoa dịu. Trước đây một
số nhà nghiên cứu tưởng rằng chỉ có một cách đánh bên ngoài mà thôi, nhưng về sau mới
biết bàn tay trái nắm ở bên trong cũng tham gia biểu diễn với nhiều cách, hoặc nắm vào
vành hoặc bóp vành rồi buông ra, giống như cách nhấn nhá trong các loại đờn dây hay cách
ém hơi trong kỹ thuật hát. Thậm chí có khi nhạc công đeo thêm chiếc vòng để khi lắc tay
thì chiếc vòng đụng vào mặt trong phối hợp với tiếng gõ bên ngoài. Đó là những kỹ thuật
tinh vi mà một người bình thường khó nhận ra được
Ngoài ra còn có cách đánh chiêng với dùi làm bằng gỗ cứng hay mềm khác nhau tùy theo
dân tộc. Có thể gõ vào giữa mặt chiêng hay đánh ngoài rìa tùy theo bài bản. Người Ê Đê đa
số sử dụng loại dùi cứng tạo nên tiếng vang rất to nhưng lại có nhiều tạp âm. Người
Bahnar thường sử dụng dùi làm bằng cây sắn là loại gỗ mềm hơn, tuy nét nhạc không vang
bằng nhưng âm cơ bản nghe rất rõ. Loại dùi thứ ba làm bằng gỗ thường có bọc thêm một
lớp bên ngoài (xưa kia người ta sử dụng da tinh hoàn của trâu, bò hoặc dê, về sau được bọc
bằng vải rồi đổi sang bọc bằng cao su). Dùi loại này phù hợp nhứt vì tạo nên âm thanh rất
hay.
Tên gọi của những chiếc cồng chiêng cũng rất phong phú, có khi được đặt dựa theo âm
thanh nhạc khí phát ra, có khi là tên gọi theo vị trí của nó trong dàn nhạc. Đặc biệt hầu hết
những chiếc cồng phát ra âm thanh thấp - vốn là âm cơ bản - mang tên "mẹ". Trong những
dàn có từ 9 cồng chiêng trở lên thì có thêm cồng "cha" bên cạnh cồng "mẹ", tiếp theo là
các cồng con, cồng cháu … tức hình thành hệ thống gia đình với cồng mẹ luôn luôn đứng
trước cồng cha, phù hợp với chế độ mẫu hệ của người Tây nguyên.

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khi biểu diễn, hai chiếc cồng mẹ và cồng cha đánh ra âm thanh trầm gần giống nhau để
làm nền cho cả dàn nhạc. Kế tiếp là 3 cồng con cùng đánh một lượt với nhau thành một
hòa âm, có tác dụng như những cây cột chống đỡ trong ngôi nhà (chứng tỏ cách sắp xếp
chẳng những theo hệ thống gia đình mà còn mang cả cấu trúc như nhà cửa, vị trí của những
nhạc khí trong một dàn nhạc có hệ thống). Những chiếc còn lại thì đánh so le theo thứ tự
trước - sau, mau - chậm theo đúng qui định, phối hợp với nhau thành ra nét nhạc. Để nắm
vững những qui định này đòi hỏi nhạc công phải nhớ nằm lòng, phải nghe cho rõ và nhứt
là phải tập trung tâm trí để vừa tròn phần mình vừa lắng nghe người khác trong dàn nhạc.
Mỗi dân tộc ở Tây nguyên lại có một cách điều chỉnh âm thanh rất riêng, không những
khác nhau về độ cao mà còn khác về màu âm. Chẳng hạn âm nào quá thanh phải chỉnh cho
đục một chút để tạo ra nét đẹp tế nhị, giống như họa sĩ không sử dụng màu đỏ hay màu
xanh tiêu chuẩn mà thường pha đậm hơn hay lợt đi một chút để tạo phong cách riêng. Kỹ
thuật chỉnh âm cồng chiêng rất tinh vi đòi hỏi một kỹ năng cao, bởi chỉ sử dụng chiếc búa
gỗ nhỏ mà có thể điều chỉnh âm lên cao hay xuống thấp thật chính xác. Một lổ tai nghe các
âm thật chúnh xác(Đáng tiếc hiện nay ở Tây nguyên số lượng nghệ nhân thuần thục việc
chỉnh âm cồng chiêng chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay).
Đặc biệt trong các buổi lễ lớn hay những dịp tôn vinh một nhân vật nào thì đối tượng được
tôn vinh phải tọa lạc ở vị trí trung tâm, và dàn cồng chiêng đi quanh thành hình tròn Bùi
Trọng Hiền cho thấy việc này có ý nghĩa để cho nhân vật ở tâm điểm có thể thưởng thức
âm thanh các cồng chiêng với khoảng cách bằng nhau, đúng với vị trí của nó chớ không bị
nghe tiếng gần tiếng xa như khi xếp hàng ngang. Thêm nữa, trong buổi lễ, các nhạc công
lại di chuyển ngược với chiều kim đồng hồ, đồng nghĩa với việc ngược dòng thời gian tìm
về dĩ vãng, nhớ lại cội nguồn.
Những điểm nho nhỏ ấy chứng tỏ từ tư thế đánh, vị trí của nhạc công, cách kích âm, sắp
đặt của cồng chiêng đều chuyên chở những suy tư và có hệ thống.
II, Sự thay đổi của văn hóa cồng chiêng:
1, Hồn thiêng trong tiếng cồng chiêng đang mất dần
Cồng chiêng đến nay đã trở thành tài sản quí giá và là di sản văn hóa phi vật thể của dân

tộc Việt Nam. Tuy nhiên một thực tế đáng lo lắng đó là không gian và hồn thiêng trong
tiếng cồng đang ngày một dần mất đi. Trước kia tiếng cồng chiêng được đánh lên với âm
thanh vang dội như sấm dền và thể hiện sự linh thiêng của vùng rừng núi Tây Nguyên.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhưng lớp người trẻ tuổi, không những đơn giản hóa những quan niệm về chiêng cồng
mà khả năng tiếp thu để diễn tấu các bài bản chiêng của họ cũng rất hạn chế, tiếng cồng
chiêng họ đánh không còn hồn thiêng như trước kia nữa. Trong cộng đồng Mạ, Cơho ở
Lâm Đồng, nhiều nghệ nhân trẻ không thể nhớ hết nổi "36 điệu chiêng" của ông bà họ để
lại. Cũng như vậy, ở cộng đồng Mnông tỉnh Đăk Lăk, vẫn có những người không thể
phân biệt đâu là bài bản chiêng dùng trong lễ phát rẫy, lễ phơi rẫy, lễ xuống giống và đâu
là bài bản chiêng trong lễ tạ ơn rìu rựa, lễ tắm lúa, lễ cúng bến nước…
Nguy hiểm hơn, xu thế mất dần tính thiêng của chiêng cồng Tây Nguyên còn được thể
hiện ở chỗ: Ngày nay, nhiều người đã tỏ ra rất tùy tiện trong việc sử dụng các bộ chiêng
thiêng và tùy tiện sử dụng các bài bản. Trong các buôn làng ngày xưa, cồng chiêng
thường chỉ được sử dụng trong các lễ lớn của gia đình, dòng tộc hoặc buôn làng thì nay,
cũng ngay trong cái không gian buôn làng ấy, việc "mua vui" cho "người ngoài" đã trở
nên một hiện tượng không hiếm, nếu như không muốn nói là khá phổ biến.
2. Cồng chiêng đang bị biến thành chuyên nghiệp hóa và cung đình
Cồng chiêng ở Việt Nam khác với ở các nước Đông Nam Á khác là nó thuộc về người
dân là tài sản của cộng đồng chứ không phải được sử dụng trong cung đình, thuộc của
riêng tầng lớp quí tộc và trở thành chuyên nghiệp và thương mại hóa. Hơn nữa cồng
chiêng gắn bó chặt chẽ với đời sống con người đồng bào dân tộc thiểu số. Chính vì đặc
điêm này nên cồng chiêng tây Nguyên đã được Unessco công nhận là văn hóa phi vật thể
của thế giới.
Mặt khác, hiên nay rất nhiều đồng bào đi theo đạo Tin lành và họ không còn cần đến cồng
chiêng nữa nên nhiều cồng chiêng bị bán làm sắt vụnvới giá rẻ mạt. Trong điều kiện tự do
tôn giáo tín ngưỡng, thì đây trở thành vấn đề rất phức tạp mà ngành văn hoá cũng không
giải quyết được.
Bên cạnh đó là những yếu tố tác động từ những cán bộ văn hoá quần chúng muốn cải tiến

chiêng bằng cách gò chiêng theo đúng như hàng âm thanh châu Âu. Mà chính hàng âm
thanh độc đáo vốn có của cồng chiêng Tây nguyên là một phần để làm nên di sản được
Unessco công nhận. Ở Gia-lai đã có những dàn chiêng bị gò lại để đánh các bài mới và
không thể đánh được các bài dân tộc nữa.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cồng chiêng Tây Nguyên đã gắn bó với cuộc sống của người dân Tây Nguyên từ ngàn
đời nay, nhưng nay đang đứng trước nguy cơ bị mai một rất cao do rất nhiều nguyên
nhân. Trước hết, đó là những nguyên nhân bắt nguồn từ những biến đổi hết sức lớn lao
trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân, cùng với những biến đổi của môi trường
tự nhiên và xã hội mà cư dân Tây Nguyên sinh sống. Như những sự thay đổi trong
phương thức canh tác; sự thay đổi trong mối quan hệ giữa con người với môi trường tự
nhiên và thiên nhiên Tây Nguyên; sự bùng nổ công nghệ thông tin, v.v. Những sự biến
đổi ấy dẫn đến sự thờ ơ của một bộ phận dân cư, nhất là trong lớp trẻ đối với văn hóa
cồng chiêng.
III, Một số giải pháp bảo tồn giữ gìn văn hóa cồng chiêng:
Thực tế hiện nay là số cồng chiêng Tây Nguyên đã giảm đi đáng kể, đồng bào vì cái đói,
cái nghèo đã không thể giữ lại đồ vật quý bên mình. Để ngăn chặn việc chảy máu cồng
chiêng, điều cần nhất là phải xoá đói giảm nghèo để người dân không phải bán cồng
chiêng để duy trì đời sống. Hơn nữa, Nhà nước phải quan tâm và có những biện pháp để
có thể duy trì các sinh hoạt cồng chiêng trong các cộng đồng buôn làng Tây Nguyên.
Chúng ta cần có sự đầu tư xứng đáng cho các nghệ nhân cồng chiêng để họ có điều kiện
phát triển hơn các kĩ nange trình độ cảm thụ âm nhạc để có thể có những tiếng chiêng có
hồn như ông cha ta đã từng thể hiện trong các lễ hội trước kia. Quan trọng nữa nhà nước
cần tổ chức việc truyền dạy cho lớp trẻ; quảng bá tuyên truyền giá trị của cồng chiêng
nhanh chóng để mọi người đều nhận thức được giá trị dân tộc và có ý thức giữ gìn bảo
tồn những nét văn hóa đó.
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×