Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận môn thị trường tài chính CHO THUÊ TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.18 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thực tế cho thấy việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản
xuất là một đòi hỏi bức thiết trong bối cảnh hội nhập để nâng cao chất lượng sản
phẩm cũng như năng suất lao động, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Phần lớn các trang thiết bị của nhiều doanh nghiệp đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các
nước tiên tiến. Song muôn thuở nan giải vẫn là câu hỏi: lấy vốn ở đâu? Hiện nay
lượng vốn dài hạn đầu tư cho các dự án này ở các doanh nghiệp Việt nam là hết sức
khiêm tốn. Kênh tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới ra đời không có đủ
tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng quả là khó
khăn. Trong những trường hợp như vậy, đi thuê tài chính có thể là một giải pháp tối
ưu. Vậy cho thuê tài chính là gì? Tạo sao gọi cho thuê tài chính là một giao dịch tín
dụng? Sự khách nhau giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành. Thực trạng cho
thuê tài chính ở Việt Nam giai đoạn hiện nay ra sao? Dưới dây chúng tôi sẽ làm rõ
những vấn đề trên.
1
PHẦN 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1 NGUỒN GỐC RA ĐỜI:
1.1.1 Babylonia và Hy Lạp Cổ đại
− Những hoạt động thuê đã có từ cách đây rất lâu, có thể tới 5000 năm trước.
Người ta đã tìm được những chứng cớ về sự tồn tại của một công ty thuê
khoảng năm 1800 trước Công nguyên ở Babylonia.
− Những người Hy Lạp cổ là những người đầu tiên phát triển hình thức cho
thuê lại các khu mỏ và cho thuê nhà băng. Hợp đồng cho thuê nhà băng đầu
tiên được kí vào năm 370 trước CN cho các tài sản bao gồm tên của nhà băng,
các khoản cầm cố, các văn phòng và nhân viên.
1.1.2 Liên hiệp Anh
− Một trong những điều luật đầu tiên nhắc tới thuê ở Liên hợp Anh là Đạo luật
xứ Wales được soạn thảo vào năm 1284. Đạo luật đã sử dụng những điều luật
về đất đai sẵn cỏ làm khung pháp lý cho việc thuê các tài sản như các thiết bị


nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của hệ thống đường sắt vào giữa thế kỷ
19, các doanh nghiệp nhỏ cũng đầu tư vốn vào các toa tàu chở than và sau đó
cho các công ty mỏ thuê lại. Các hợp đồng thuê thường cho người thuê quyền
được mua thiết bị sau khi hết thời hạn hợp đồng.
1.1.3 Hoa Kỳ
− Cho thuê tài chính với những hình thức như hiện thời bắt nguồn từ Mỹ. Công
ty cho thuê đầu tiên của Mỹ được thành lập bởi Henry Shofeld vào năm 1952.
Công ty được thành lập để phục vụ ngành vận tải đường sắt. Châu Âu cũng
nhanh chóng xuất hiện những công ty cho thuê của mình vào cuối những năm
1950 và đầu 1960.
2
− Những thành tựu công nghệ khiến cho các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới
tài sản thường xuyên hơn. Đi thuê giúp cho các doanh nghiệp có được tài sản
với những điều khoản có lợi hơn là việc mua thiết bị
1.1.4 Các thị trường mới nổi
− Ở châu Á, Nam Mỹ và Châu Phi, hình thức cho thuê bắt đầu hình thành và
phát triển từ những năm 1970 đến 1980.
− Ở Châu Á, Nhật là quốc gia có ngành kinh doanh cho thuê ra đời sớm nhất,
công ty cho thuê đầu tiên của Nhật là công ty Orient thành lập 1963. Đầu
những năm 70, hoạt động cho thuê mới xuất hiện ở Hàn Quốc, ấn Độ,
Indonesia và đến đầu những năm 80, hoạt động cho thuê mới phát triển hầu hết
ở các nước Châu á. Đến nay thuê tài chính đã là một khái niệm phổ biến trên
thế giới.
1.1.5 Việt Nam
− Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập tại Việt nam vào
năm 1996 và hoạt động cho thuê tài chính cũng đã manh nha ở các ngân hàng
trước đó nhưng phải cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-
CP ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam mới thực sự
hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến nay có trên 20 công ty cho
thuê tài chính đang hoạt động, bao gồm các công ty CTTC nhà nước, cổ phần,

liên doanh và nước ngoài.
− Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam (một tổ chức phi chính phủ được các
công ty cho thuê tài chính tự nguyện tham gia) được thành lập năm 2007 đã
cùng với các công ty cho thuê tài chính đánh giá tổng kết hoạt động thực tiễn,
đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Ngân hàng nhà nước những vấn đề để hoàn
thiện các cơ chế, tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính hoạt động tốt
hơn
3
− Theo luật các Tổ chức Tín dụng tại Việt Nam, cho thuê tài chính là chức
năng của các công ty cho thuê tài chính, đây là định chế tài chính phi ngân
hàng.
1.2 KHÁI NIỆM VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH:
1.2.1. Định nghĩa:
− Cho thuê là một giao dịch hợp đồng giữa hai chủ thể - bên chủ sở hữu tài sản
và bên sử dụng tài sản. Trong đó, bên chủ sở hữu tài sản – bên cho thuê chuyển
giao tài sản cho bên đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định và bên sử
dụng phải thanh toán tiền thuê cho bên chủ sở hữu tài sản.
− Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn, thông qua việc cho
thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ
sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết
mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu
cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên
thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã
được hai bên thỏa thuận.
− Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê
hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài
chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài
chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp
đồng.
− Theo quy định của Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế, bất cứ một giao dịch

cho thuê nào thỏa mãn ít nhất một trong bốn tiêu chuẩn sau đây đều được gọi
là cho thuê tài chính:
o Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi chấm dứt thời hạn hợp
đồng.
o Hợp đồng có quy định quyền chọn mua.
4
o Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động của tài sản.
o Hiện giá của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài
sản thuê
1.2.2. Phân loại cho thuê tài chính:
a. Các loại cho thuê tài chính cơ bản:

Cho thuê tài chính hai bên:
theo phương thức này, trước khi thực hiện nghiệp
vụ cho thuê, tài sản cho thuê đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê (bên cho
thuê đã mua hoặc đã xây dựng). Phương thức tài trợ này thường do các công ty
sản xuất máy móc thiết bị thực hiện, các tổ chức tài chính ít áp dụng phương
thức này.

Cho thuê ba bên:
theo phương thức này, bên cho thuê chỉ mua tài sản theo
yêu cầu của bên thuê và đã được 2 bên thoả thuận theo hợp đồng thuê. Phương
thức tài trợ này còn được gọi là phương thức cho thuê tài chính thuần, đây là
phương thức cho thuê áp dụng phổ biến nhất vì nó có nhiều ưu điểm hơn so
với phương thức cho vay 2 bên.
b. Các loại cho thuê tài chính đặc biệt:

Tái cho thuê:
hay còn gọi là bán và thuê lại là một dạng đặc biệt của phương
thức cho thuê có sự tham gia của 2 bên. Trong kinh doanh, có nhiều doanh

nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác nên họ đã bán 1 phần TSCĐ hiện có và
thuê lại tài sản để sử dụng. Ngoài ra, các định chế tài chính cũng áp dụng
phương thức tài trợ này như là một biện pháp giải quyết nợ quá hạn thay vì
dùng biện pháp thanh lý nợ.

Cho thuê hợp tác:
là phương thức cho thuê đặc biệt, biến tướng từ 2 phương
thức cho thuê cơ bản ở trên nhằm để phân tán rủi ro khi các tài sản thuê có giá
trị lớn. Đó là công ty cho thuê hợp tác với một hay nhiều bên cho vay để cùng
tài trợ. Trong trường hợp này, bên cho thuê là trái chủ trong quan hệ cho thuê,
5
còn bên cho vay là trái chủ của bên cho thuê. Vốn tài trợ bao gồm 2 phần, một
phần bên cho thuê, một phần bên cho vay. Đối với hợp đồng thuê có giá trị lớn,
bên cho thuê và cho vay cùng uỷ thác cho một tổ chức tài chính đứng ra đảm
nhiệm toàn bộ công việc. Trong cho thuê hợp tác, vốn vay thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ (từ 60% đến 80%), khoảng cho vay được
đảm bảo bằng chính tài sản cho thuê và cam kết chuyển nhượng hợp đồng cho
thuê và các khoản tiền thuê.

Cho thuê giáp lưng:
là phương thức cho thuê mà trong đó, thông qua sự đồng
ý của bên cho thuê, bên đi thuê thứ nhất cho bên đi thuê thứ hai thuê lại tài sản
đó, bên đi thuê thứ nhất thực chất là bên trung gian giữa bên cho thuê và bên
thuê thứ hai. Khoảng tiền thuê bên thứ hai trả cho bên thuê thứ nhất cao hơn sơ
với khoảng tiền thuê bên thứ nhất trả cho bên cho thuê, khoảng chênh lệch đó
là hoa hồng trách nhiệm. Ngoài ra cho thuê giáp lưng cũng áp dụng trong
trường hợp bên thuê thứ nhất đã thuê tài sản và đã sử dụng nhưng sau đó
không có nhu cầu sử dụng thì cho bên khác thuê lại với sự đồng ý của bên cho
thuê.
1.2.3. Vai trò của cho thuê tài chính:

a. Đối với nền kinh tế:
− Bản chất của hoạt động cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung và
dài hạn, thị trường cho thuê tài chính cũng là một thị trường vốn, thị trường
này diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính
trung và dài hạn theo những phương thức giao dịch nhất định. Như vậy, cho
thuê tài chính hay thị trường cho thuê tài chính đã góp một phần giải quyết bài
toán về vốn cho nền kinh tế.
− Cho thuê tài chính gắn chặt với việc trang bị, đổi mới máy móc, công nghệ
và mở rộng sản xuất đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất của các ngành công
nghiệp vừa và nhỏ. Phát triển tốt thị trường cho thuê tài chính sẽ giúp các
6
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất của doanh nghiệp cũng
như của toàn nền kinh tế.
− Đặc biệt, thông qua hình thức cho thuê tài chính có thể thu hút một lượng vốn
lớn từ dân cư thông qua hình thức huy động vốn trung và dài hạn hoặc liên
doanh với nước ngoài để tạo ra kênh dẫn vốn từ bên ngoài vào cho nền kinh tế.
b. Đối với bên cho thuê:
Đối với bên cho thuê, việc ra đời và áp dụng phương thức tài trợ cho thuê tài
chính không phải là loại hình thay thế các phương thức tài trợ cổ điển như cho vay
trung và dài hạn bằng tiền, mà nó là hình thức tài trợ bổ sung nhằm tạo điều kiện cho
các định chế tài chính mở rộng khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đứng
trên góc độ người cho thuê phương thức tài trợ này có một số lợi ích so với loại tài trợ
khác như sau:
− Bên cho thuê với tư cách là sở hữu chủ về mặt pháp lý và nắm quyền sử
dụng, vì vậy họ được quyền quản lý và kiểm soát tài sản theo các điều khoản
của hợp đồng thuê. Trong trường hợp bên đi thuê không thanh toán tiền thuê
đúng hạn thì bên cho thuê được thu hồi tài sản, đồng thời buộc bên đi thuê phải
bồi thường các thiệt hại.
− Trong trường hợp bên đi thuê bị phá sản thì tài sản cho thuê tài chính không
bị phát mãi, bên cho thuê thu hồi lại được.

− Đối tượng tài trợ được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn liền với mục
đích kinh doanh của bên đi thuê, vì vậy mục đích sử dụng vốn được đảm bảo,
từ đó tạo tiền đề để hoàn trả tiền thuê đúng hạn (do đó ít rủi ro).
c. Đối với bên đi thuê:
− Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng
thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho
vay tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh cho thuê tài
chính, doanh nghiệp chẳng những không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế
7
chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa
trên sự thỏa thuận của 2 bên.
− Tài sản thuê tài chính nằm trên Bảng cân đối kế toán do đó làm cho Bảng cân
đối đẹp hơn trong mắt nhà đầu tư.
− Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động
trong việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng
loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình.Ngoài ra nếu doanh nghiệp đã
lỡ đầu tư mua tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty
cho thuê tài chính và sau đó công ty sẽ cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy
doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn
được sử dụng tài sản.
− Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp có ba quyền lựa chọn, một là trả lại tài
sản thuê (do máy móc lạc hậu không còn phù hợp với điều kiện hoạt động kinh
doanh), thứ hai là tiếp tục thuê tài sản, thứ ba là được quyền ưu tiên mua lại tài
sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua
lại.
− Thủ tục đi thuê đơn giản, linh hoạt nhanh gọn hơn đi vay vì bớt được thời
gian làm thủ tục thế chấp, bảo lãnh.
− Giúp cho bên đi thuê tránh được rủi ro về tính lạc hậu và lỗi thời của tài sản,
đặc biệt đối với những thiết bị có tốc độ phát triển nhanh, như ngành công
nghiệp máy tính chẳng hạn. Ngoài ra bên đi thuê còn nhận được sự tư vấn

miễn phí từ bên cho thuê.
− Hoạt động cho thuê tài chính sẽ tạo khả năng dự trữ các nguồn tín dụng cho
tương lai của doanh nghiệp cũng như giúp doanh nghiệp vượt qua được những
giai đoạn khó khăn về tài chính trước mắt. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài
sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để kinh doanh.
d. Lợi ích đối với cả bên đi thuê và bên cho thuê:
8
− Lợi ích từ tấm chắn thuế: Đây là một ưu điểm vô cùng quan trọng. Tài sản
cho thuê tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê
được phép khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác,
bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng
làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Như vậy cả hai bên đều có
lợi.
1.3 BẢN CHẤT CỦA CHO THUÊ TÀI CHÍNH:
1.3.1. Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng:
− Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng hay định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp
và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển tiếp tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.
− Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê chuyển giao tài sản thực
(nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc thiết bị…) cho bên thuê sử dụng trong
một thời gian nhất định. Trong quá trình sử dụng tài sản, bên thuê phải thanh
toán tiền thuê định kỳ cho đến khi hết hạn hợp đồng. Khoản tiền thuê bao gồm
hai phần: phần vốn gốc và lãi. Do đó, có thể thấy đây là bản chất của một giao
dịch tín dụng.
− Bên cạnh đó, đối với hợp đồng cho thuê thanh toán một phần sau khi chấm
dứt hợp đồng thuê, tiền lãi được thanh toán đầy đủ trong quá trình sử dụng
vốn, nhưng vốn gốc chưa hoàn trả đầy đủ. Trường hợp này có ba các giải quyết

và được quy định trong hợp đồng.
+ Người thuê đồng ý mua tài sản: phần vốn gốc đã được hoàn trả dưới dạng
tiền thanh toán mua tài sản.
9
+ Người mua muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc được hoàn trả dưới dạng
thanh toán tiền thuê trong thời gian hợp đồng cho thuê được gia hạn.
+ Người đi thuê không muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc được hoàn trả
dưới dạng hiện vật, tức là tài sản thuê mua.
− Trong bất kỳ một trường hợp nào đi nữa thì nguyên tắc hoàn trả của tín dụng
luôn luôn được bảo đảm; tiền thuê và giá trị tài sản thường lớn hơn giá trị tài
sản ban đầu , đây chính là sự trao đổi tài sản không ngang giá - bản chất của
một quan hệ tín dụng. Đó gọi là tiền lãi mà người cho vay được hưởng ngoài
giá trị ban đầu của tín dụng.
− Như vậy trong cho thuê tài chính luôn luôn đảm bảo ba nguyên tắ, của một
hợp đồng tín dụng đó là tính kỳ hạn, tính hoàn trả và tính lãi suất.
1.3.2. Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn:
− Trong giao dịch cho thuê tài chính, nhà cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở hữu
tài sản và vì thế họ là người quản lý tài sản cho thuê. Để hợp thức hóa hành vi
này, các nhà cho thuê phải tiến hành các thủ tục đăng ký và cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu, đăng ký tài sản giao dịch đảm bảo…điều này sẽ phát sinh
nhiều loại chi phí. Nếu tài trợ bằng những tài sản có giá trị thấp và thời gian
ngắn sẽ khó thực hiện được vì chi phí quản lý sẽ rất cao và người đi thuê sẽ
khó chấp nhận. Ngược lại, nếu tài trợ trung và dài hạn với tài sản có giá trị cao,
tuổi thọ cao thì tỷ trọng chi phí quản lý tính trên giá trị tài sản sẽ thấp hơn.
− Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn vì nó vừa đảm
bảo ba nguyên tắc của một hoạt động tín dụng đó là tính kỳ hạn, tính hoàn trả
và tính lãi suất, mặt khác thời hạn thuê dài (thời hạn trên 60% thời gian hữu
dụng của sản phẩm thuê tài chính).
10
− Như vậy, tài trợ trung và dài hạn dưới hình thức cho thuê tài chính là một yêu

cầu khách quan xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các chủ thể trong nền kinh
tế.
1.4 PHÂN BIỆT CHO THUÊ TÀI CHÍNH VỚI CHO THUÊ VẬN HÀNH:
− Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản, theo đó bên thuê sử dụng tài
sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ trả lại tài sản
đó cho bên cho thuê khi kết thúc thời hạn cho thuê tài sản. Bên cho thuê giữ
quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng cho thuê.
− Cho thuê vận hành được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
những doanh nghiệp có thời gian hoạt động ngắn rất ưa chuộng. Ở nước ngoài
dịch vụ cho thuê vận hành phát triển song hành với dịch vụ cho thuê tài chính.
Tuy nhiên ở nước ta dịch vụ cho thuê vận hành vẫn chưa được phổ biến nhiều
do bị vướng ở một quy định của nhà nước về cho thuê vận hành. Với quy định
hiện nay, hợp đồng cho thuê vận hành của các công ty cho thuê tài chính chịu
sự quản lý của NHNN Việt Nam
− Sự khác nhau giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành:
Cho thuê tài chính Cho thuê vận hành
Thời gian cho thuê tương đối dài
(trên 60%) so với thời gian hữu dụng
của tài sản cho thuê.
Thời gian cho thuê ngắn so với thời
gian hữu dụng của tài sản.
Bên thuê gánh chịu phần lớn rủi ro
liên quan đến tài sản (bên thuê phải
có trách nhiệm bảo dưỡng, chịu rủi
ro, thiệt hại về tài sản đi thuê).
Bên cho thuê gánh chịu phần lớn rủi
ro liên quan đến tài sản (bên cho thuê
phải có trách nhiệm bảo dưỡng, chịu
rủi ro, thiệt hại về tài sản đi thuê).
Bên cho thuê cam kết bán lại tài sản Không có cam kết bán lại tài sản.

11
cho bên thuê khi kết thúc thời hạn
hợp đồng.
Trong thời gian thuê, người đi thuê
không được phép huỷ ngang hợp
đồng
Trong thời gian thuê, người đi thuê có
thể huỷ ngang hợp đồng
Chi phí cho thuê thấp hơn so với cho
thuê vận hành
Chi phí cho thuê cao.
Hiện giá của các khoản chi trả tiền
thuê gần bằng với giá trị của tài sản
thuê
Hiện giá của các khoản chi trả tiền
thuê thông thường nhỏ hơn nhiều so
với giá trị của tài sản thuê
Bên thuê chịu trách nhiệm mua bảo
hiểm
Bên cho thuê chịu trách nhiệm mua
bảo hiểm.
12
PHẦN 2
THỰC TRẠNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG:
2.1.1 Chủ thể tham gia trên thị trường:
− Tính đến thời điểm hiện nay thì chỉ có 13 công ty cho thuê tài chính đang
hoạt động chính thức trên thị trường thuê mua ở Việt Nam. Vốn điều lệ của các
công ty cho thuê tài chính trung bình chỉ khoảng 200 tỷ.
− Các chủ thể có nhu cầu thuê tài chính trên thị trường cho thuê tài chính là các

doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh, và cá nhân hoạt động trong
nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, thực tế thì khách hàng đi
thuê chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải và xây dựng.
2.1.2 Hàng hóa trên thị trường:
− Thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Hiện nay, tài sản cho thuê tài chính
chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị đáp ứng được tỷ lệ
37% so với nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp đến là máy móc thiết bị và dây
chuyền công nghệ cũng chỉ đáp ứng được 34% so với nhu cầu của nền kinh tế.
Máy móc, thiết bị của một ngành khác được tài trợ bằng phương thức thuê tài
chính như thiết bị ngành in, máy móc công trình sử dụng cho hoạt động xây
dựng cơ bản cũng chiếm một tỷ trọng thấp so với nhu cầu của nền kinh tế.
− Đánh giá thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Chiến lược khách hàng
tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt ưu tiên cho các doanh
nghiệp làm hàng xuất khẩu, thị trường đầu ra ổn định, có khả năng quản lý và
tiềm năng phát triển tốt. Việc đầu tư dưới hình thức CTTC ngày càng được mở
rộng ở tất cả các lĩnh vực như giao thông vận tải, xây dựng, công nghiệp nhẹ,
công nghiệp chế biến, bệnh viện, nông nghiệp,…Tài sản cho thuê chủ yếu tập
13
trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị… có chất lượng và mức độ
công nghệ có trình độ trung bình, dây chuyền công nghệ cao và máy móc thiết
bị hiện đại tiên tiến còn chiếm một tỷ trọng thấp trong hoạt động cho thuê của
các công ty CTTC. Các công ty CTTC chưa áp dụng tài sản cho thuê là bất
động sản.
2.1.3
Phương thức cho thuê tài chính
.
Tuy có nhiều phương thức giao dịch cho thuê tài chính nhưng trên thị trường cho thuê
tài chính Việt Nam hiện nay phổ biến có 3 phương thức:
− Phương thức giao dịch CTTC 3 bên.
− Phương thức giao dịch CTTC 2 bên.

− Phương thức giao dịch mua và cho thuê lại (bán và tái thuê).
2.1.4 Giá cả cho thuê tài chính.
Giá cả CTTC hiện nay thường cao hơn so với các loại hình tín dụng khác, chưa hấp
dẫn được các khách hàng thuê. Lãi suất CTTC cao hơn so với lãi suất cho vay trung
dài hạn từ 20% đến 25% và cao hơn 10% nếu tài sản được mua sắm trực tiếp từ nhà
sản xuất.
2.2. CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ HẠN CHẾ TỒN TẠI.
2.2.1 Các kết quả đạt được:
− Mặc dù ra đời chưa lâu nhưng hoạt động CTTC của chúng ta đã có những
bước phát triển đáng kể. CTTC thực sự là một kênh dẫn vốn trung và dài hạn
quan trọng được đánh giá là khá hữu hiệu tạo điều kiện thu hút vốn cho các
đơn vị sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các DN vừa và nhỏ. Quy mô hoạt
động kinh doanh CTTC phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua các
năm.
− Có một điều rất đáng khuyến khích là trong hoạt động kinh doanh của mình
các công ty CTTC thường không có sự phân biệt đối xử với các thành phần
14
kinh tế khác nhau, đối tượng CTTC chủ yếu là các DN ngoài quốc doanh; các
DN đi thuê còn được hưởng lợi ích từ các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên
tiến; được hưởng các dịch vụ tư vấn miễn phí và những thông tin cần thiết khác
từ những nhà cung cấp dịch vụ.
− Theo đánh giá chung hoạt động CTTC trong thời gian qua đã dần mở rộng
quy mô đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh số cho
thuê ngày một tăng cao, chất lượng hoạt động CTTC tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá
hạn ở mức cho phép, lợi nhuận năm sau tăng hơn năm trước
− Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được hoạt động CTTC ở Việt
Nam hiện nay còn tồn tại một số vấn đề .
2.2.2 Những hạn chế tồn tại:
− Việc quy định nguồn vốn huy động còn có những bất cập. Theo đó pháp luật
Việt Nam quy định số vốn đầu tư cho các DN đi vay không được vượt quá

30% vốn điều lệ của công ty. Trên thực tế những quy định này đang gây cản
trở cho hoạt động kinh doanh của các công ty CTTC. Bởi vì với quy định như
trên phần lớn việc đầu tư chỉ dừng lại ở các DN có quy mô vừa và nhỏ. Việc
huy động được nguồn vốn cũng như khả năng tích luỹ của các công ty CTTC
là rất khó khăn trong khi đó việc phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn gần
như không thực hiện được vì phải có sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN).
− Nghiệp vụ cho thuê tài chính còn mới mẻ ngay cả đối với người bán chứ
chưa kể đến người tiêu dùng. Do vậy nó chưa được xã hội chấp nhận rộng rãi.
− Hoạt động CTTC của chúng ta hiện nay còn phát triển khá manh mún chưa
có định hướng chiến lược phát triển trong tương lai, trong đó vấn đề nhu cầu
thị trường chưa được tập trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chính sách huy
động vốn. Không những thế hoạt động thuê mua ở Việt Nam cho đến nay còn
15
khá đơn điệu, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn và phần lớn các công ty CTTC đều
chưa thành lập được hệ thống các chi nhánh.
− Các công ty CTTC chưa thiết lập được một mối quan hệ sâu rộng đến các cơ
sở cung ứng máy móc, thiết bị Và đội ngũ cán bộ của công ty còn thiếu
những chuyên gia giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến,
điều này sẽ làm công ty mất đi tính chủ động khi tham gia thị trường.
− Vấn đề quyền được thu hồi tài sản khi bên thuê vi phạm hợp đồng. Trên thực
tế quyền này gần như không thể thực hiện được vì bên thuê thường không chịu
giao tài sản, nếu không có sự hỗ trợ của các cơ quan thi hành pháp luật. Việc
bán tài sản cho bên thứ ba lại phải được sự đồng ý của Bộ Thương mại và như
vậy nảy sinh vấn đề truy thu thuế nhập khẩu? Liệu có nghịch lý không khi mà
chủ sở hữu lại không có quyền định đoạt đối với tài sản của mình?
− Một vấn đề nữa thường được nhắc đến hiện nay chính là vấn đề quáng cáo,
tuyên truyền cho các công ty CTTC. Có thể nói mặc dù đã xuất hiện ở Việt
Nam từ khoảng năm 1997 đến nay nhưng nhìn chung các công ty CTTC còn
khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Trên thị trường Việt Nam hiện nay rất

nhiều DN cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị nhưng
thay vì đến các công ty tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các DN này lại tìm đến
ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để được
vay vốn khó hơn rất nhiều. Thực trạng trên một mặt là do thói quen khó thay
đổi của các DN ở Việt Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt động kinh
doanh CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi ở Việt
Nam.
16
PHẦN 3
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
Với những khó khăn đã nêu trên, chúng tôi đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
− Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính phải trên cơ sở đa dạng hoá các
nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và phát triển đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt
là thị trường vốn và thị trường chứng khoán.
− Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính dựa trên cơ sở sự hình thành và phát
triển của các doanh nghiệp theo hướng đa dạng hoá loại hình sở hữu, đa năng
hoá nội dung hoạt động.
− Hoàn thiện và phát triển cho thuê tài chính Việt Nam phải dựa trên một hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, đơn giản, dễ hiểu,
dễ làm, dễ kiểm tra. Tham khảo và vận dụng có chọn lọc các ưu thế và chuẩn
mực của quốc tế về cho thuê tài chính.
− Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính không nên dừng lại
ở các doanh nghiệp trong nước mà bổ sung thêm đối tác tham gia thành lập là
các doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín
dụng tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính đã trở nên khá phổ biến ở
nhiều nước. Do vậy, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong đối
tác của các công ty cho thuê tài chính giúp cho các công ty cho thuê tài chính
trong nước tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại
trên thế giới. Tuy nhiên, đối tác là các tổ chức tín dụng trong công ty cho thuê

tài chính phải chiếm tỷ lệ vốn đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty.
− Vấn đề quản lý tài sản thuê. Để đảm bảo an toàn hoạt động cho các công ty
cho thuê tài chính, theo kinh nghiệm của nhiều nước, cần phải đăng ký quyền
17
sở hữu tài sản cho thuê, tránh trường hợp bên thuê sử dụng tài sản cho thuê vào
mục đích cầm cố, thế chấp và bán
− Các công ty cho thuê tài chính muốn có tài sản cho thuê thường phải thông
qua uỷ thác hoặc mua lại của các đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm
tăng chi phí và không chủ động cho thuê. Để tháo gỡ khó khăn này, đề nghị
cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp tài sản cho
thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.
− Cần có chính sách miễn, giảm thuế để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê
tài chính áp dụng lãi suất cho thuê phù hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường
như thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với hoạt động cho thuê.
− Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ. Khi
kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê
tài chính kết thúc trước hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy
móc, thiết bị này quả là một việc khó khăn. Việc hình thành các trung tâm môi
giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ khó khăn cho các công ty
cho thuê tài chính trong việc thu hồi vốn.
− Ngoài ra để phát triển các CTTC còn cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ về
hành lang pháp lý, tạo điều kiện để các thành phần tham gia hoạt động dễ dàng
hơn, góp phần tuyên truyền khuyến khích các DN tìm đến với nguồn vốn từ
các CTTC. Các CTC cũng tự mình tuyền truyền hình ảnh, quảng bá dịch vụ
cho thuê tài chính đến rộng rãi các DN, tích cực tham gia tài trợ các dự án phát
triển kinh doanh của các DN, mỗi CTTC phải góp phần đưa thị trường CTTC
của Việt Nam phát triển mạnh mẽ bền vững và hình thành nên các Hội các
CTTC tại Việt Nam.
18

KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên người đọc đã nắm được thế nào là hoạt động cho thuê tài chính,
tại sao hoạt động cho thuê tài chính lại được xem là một hoạt động tín dụng trung và
dài hạn, sự khác nhau giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành như thế nào, vai
trò của hoạt động cho thuê tài chính đối với nền kinh tế. Ngoài ra chúng tôi cũng giới
thiệu sơ nét về thực trạng cho thuê tài chính ở Việt Nan hiện nay, những kết quả đạt
được và những hạn chế tồn tại. Chúng tôi cho rằng, trong bối cảnh các ngân hàng
đang siết chặt tín dụng như hiện nay thì các doanh nghiệp nên xem xét đến việc sử
dụng hoạt động cho thuê tài chính như là một trong những kênh tài trợ hữu hiệu cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
19
MỤC LỤC
20

×