Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Mối quan hệ , Pháp luật , Tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.73 KB, 24 trang )

Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
Lời mở đầu
Thế giới ngày càng phát triển, con người ngày một tiến bộ và xã hội cũng đang
dần đổi mới. Nhìn lại chặn đường đã qua, chúng ta không thể không nhắc đến cả một hệ
thống các quy phạm đa dạng và phong phú mà nếu không có nó thì không biết xã hội
này như thế nào. Trong hệ thống quy phạm ấy, nổi bật là hai loại quy phạm đã góp phần
điều chỉnh phần lớn các hành vi của con người: Quy phạm pháp luật và quy phạm tôn
giáo.
Ở Việt Nam, trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ "thực dân và phong kiến thực
hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương
(
*
)
để thống trị. Tôi đề nghị
Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết". Quan điểm đó của
Người đã được thừa hưởng và kế thừa xuyên suốt qua Hiến Pháp của Việt Nam. Ngoài
ra ở rất nhiều quốc gia một tôn giáo được coi là quốc giáo như: Cộng hòa Italia (Công
giáo chiếm 98% dân số), Vương quốc Arập-Xêút (Hồi giáo chiếm 100%) hay Vương
quốc Thái Lan (Phật giáo chiếm 95%). Từ đó có thể thấy được sự quan trọng của tôn
giáo đối với Nhà nước và Pháp luật.
Hoạt động tôn giáo ngày càng sôi động và đã trở thành một nhu cầu tinh thần
không thể thiếu của phần lớn con người. Nhiều tôn giáo đã được mở rộng ra toàn cầu và
ngày càng phổ biến như: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành… Việc phát triển mạnh
mẽ của tôn giáo đã củng cố niềm tin của giáo dân, góp một phần vào sự phát triển ổn
định của xã hội. Song song những tác động tích cực đó, tôn giáo cũng có nhiều mặt hạn
chế và tác động tiêu cực vì vậy vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận và tìm hiểu. Trong
phạm vi kiến thức của mình chúng tôi xin trình bày một số vấn đề cơ bản về mối quan
hệ phức tạp này trong tiểu luận “Mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo”.
Trang 1
(


*
)
Xem một số định nghĩa ở trang 3.
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIỂU LUẬN
1. Mục đích của tiểu luận:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật, tôn giáo.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật vào tôn giáo.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo trong tình hình
Việt Nam hiện nay.
2. Đóng góp của đề tài:
- Làm sáng tỏ mối quan hệ, tác động giữa Pháp luật và Tôn giáo.
- Đề xuất các quan điểm, kiến nghị nhằm hoàn chỉnh Pháp luật về Tôn giáo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận này nghiên cứu chủ yếu mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo ở Việt
Nam. Ngoài ra còn có tham khảo tài liệu về quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo
của một số quốc gia khác.
4. Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu
luận gồm 3 chương, 16 mục.
5. Một số khái niệm mở đầu:
- Tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh xã hội một cách hư ảo,
được một bộ phận quần chúng tin theo, tôn thờ theo những lễ nghi, lề luật chặt chẽ;
nó còn là một thực thể xã hội được xác định dựa trên các dấu hiệu: có giáo lý, giáo
luật, có hình thức tổ chức quản lý và hình thành cộng đồng tôn giáo, có cơ sở vật
chất nhất định.
- Hoạt động tôn giáo: Hoạt động tôn giáo là những hoạt động cụ thể của tổ chức tôn
giáo và cá nhân tín đồ, chức sắc, nhà tu hành nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu
tôn giáo của cộng đồng và từng cá nhân.
- Tín điều tôn giáo: Thường bao gồm những lí thuyết vê các đấng thiêng liêng, về thế

giới, về con người và các quy tắc, quy định về trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ của
những người theo tôn giáo đó, những nghi lễ, cách ứng xử cần thiết mà mỗi tín đồ
cần thực hiện trong đời sống đạo của mình.
Trang 2
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
- Đồng bào Lương: Người Công Giáo hay gọi những người không phải Kitô Giáo
là Lương Dân.
- Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho mọi người
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước bảo đảm thực hiện, thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị, là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội.
- Quy phạm pháp luật: là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để
thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị, mang tính bắt buộc chung và được
Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Trang 3
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
CHƯƠNG 2:
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ TÔN GIÁO
2.1. So sánh pháp luật và tôn giáo
2.1.1. Những điểm giống nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
Tôn giáo và pháp luật đều sinh ra với tác dụng là những công cụ điều chỉnh quan
hệ xã hội, chúng đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi con người, vì một
xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
2.1.2. Những điểm khác nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
- Con đường hình thành của tôn giáo và pháp luật là khác nhau:
o Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua những trình tự thủ tục chặt
chẽ. Mỗi Nhà nước thường có những quy định về trình tự, thủ tục ban
hành pháp luật khác nhau và đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt của các tổ
chức, cá nhân tham gia. Pháp luật do Nhà nước ban hành dưới những hình
thức chuyên biệt nhất định như tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
phạm pháp luật. Trong các Nhà nước đương đại, pháp luật tồn tại chủ yếu

dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Luật…Về
mặt cấu trúc, các quy phạm pháp luật còn được tập hợp thành các hệ thống
lớn nhỏ khác nhau như chế định pháp luật, ngành luật, hệ thống luật pháp
quốc gia.
o Sống giữa thiên nhiên diệu kì và khắc nghiệt, con người luôn mong muốn
hiểu biết về thiên nhiên, tìm cách khai thác thiên nhiên một cách hiệu quả
nhất. Song, không phải khi nào con người cũng hiểu biết được hết về thiên
nhiên nên đôi khi có một số lĩnh vực họ thần thánh hóa, linh thiêng hóa
thiên nhiên.Tuy vậy, không chịu khuất phục trước thiên nhiên con người
tìm cách lý giải, hóa giải những cái “thiêng” bằng tín ngưỡng, tôn giáo là
thờ cúng, hiến tế và cầu xin, thậm chí là chinh phục, sai khiến những cái
thiên đó. Dựa vào tôn giáo, con người tìm cách khống chế những cái
“thiêng” của tự nhiên, cậy nhờ những đấng linh thiêng để làm lợi cho cuộc
sống của con người, đồng thời cũng tự an ủi mình đối với những đau khổ,
Trang 4
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
khó khăn, sự bất lực của bản thân trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo vì
vậy mà được hình thành từ rất sớm và phát triển tới tận ngày nay và vẫn sẽ
tiếp tục phát triển một thời gian dài trong xã hội loài người. Tôn giáo
thường được thể hiện qua các cuốn kinh ví dụ như Kinh Coran (Hồi
Giáo); Kinh cầu siêu, Kinh Kim cang (Đạo Phật)…
- Pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước rất chặt chẽ,
chính xác và nghiêm minh, trong đó có các biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc như tù
có thời hạn, tù chung thân thậm chí tử hình. Trong khi đó, tín điều tôn giáo chỉ được
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính xã hội như bị các tín đồ khác trong
giáo lên án, tẩy chay hoặc nặng nhất là khai trừ khỏi giáo hội. Sự trừng phạt trong pháp
luật luôn có giới hạn, các biện pháp và mức độ trừng phạt luôn được quy định chính xác
trong pháp luật. Sự trừng phạt sẽ chấm dứt ngay sau khi chủ thể bị trừng phạt chấp hành
xong hình phạt. Biện pháp trừng phạt trong tôn giáo thường ít khi được quy định trước
mà tùy thuộc vào chủ thể áp dụng. Mặc dù các biện pháp trừng phạt trong tôn giáo ít

nghiêm khắc hơn so với pháp luật; song, đôi khi lại có thể kéo dài vô tận. Ví dụ như sự
lo lắng về luật nhân quả trong đạo Phật, người gây ra tội lỗi thường lo sợ đến một ngày
nào đó họ sẽ phải trả giá cho những gì mình đã gây ra, vì thế họ luôn sống trong sự dằn
vặt, lo sợ. Đây có thể coi như là một biện pháp trừng phạt vô hạn.
- Các quy định của pháp luật thường chặt chẽ, chính xác và thống nhất hơn so với
tín điều tôn giáo. Các quy định của pháp luật luôn phải được nhận thức và thực hiện, áp
dụng chính xác, thống nhất trong phạm vi hiệu lực của nó. Sự chính xác đến từng chi
tiết, từng mô hình hành vi là đòi hỏi cần thiết của pháp luật trong xã hội văn minh. Các
quy định của tôn giáo trong nhiều trường hợp lại rất chung chung và không thống nhất
nên đôi khi sự đánh giá và phạm vi áp dụng có sự thay đổi tùy thuộc vào từng tình
huống cụ thể.
- Trong một đất nước chỉ tồn tại một hệ thống pháp luật duy nhất do Nhà nước ban
hành nhưng có thể tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau.
Trang 5
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
- Mục đích của pháp luật mang tính hiện thực, còn tôn giáo là ngoài mục đích hiện
thực, thường có lý tưởng cao xa hơn nhiều. Ví dụ: nghĩ về chốn thiên đàng, chuẩn bị cho
kiếp sau…
- Cách thức và cơ chế điều chỉnh của pháp luật và tôn giáo cũng có những điểm
khác nhau. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi con người bằng cách quy
định cho chủ thể tham gia các quan hệ đó các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nói
cách khác là quy định những hành vi được phép, những hành vi bắt buộc và những hành
vi bị cấm đoán. Tôn giáo điều chỉnh hình vi của tín đồ của mình bằng cách quy định
nghĩa vụ, bổn phận của họ, xác định cho họ những hành vi nên làm, không nên làm, cần
phải làm, không được làm. Mặt khác, trong pháp luật, sự cho phép, bắt buộc hay cấm
đoán luôn được xác định rất rõ ràng. Để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với chủ
thể, Nhà nước quy định các biện pháp cưỡng chế sẽ được áp dụng trong bộ phận chế tài
của quy phạm pháp luật. Ngược lại, hầu hết những nghĩa vụ, bổn phận của tín đồ thường
không mang tính xác định một cách chặt chẽ. Đó chỉ mới là những lời răn của tín điều
tôn giáo đối với tín đồ: nên, không nên hay cần phải, không được…

2.2. Tác động qua lại giữa pháp luật và tôn giáo
Từ lâu, pháp luật và tôn giáo đã có mối quan hệ gắn bó, chúng tác động qua lại
lẫn nhau: Tích cực và tiêu cực. Phần sau đây sẽ làm rõ những tác động cụ thể đó.
2.2.1 Tác động tích cực
2.2.1.1. Pháp luật tác động tích cực đến tôn giáo
- Thứ nhất: Pháp luật hướng tôn giáo theo con đường đúng đắn. Khi một tôn giáo
có các tư tưởng, quan niệm, giáo điều không phù hợp với xã hội hiện tại, gây cản trở,
kìm hãm sự phát triển, tác động xấu đến xã hội thì pháp luật sẽ, bằng các biện pháp của
mình, điều chỉnh hay loại bỏ.
- Thứ hai: Pháp luật tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển. Với những đặc điểm
riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương chính sách của Nhà
nước một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả trên quy mô lớn. Ví dụ như: Điều 70
Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung 2001 đã quy định: “Công dân có quyền
tự đo tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều
bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật
Trang 6
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự đo tín ngưỡng, tôn giáo…”. Đã góp phần tạo điều
kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, pháp luật
còn trừng trị những kẻ xâm hại đến lợi ích và bảo vệ quyền lợi của tôn giáo.
2.2.1.2. Tôn giáo tác động tích cực đến pháp luật
- Thứ nhất: Tôn giáo giúp xây dựng pháp luật. Khi xã hội phát triển đến một giai
đoạn nhất định thì rất nhiều tín điều tôn giáo được “pháp luật hóa”, chúng trở thành
những quy phạm pháp luật được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Ví dụ như:
o Trong đạo thiên chúa có quy định về việc kết hôn “một vợ, một chồng”,
quy định này phù hợp với xã hội và được nâng lên thành luật trong Luật
Hôn nhân và gia đình của Việt Nam.
- Thứ hai: Tôn giáo giúp pháp luật phát triển và hoàn thiện. Trong quá trình phát
triển của tôn giáo, sẽ có lúc pháp luật dự báo trước được những nguy cơ tiềm tàn mà tôn
giáo đem đến hay phát hiện ra những kẽ hở, thiếu sót trong trong pháp luật hiện hành.

Sau đó, pháp luật sẽ tự điều chỉnh mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh, giảm thiểu
những ảnh hưởng xấu và từ đó hoàn thiện mình hơn.
- Thứ ba: Tôn giáo san sẻ một phần gánh nặng cho pháp luật.
o Hầu hết các tôn giáo đều có các giáo lý, giáo điều luôn khuyên răn con
người trong thế giới trần gian này phải biết làm điều thiện, giúp đỡ người
khó khăn, tránh xa cái ác. Khi các giáo dân thực hiện theo các giáo lý đó
thì đã phần nào đã giúp xã hội ổn định và phát triển.
o Trong một số tôn giáo, cái chết chỉ là sự thay đổi về hình thái và địa điểm
sinh sống, điều này giúp con người giải thoát khỏi nỗi sợ lớn nhất – cái
chết, giúp họ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn, ít lo sợ và sống vui vẻ hơn.
Và xã hội sẽ bình yên hơn nếu mọi người đều sống mà không lo sợ về cái
chết (điều này thì pháp luật không làm được).
o Ngoài ra, do một số các tín điều tôn giáo đã được nâng thành luật nên chỉ
cần giáo dân nghe theo các tín điều tôn giáo đó thì cũng giống như họ
đang chấp hành pháp luật.
Từ các điều trên có thể thấy nhờ có tôn giáo mà công việc quản lý, kiểm soát xã
hội của pháp luật đã nhẹ đi phần nào.
Trang 7
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
2.2.2. Tác động tiêu cực:
 Về cơ bản pháp luật không đối lập, không ngăn cấm, không loại trừ tín điều tôn
giáo, không tác động xấu đến tôn giáo. Trong quá trình phát triển của mình, đôi khi tôn
giáo có các tín điều, giáo lý hay hoạt động không phù hợp, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe,
danh dự, tính mạng của cá nhân hoặc trái với đạo đức, văn hóa, không phù hợp với tiến
bộ xã hội. Lúc đó pháp luật sẽ sẽ ngăn cấm, kìm hãm hoặc loại bỏ nó. Vì thế trong phần
này, chúng tôi sẽ không đề cập cập về vấn đề pháp luật tác động tiêu cực đến tôn giáo.
 Như đã trình bày ở trên, tôn giáo vẫn có những giáo lý gây ra không ít phiền toái,
tác hại cho mỗi người và xã hội. Chưa kể là một số người đã cố tình lợi dụng tôn giáo để
làm những điều xấu với mục đích vụ lợi vật chất hay chính trị, gây ra tổn hại về tiền của,
tâm lý, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường hay nghiêm trọng hơn là sức khỏe và tính

mạng của con người. Phần sau đây sẽ chủ yếu trình bày những tác động tiêu cực của các
hoạt động tôn giáo trong phạm vi Việt Nam là chủ yếu.
- Thứ nhất: Vi phạm trong cách thức thành lập: Ở Việt Nam, những năm gần đây,
hoạt động tôn giáo diễn ra không chỉ diễn ra sôi nổi trong phạm vi toàn quốc mà còn mở
rộng quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài. Một số tôn giáo mới thâm nhập vào
Việt Nam; nhiều tổ chức và hội đoàn tôn giáo trong nước phục hồi, phát triển mà không
xin phép chính quyền. Các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam khi chưa được Nhà nước
công nhận tư cách pháp nhân và cho phép hoạt động thì sẽ phải tan rã, không được duy
trì. Dù biết rằng hoạt động mà không xin phép như vậy là trái pháp luật nhưng một số cá
nhân, tổ chức vẫn cứ làm.
- Thứ hai: Một số lễ nghi tôn giáo vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Như đã biết,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, là nguồn giải tỏa những bức
xúc, ham muốn mà con người không hoặc chưa thể thực hiện được. Tôn giáo dựng lên
một đấng siêu nhiên có thể làm mọi thứ để mọi người có thể cầu xin giúp đỡ hay phù hộ.
Đương nhiên, cùng với những thỉnh cầu thì sẽ cần cúng tế hay hiến tế. Trong lịch sử, đã
ghi lại nhiều cuộc hiến tế của thổ dân Aztec. Và hiện nay một số ít các tôn giáo ở các
quốc gia nghèo khó, lạc hậu vẫn còn duy trì hành động “giết người” này chỉ để “cầu
mưa” hay “cầu mùa vụ”. Gần đây nhất là vụ hiến tế người hàng loạt ở Uganda, đối
Trang 8
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
tượng bị hiến tế chủ yếu là trẻ em. Họ hiến tế đơn giản vì họ tin rằng khi dâng cúng máu
và các bộ phận con người cho thần linh thì họ sẽ được “phù hộ” để nhanh chóng trở nên
giàu có. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, tác động đến quyền cơ bản của con người mà
không ai có thể xâm phạm: Quyền được sống.
- Thứ ba: Vi phạm trong lĩnh vực in ấn, xuất bản sách kinh tôn giáo. Ở nhiều quốc
gia trong đó có Việt Nam, số kinh sách, tài liệu, văn hóa phẩm tôn giáo dù được nhập
vào trong nước rất nhiều, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ nhưng việc in
ấn xuất bản, nhập khẩu không xin phép vẫn tiếp tục diễn ra. Các ấn phẩm đó không có
xuất xứ, không có giấy phép rõ ràng (chủ yếu do photocopy), từ đó vi phạm các luật và
công ước về bản quyền.

- Thứ tư: Vi phạm trong xây, sửa nơi thờ tự. Hiện nay, ở một số địa phương của
Việt Nam việc sửa chữa, xây dựng mới nơi thờ tự (như: chùa, nhà thờ, tháp tôn giáo,…)
mà không xin phép hay làm không đúng nội dung xin phép vẫn diễn ra rất nhiều. Mặc dù
Điều 12 Nghị định số 26 của Chính phủ đã quy định: “Việc sửa chữa lớn làm thay đổi
cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bi hoang
phế, bị hủy hoại do chiến tranh, do thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự; việc xây
dựng công trình thờ tự (nhà tượng, bia, đài, tháp và các công trình nhằm mục đích thờ
tụ) phải được phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Một số giáo hội cố tình vi
phạm, khi chính quyền phát hiện, giáo hội thường xin phạt hành chính để các công trình
xây dựng sai vẫn tồn tại, làm cho mọi chuyện như đã rồi. Nếu chính quyền không chấp
nhận thì họ dùng quần chúng tín đồ để gây sức ép, buộc chính quyền phải đồng ý. Điều
này không những vi phạm pháp luật về xây dựng mà còn tác động xấu đến hành vi của
giáo dân, vì họ sẽ nhìn từ hành vi của giáo hội mà thực hiện theo.
- Thứ năm: Hoạt động tôn giáo bị lợi dụng để chống phá Nhà nước. Ngày nay, khi
mà các hoạt động tôn giáo cũng đang toàn cầu hóa thì việc các thế lực thù địch sử dụng
tôn giáo như một công cụ hữu hiệu để chống phá một quốc gia là hết sức phổ biến. Tôn
giáo là một lĩnh vực khá nhạy cảm, có thể tạo ngòi nổ gây mất ổn định chính trị, xã hội.
Đơn cử như Việt Nam chúng ta. Các thế lực thù địch bên cạnh hoạt động xuyên tạc chủ
trương, chính sách tôn giáo của Nhà nước, còn tăng cường vu cáo Việt Nam đàn áp tôn
Trang 9

×