Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.16 KB, 20 trang )

1. ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ VĂN HỌC
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, như màu sắc đối với hội
họa, âm thanh đối với âm nhạc , hình khối đối với kiến trúc . Nói cho
cùng , văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ. Những nhà văn lớn đều
là những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong sự sáng tạo của nhà văn,
sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng. Trong sự lao động
nghệ thuật của nhà văn có một sự lao tâm khổ tứ về tác tác phẩm
văn học, để sáng tạo ra ngôn ngữ văn học. Giữa ngôn ngữ đời sống
và ngôn ngữ văn học có sự khác biệt. Theo Gorki, ngôn ngữ nhân
dân là tiếng nói “ nguyên liệu” , còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã
được những người thợ tinh xảo nhào luyện.
Ngôn ngữ văn học có những đặc điểm riêng:
Ngôn ngữ văn học chính xác, tinh luyện. Thường thì một khái niệm
có nhiều từ để diễn tả, nhưng chỉ một từ là đúng, là chính xác với
điều nhà văn muốn nói. Trong khi viết văn, nhà văn phải lựa chọn từ
nào là chính xác nhất. Các nhà văn cổ điển đã giác ngộ về ngôn ngữ
sâu sắc, vì vậy, tác phẩm của họ có giá trị bền lâu.
Nguyễn Du tả Thúy Vân:
…Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Và tả Thúy Kiều:
…Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
“ Thua” và “ nhường”, “ghen” và “hờn” là những từ “ định mệnh” của
hai nhân vật, chính xác một cách tuyệt đối.
Tản Đà đã cân nhắc từ “ tuôn” và “khô” cho câu thơ:
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Cuối cùng là tác giả đã chọn từ “ khô” vì nó sâu hơn, chính xác hơn,
tinh luyện hơn
Nói đến đặc điểm này cũng nên nhớ đến một ý kiến của Victor Hugo.
Ông nói : “ Trong tiếng Pháp không có từ nào hay, tù nào dở, từ nào
đặt đúng chỗ là từ đó hay”.


Lúa níu anh trật dép
( Trần Hữu Thung )
Từ “ níu” rất quen thuộc , được đặt vào văn cảnh này ý nghĩa trở nên
mênh mông.
Mình đi mình có nhớ mình
(Việt Bắc – Tố Hữu )
Từ “ mình” rất cũ, Tố Hữu đã dùng với ý nghĩa mới để diễn đạt nội
dung tư tưởng cách mạng.
Đúng như Maiakôpxki nói “ làm thơ là cân từ 1/ 1000 mg quặng
chữ”.
Đặc điểm thứ hai của ngôn ngữ văn học là tính hình tượng. Ngôn
ngũ văn học không trừu tượng như ngôn ngữ triết học , chính trị,
cũng không phải ngôn ngữ kí hiệu hóa như một số môn khoa học.
Ngôn ngữ văn học trực tiếp xây dựng hình tượng trong tác phẩm nên
nó không trừu tượng mà mang tính chất cảm tính cụ thẻ.
Ngôn ngữ gợi màu sắc:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
(Hàn Mạc Tử)
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
( Xuân Diệu)
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
( Nguyễn Du)
Ngôn ngữ gợi đường nét:
Lơ thơ tơ liễu buông mành
Ba âm “ơ” (lơ, thơ, tơ) gợi đường nét thưa thớt của những chiếc lá
liễu buông mành
Súng bên súng đầu sát bên đầu
( Chính Hữu)
Hình ảnh của tình đồng chí : nét thẳng ( súng) của ý chí hòa hợp với
nét cong ( đầu) của tình cảm.

Ngôn ngữ gợi hình khối :
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
( Hồ Chí Minh)
“ Cổ thụ” là một khối to đậm tiểu biểu cho sự hùng vĩ của núi rừng .
“Hoa” là một nét nhỏ, nhẹ tiêu biểu cho vẻ thơ mộng của núi rừng.
Tất cả đều nhuốm ánh trăng thật là huyền ảo.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa.
Từ “ đùn” miêu tả sự vận động của những khối mây như núi bạc .
Bên cạnh khối mây khổng lồ đó , cánh chim đã nhỏ lại càng nhỏ hơn.
Huy Cận đã diễn tả tài tình tâm trạng cô liêu trong tâm hồn thi nhân.
Nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả tâm trạng của ông khi trở về thăm người
mẹ nuôi xưa với ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và nhạc tính:
Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát…
Nhà thơ Tố Hữu nói: “ Nhịp điệu của hai câu thơ là nhịp điệu của
sóng gió và cũng là nhịp điệu của náo nức xôn xao và biết bao sung
sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình”.
Đặc điểm thứ ba của ngôn ngữ văn học là tính biểu cảm. Ngôn ngữ
văn học chẳng những phải chính xác, phải có tính hình tượng mà còn
có giá trị biểu cảm. Văn học trực tiếp bộc lộ cảm xúc của nhà văn
qua ngôn ngữ văn học. Nhà nghệ sĩ giàu cảm xúc nên ngôn ngữ văn
học giàu tính biểu cảm. Tất nhiên, tính biểu cảm có thể bộc lộ dưới
nhiều dạng thức: trực tiếp, gián tiếp, có hình ảnh hoặc là ngôn từ
thuần túy.
Khi Nguyễn Trãi viết: “ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn” thì
“nướng” đã chứa chất cả tinh thần phẫn nộ của ông đối với giặc
Minh.

Khi Tú Xương viết : “ Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông” thì từ “lèn” vừa
diễn tả chính xác hành vi của kẻ cướp , lại vừa bộc lộ thái độ châm
biếm , chế giễu tên quan tuần phủ.
Khi Xuân Diệu viết : “ Con cò trên ruộng cánh phân vân” thì cánh cò
đấy tâm trạng của trái tim đang yêu của nhà thi sĩ.
Khi Chế Lan Viên viết : “ Ta là ta mà vẫn cứ mê ta” là ông quá say
mê với cuộc sống , quá tự hào về thời đại và dân tộc mà ông đã diễn
tả bằng một thứ ngôn ngữ trần trụi như thế.
Nói đến ngôn ngữ văn học không thể quên được lời nhận xét tinh
tường của Pautôpxki ( Nga) : “ Thi ca có một đặc tính kì lạ. Nó trả lại
cho chữ cái tươi mát, trinh bạch ban đầu. Những chữ tả tơi nhất mà
chúng ta đã nói cạn đến cùng , mất sạch tính chất hình tượng , đối
với chúng còn lại chẳng khác gì một cái vỏ chữ . Những chữ ấy trong
thi ca lại sáng lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương”.
(sưu tầm)
Xem thêm các bài viết liên quan:
Một đề xuất mới của GS Nguyễn Tài Cẩn về việc dịch câu cuối trong
bài thơ Nam quốc sơn hà…rất cần được tiếp tục triển khai. Nhiều khi,
một kiến giải khoa học hữu lí nhưng vì phương tiện truyền thông ít
thuận lợi nên không đến được với nhiều người và không được góp
phần nâng cao tri thức cộng đồng , để cho những ý kiến chưa chính
xác tồn tại lâu dài, cái sai này nối tiếp cái sai khác. Tôi viết bài này
trong niềm nhớ thương người thầy vừa đi xa, đồng thời nối gót làm
rõ ý của thầy hơn dù biết kiến thức của mình vẫn hết sức nông cạn.
Tôi sẽ trích dài một đoạn viết của thầy mà khi đọc thấy rất tâm đắc
trên nhiều mặt.
Trong cuốn Ảnh hưởng Hán văn Lí Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ
Nguyễn Trung Ngạn, in năm 1998, GS Nguyễn Tài Cẩn viết:
(Trích) “Cố nhiên, những sự khó khăn, những sự sai lầm trong việc
phân tích lại đang có thể thêm một nguyên nhân rất cơ bản, phải kể

đến nữa. Đó là sự hiểu biết có hạn của chúng tôi về ngữ pháp tiếng
Hán nói riêng, về toàn bộ các mặt của tiếng Hán nói chung. Trước
đây chúng tôi có viết một bài, trong đó có đưa ra một cách phân tích
mới về hai chữ hành khan trong câu cuối bài thơ Lí Thường Kiệt. Bài
in ra, có bạn cho rằng cách ngắt nhịp không đúng, nhưng chúng tôi
vẫn giữ ý kiến, bởi lẽ chuyện các nhà thơ phá nhịp là chuyện có thể
có (xin xem lại mấy ví dụ của Nguyễn Trung Ngạn đã nêu trên đây).
Rồi có bạn phê bình, nếu hiểu như cách chúng tôi hiểu thì phải đọc
hàng chứ không đọc hành: một nhận xét hoàn toàn chính xác.
Nhưng lập luận của chúng tôi về ngữ pháp thì không vì thế mà thay
đổi. Hơn nữa, cách đọc sai thì trước cũng đã có tiền lệ: mắng tin,
tượng mắng các cụ ta trước cũng đọc nhầm rồi thành thói quen, tiếp
tục đọc mảng tin, tượng mảng cho đến bây giờ! Ngay hành với hàng
cũng vậy: ở truyện Kiều cụ Đào Duy Anh ghi là hàng, nhưng ở Hán
Việt từ điển cụ lại ghi là hành khi nói đến ngọn núi Thái Hàng ở Trung
Quốc. Chỉ đến khi hỏi bạn bè quốc tế thì chúng tôi mới thấy chỗ sai
cơ bản của mình về ngữ pháp: chữ hàng chỉ đứng sau bổ ngữ chứ
không đứng sau chủ ngữ. Rồi đến lúc đọc Thiên hồ, đế hồ của Phan
Bội Châu chúng tôi lại gặp hành khan với nghĩa bị động, là “nằm ở
tình thế chịu hay được”. Đem bàn với anh bạn Hoàng Trung Thông,
một nhà thơ có trình độ về Hán học, thì lại được anh cho biết lúc nhỏ
anh cũng nghe giảng như vậy: Lí Thường Kiệt làm bài thơ này vào
lúc khó khăn, quân ta có phần nao núng, ông phải mượn lời thần
nhân kích động ba quân:
“Cớ sao lúc bọn giặc ngang ngược đến
xâm phạm
Các người lại chịu nhận lấy sự thua thiệt?!”
Rõ ràng chỉ một câu thôi mà chúng tôi cứ lúng túng mãi, huống hồ là
đứng trước gần 600 trăm câu của Nguyễn Trung Ngạn! Phần thiếu
sót chắc chắn là có, không thể nào tránh khỏi” (Trang172 – 173. Hết

trích).
Qua phần trích trên đây, hãy tạm gác lại nhận thức của GS và của
nhà thơ Hoàng Trung Thông về tác giả bài thơ Nam quốc sơn hà là
Lí Thường Kiệt, ta có thể nhận thấy chính GS Nguyễn Tài Cẩn là
người đầu tiên phát hiện ra và tìm cách lí giải về hai chữ HÀNH
KHAN trong câu cuối của bài thơ. Ông đã từng giải quyết vấn đề này
qua một bài viết tham dự Hội nghị khoa học vào năm 1979 tổ chức
tại Trường đại học Tổng hợp. Trong đó ông cho rằng, cách ngắt nhịp
của câu thơ cuối là Nhữ đẳng hành / khan thủ bại hư rồi hiểu câu thơ
là “Chúng mày sẽ hiển nhiên chuốc lấy thất bại ngay trước mắt” và
kết luận về tính chất đanh thép của phát ngôn ở câu kết bài thơ. Tuy
nhiên, suốt 19 năm sau đó, ông không thôi băn khoăn về kiến giải
của mình, tìm cách gặp gỡ trao đổi, đọc thêm tài liệu, lắng nghe các
phản biện của đồng nghiệp, thừa nhận sai sót của mình và đưa ra ý
kiến mới mà chúng tôi vừa trích dẫn. Ta thấy quả là một tư cách
trung thực, cầu thị đáng quý của một nhà nghiên cứu lão luyện.
Không phải ai trong giới khoa học hiện nay cũng đủ đức tính quý báu
này.
Ý kiến trên của GS Nguyễn Tài Cẩn (với sự đồng thuận của nhà thơ
Hoàng Trung Thông) rất tiếc cho đến nay vẫn chưa được những nhà
biên soạn sách giáo khoa phổ thông hay giáo trình đại học tham
khảo một cách nghiêm túc. Trong những lần trao đổi học thuật cùng
Giáo sư Bùi Duy Tân, người quyết tâm tìm tòi tác giả bài thơ Nam
quốc sơn hà, chúng tôi nêu ý kiến về vấn đề mà GS Nguyễn Tài Cẩn
đã đặt ra. GS Bùi Duy Tân tâm sự: “Cái đúng, cái mới nhiều khi khó
được chấp nhận bởi thói quen hình thành lâu ngày. Vả lại, nó cần
được khảo cứu và biện luận một cách thuyết phục hơn nữa. Đó là
công việc của các anh”.
Tiếp nối công việc của GS Nguyễn Tài Cẩn, chúng tôi tìm tiếp những
ngữ liệu để mong hiểu bài thơ, vẫn được ghi trong Đại Việt sử kí

toàn thư và được phổ biến rộng rãi này, rõ hơn. Thực ra, hai chữ
hành khan đã từng xuất hiện trong thi phú Trung Hoa thời trung đại
mà từ điển cung cấp cho chúng ta. Hành khan được sử dụng với 2
nghĩa chính:
-Nghĩa 1: Tương tự như thả khan, có thể hiểu sang tiếng Việt là vả
xem, xem ra. Hàn Dũ (768 – 824), nhà thơ đời Đường trong bài Lâm
Châu kỳ vũ viết: Hành khan ngũ mã nhập / tiêu táp dĩ tùy hiên. Có thể
dịch là Xem ra năm ngựa vào / Xơ xác dựa theo xe. Cao Minh
(1305?-1359?), nhà soạn kịch đời Nguyên trong Tỳ bà kí, tiết Tài
Tuấn đăng trình viết: Hành khan thủ, triều tử thần phượng trì ngao
cấm thính ti luân. Có thể dịch là: Xem ra được: chầu đền vua, ao
phượng, cung ngao, mà nghe chiếu chỉ.
-Nghĩa 2: Tương tự như hựu khan với nghĩa Việt là lại xem. Giả
Đảo (779 – 843), nhà thơ đời Đường trong bài Tống khứ Hoa pháp
sư viết Mặc thính hồng thanh tận / Hành khan diệp ảnh phi. Có thể
dịch là Lặng nghe tiếng ngỗng dứt / Lại xem bóng lá bay.
Chúng tôi quan tâm đến nghĩa 1 của hai chữ hành khan. Đứng sau
hành khan sẽ là một trạng thái, một hoàn cảnh, một tính chất mà chủ
từ trong ngữ đoạn không lường trước, không chủ ý đón đợi hoặc
chưa từng mong muốn, chỉ có chủ thể phát ngôn, bởi tầm quan sát
toàn cục mà nhận ra được. Hai chữ này khá tương đồng với hai chữ
xem ra được dùng trong tiếng Việt. Về cấu tạo, chúng đều được tạo
nên bởi hai thực tự: ra – hành: chỉ hành vi, trạng thái di chuyển: xem
– khan: Chỉ hành vi dùng mắt nhận thức thực tại. Về sử dụng trong
ngữ đoạn, chúng đều nằm dưới dạng như là một quán ngữ, trực tiếp
biểu lộ sự đoán định, đánh giá, nhận thức, thái độ của người phát
ngôn về thực tại được miêu tả, tức là, vốn một liên kết 2 thực tự
đang bị chuyển thành nghĩa hư tự. Trong tiếng Việt ta gặp nhiều hiện
tượng này. Vị thành giai cú tập biên của Trần Tế Xương cho ta ngữ
liệu Đường mật xem ra ngọt hóa cay. Hoặc như trong Truyện Kiều

Vân xem trang trọng khác vời thì diễn xuôi ra là : Thúy Vân xem ra
trang trọng khác bạn bè đồng lứa. Còn trong nói năng hàng ngày ta
vẫn nghe:
-Hàng cây kia xem ra sắp bị héo.
-Làng xóm xem ra ngập hết rồi.
-Dạo này xem ra hơi bị căng thẳng tiền nong.
-Tình hình xem ra không được ổn.
Rõ ràng là câu thơ cuối của Nam quốc sơn hà đã sử dụng nghĩa 1
trên đây:
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Phải được hiểu là:
Chúng bay, xem ra lại chịu chuốc lấy bại hư?!
Vậy thì ở đây hai chữ hành khan không nằm ở thế bị động (như GS
Nguyễn Tài Cẩn quan niệm) mà thế bị động nằm ở chữ thủ, tạo ra
một liên kết lỏng hành khan thủ như ví dụ trong bài kí của Cao Minh
đã dẫn ở trên. Chính cả liên kết lỏng này mới chỉ định thế bị động
của phát ngôn. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu còn cho ta ngữ liệu
về chữ thủ này ở mục Thủ tiếu với nghĩa chuốc lấy tiếng cười của
thiên hạ, để cười cho thiên hạ. Chữ thủ này thì nét nghĩa sẽ tương
đương với tiếng Việt là được / bị / phải / chịu.
Đến đây, văn bản bài thơ ở bản ghi Đại Việt sử kí toàn thư (bản xưa
nay vẫn được coi là bản thông dụng nhất), phải được phiên và dịch
là:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa là:
Sông núi nước Nam, Nam đế quản trị
Hiển nhiên đã định phận tại thiên thư

Cớ làm sao bọn giặc ngỗ ngược đến xâm
phạm
Mà chúng bay, xem ra lại chịu chuốc lấy bại
hư?!
Rõ ràng là lời của Thần Trương Hống Trương Hát nói với quân ta.
Thần nêu ra chân lí hiển nhiên, thần nhận rõ tình thế hiện tại, thần
khích lệ, kích động quân ta chiến đấu vì độc lập dân tộc. Ở đây hoàn
toàn không phải hướng đến quân giặc để phát ngôn. Ta hãy xem Đại
Việt sử kí toàn thư chép: “ Tục truyền rằng Thường Kiệt đắp lũy làm
rào ở dọc sông để cố giữ. Một đêm các quân sĩ chợt nghe trong đền
Trương tướng quân có tiếng ngâm to rằng: Nam quốc ”. Việt điện u
linh cũng ghi về hoàn cảnh tương tự như vậy.
Quả nhiên có sự nhất quán giữa hoàn cảnh và phát ngôn. Đền ở bên
này sông. Người nghe là quân sĩ của chúng ta. Người phát ngôn là
Thần, người tiếp nhận là quân sĩ. Tính chất của lập luận cũng sáng
rõ nếu ta so nó với Tì tướng hịch văn của Trần Hưng Đạo, hướng về
nỗi nhục của thất bại, nỗi nhục của vong quốc để khích lệ tì tướng.
Nói thêm rằng, hai chữ nhữ đẳng có thể dịch là chúng người, các
ngươi, các người, chúng mày, chúng bay… đều được cả. Trong ngôn
ngữ cổ, nó không có ý miệt thị để chỉ quân giặc như tiếng Việt hiện
đại, mà đó là cách xưng hô thường tình của bậc trên với hạng dưới.
Trích một đoạn sau đây trong bức thư chữ Nôm của Lê Lợi gửi quần
thần thì sẽ rõ:
“Kẻ làm công thần cùng Trẫm bấy nhiêu! Chúng bay chịu khó nhọc
mà được nước ta. Chúng bay đã chịu khó công, cùng Trẫm đói khát
mà lập nên thiên hạ, đến có ngày rày mà được phú quý. Chúng bay
cũng phải nhớ công Lê Lai hay hết lòng vì Trẫm mà đổi áo cho Trẫm,
chẳng có tiếc mình cùng Trẫm, chịu chết thay Trẫm". (La Sơn Yên
Hồ Hoàng Xuân Hãn. Tập 2. Trang 600). Lê Lợi gọi công thần khai
quốc là chúng bay được thì ắt hẳn Thần cũng có thể gọi như vậy với

tướng sĩ phía quân ta. Chúng tôi vẫn chọn chúng bay để dịch nhữ
đẳng là vì thế.
Tập hợp sự nhất quán nhiều yếu tố:
-Hoàn cảnh phát ngôn: Chiến trận trong tình thế giằng co quyết liệt.
-Không gian phát ngôn: Trong (hoặc trên như dị bản khác) đền ở
phía quân ta.
-Chủ thể và tư cách phát ngôn: Thần Trương Hống Trương Hát
hiển linh giúp quân ta.
-Hướng phát ngôn: Cho quân ta.
-Đối tượng tiếp nhận phát ngôn: Quân ta.
Lẽ hằng nhiên, hai câu thơ cuối trong bài được chúng tôi dịch như
trên là hữu lí.
Tiện đây, chúng tôi cũng nói về hai chữ THIÊN THƯ trong bài thơ.
Hai chữ này vốn gây tranh luận từ dăm năm nay trên các diễn đàn,
rất tiếc và cũng lạ là, các ý kiến đều chủ yếu dựa trên suy luận mà rất
yếu về sở cứ. Hán ngữ đại từ điển cho ta ngữ liệu về 6 cách dùng và
cũng là 6 nghĩa của thiên thư:
-Nghĩa 1: Chiếu thư của Hoàng Đế. Bài Vị Nguyên Châu Triệu
Trưởng Sử thỉnh vị vong phụ độ nhân biểu của Vương Bột (đời
Đường) viết: “Thiên thư lũ giáng, thủ sắc nãi tồn”. Nghĩa là: Thiên thư
mấy lần giáng xuống, sắc vẫn còn đây [trước mặt].
-Nghĩa 2: Đạo gia gọi kinh do Nguyên thủy Thiên tôn nói ra hoặc
sách gửi gắm những lời các thiên thần ban xuống là thiên thư.
Tùy thư – Kinh tịch chí 4: [Kinh do Nguyên thủy Thiên tôn nói ra]
tổng cộng tám chữ, trọn cùng sự uyên áo của đạo thể, gọi đó là thiên
thư. Chữ vuông một trượng, tám phương phong tỏa hào quang, rực
rỡ huy hoàng, hãi lòng chói mắt, tuy các thần tiên cũng không thể
chắm mắt nhìn vào. [Nguyên thủy Thiên tôn sở thuyết chi kinh] phàm
bát tự, tận đạo thể chi áo, vị chi thiên thư. Tự phương nhất trượng,
bát giác thùy mang, quang huy chiếu diệu, kinh tâm huyễn mục, tuy

chư tiên thiên, bất năng tỉnh thị].
-Nghĩa 3: Tống sử - Chân Tông kỉ nhị: Năm đầu niên hiệu Đại
Trung Tường Phù (1008), mùa Xuân, tháng Giêng, ngày Ất sửu, có
dải lụa vàng phất trên đao nóc (si vĩ) phía nam mái điện cổng Tả
Thừa Thiên. Lính gác cổng là Đồ Vinh báo lên, viên quan có chức
trách bẩm báo với Hoàng Thượng. Hoàng Thượng bèn hạ chiếu cho
quần thần bái nhận (dải lụa) ở điện Triều Nguyên; khi mở xuống thì
gọi đó là thiên thư. [ Đại Trung Tường Phù nguyên niên, Xuân chính
nguyệt, Ất sửu, hữu hoàng bạch duệ Tả Thừa Thiên môn nam si vĩ
thượng. Thủ môn tốt Đồ Vinh cáo, hữu ti dĩ văn. Thượng chiếu quần
thần bái nghênh ư Triều Thiên điện, khải phong, hiệu xưng thiên
thư].
-Nghĩa 4: Nguyễn Nguyên đời Thanh viết trong thiên Phong Thái
Sơn luận (luận về việc làm lễ ở Thái Sơn) trong sách Tiểu Thương
Lang bút đàm: Việc cầu trường sinh của Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ
Đế, việc dùng sấm vĩ của Quang Vũ Đế, việc nhận được thiên thư
của Tống Chân Tông, đều là loại tà đạo hủy hoại lễ cổ. [Tần Thủy
Hoàng, Hán Vũ Đế chi cầu trường sinh; Quang Vũ Đế chi dụng sấm
vĩ, Tống Chân Tông chi đắc thiên thư, giai dĩ tà đạo hoại cổ lễ].
-Nghĩa 5: Dùng để tỉ dụ thứ văn tự khó đọc hoặc thứ văn tự khó
hiểu. Như hồi 86 của Hồng lâu mộng có đoạn viết: [Bảo Ngọc] xem
rồi vừa thấy lạ lung, vừa thấy rầu rầu, bèn nói: Em gần đây càng lúc
càng tiến, đọc được cả thiên thư rồi.
Trên đây là các nghĩa của hai chữ thiên thư. Bằng cách loại suy ta
lược bớt nghĩa 5 vì vừa muộn vừa không hợp nghĩa với bài thơ.
Nghĩa 4 chỉ nhắc lại nghĩa 3 nói chuyện Tống Chân Tông, công nhận
chuyện nhà Tống bái nhận “thiên thư”.
Nghĩa 3 hơi có vấn đề. Bức thư lụa vàng trời gửi xuống và được nhà
vua bái nhận như là bức thiên mệnh vậy. Tuy nhiên, chuyện xẩy ra
vào năm 1008, còn Lê Hoàn thắng Tống lại diễn ra trước đó những

27 năm (981). Hai khả năng, một, chữ thiên thư nếu đã xuất hiện
trong bài thơ thời Lê Hoàn thì không sử dụng nghĩa này, hai, bài thơ
do người đời sau gắn cho sự kiện Lê Hoàn chống Tống. Chúng tôi
nghiêng về khả năng thứ hai này hơn vì trong kho Hán Nôm, không ít
tài liệu chép nhân vật từ thời Hùng Vương mà đã làm thơ Đường (?!)
rất sõi. Vả lại, chưa có văn bản nào ghi bài thơ được xác định là định
bản của nó vốn có từ Lí, Trần, Lê sơ. Tình hình văn bản Hán Nôm
trung đại của chúng ta thường vậy, cẩn trọng không thừa. Khi Lí
Thường Kiệt chống Tống vào năm 1076 thì nghĩa thiên thư đời Tống
này chắc đã rất phổ biến trong không gian văn hóa Đại Việt.
Nghĩa 2 thì thuộc về Đạo giáo và mang hào quang huyền thoại, nếu
có ảnh hưởng đến nghĩa bài thơ thì đó chỉ là vang bóng hào sảng
chứa đựng trong đó mà thôi. Rất có thể nghĩa 1 là nghĩa chính mà
tác giả bài thơ đã sử dụng. Hoàng Đế là vị vua thời cổ trong truyền
thuyết có công ổn định địa bàn, phát minh nhiều phương pháp chế
tạo xe thuyền lễ phục, đo đạc tính toán. Các sách cổ như Hệ từ
truyện, Sơn hải kinh, Đại Đái lễ kí, Sử kí Tư Mã Thiên đều nhắc đến.
Vậy chiếu của Hoàng Đế là căn cứ dĩ định, là chân lí tiên thiên cho
mọi biện luận, biện giải, trong đó có vấn đề chủ quyền các quốc gia.
Chúng tôi có một niềm tin rằng, bài thơ Thần được sáng tạo khi
nghĩa 1, nghĩa 2 và nghĩa 3 đã được chủ thể khuyết danh làm ra nó
thông tỏ như một vốn văn chương, vốn văn hóa, và rồi sau đó nó vận
động qua nhiều hình thức dị bản các thời khác nhau.
Vấn đề cuối cùng cũng cần nói là, vậy tại sao khi dịch sử kí, khi làm
giáo khoa, các bậc cựu học vẫn thống nhất dịch như xưa nay vậy?
Họ là những người thấm đẫm tinh thần Nho học cơ mà. Chúng tôi
không ngại nông nổi mà nói rằng, trước hết, việc dịch tác phẩm này
ra quốc ngữ chỉ có nhu cầu vào đầu thế kỉ 20, với những người thạo
chữ Hán trước đó, họ hiểu thẳng văn bản. Khi dịch, với yêu cầu cần
phổ thông, họ chuyển tự giản dị như vua Nam ở, sách trời hợp với

phương châm dân tộc, đại chúng. Cũng vì dịch trong toàn bộ tinh
thần yêu nước, tinh thần kháng chiến chống ngoại xâm nên hai chữ
nhữ đẳng, khi dịch là chúng mày hay chúng bay dễ lôi kéo tinh thần
người ta tư duy chĩa thẳng về phía địch và hiểu đó là lời tuyên bố với
quân thù. Vả lại, các thế hệ đi trước, dù uyên bác và đầy nhiệt huyết
nhưng đều làm việc trong điều kiện thiếu thốn về dữ liệu. Nếu điều
kiện cũng đã như hiện nay thì chúng ta khó lòng mà sánh kịp họ.
Cũng còn thêm một điều nữa, ngoài GS Nguyễn Tài Cẩn, cho đến
nay, chúng tôi thấy chưa ai băn khoăn giải quyết rốt ráo hai chữ
HÀNH KHAN, hay nói cách khác, thậm chí chưa có một chú thích
khả dĩ về nghĩa hay dụng của 2 chữ này, họ bằng lòng với sự suôn
sẻ của bản dịch cũ. Các thế hệ sau, cứ một mực theo thế mà giảng
giải. Cũng có người góp ý với chúng tôi rằng, bài thơ đã là một
“tuyên ngôn độc lập” thì sẽ có thể vừa công bố cho ta, vừa công bố
cho giặc chứ! Chúng tôi mạnh dạn thưa lại rằng, người đầu tiên gọi
bài thơ là tuyên ngôn độc lập chính là Kít xing gơ, cố vấn Tổng thống
Ních xơn của Mĩ khi sang Hà Nội vào năm 1972. Trước đó, chúng tôi
chưa hề gặp một tài liệu của nhà nghiên cứu nào có ý kiến như vậy.
Vậy, đây là một nhận định mang tính uyển ngữ, dựa trên tinh thần
tác phẩm chứ không dựa trên qui cách văn bản của tác phẩm (có
nghĩa là, ý kiến có phong cách phê bình chứ không phải phong cách
nghiên cứu). Ai có tư liệu sớm hơn về chuyện này, góp ý giúp chúng
tôi để chúng tôi sửa chữa.
Tác phẩm Nam quốc sơn hà… có một vị trí rất quan trong trong tâm
thức người Việt, trong lịch sử văn học Việt Nam. Rất nhiều vấn đề
xung quanh nó đang được dần dần làm sáng tỏ, ở mỗi bản ghi, có
những dị bản bài thơ tương ứng với cách kể khác nhau (chính dị bản
trong Lĩnh Nam chích quái và ở những tài liệu khác hé mở cho ta
điều này), về thời điểm và tác giả của nó cũng đang được tìm tòi. Có
những cái dù chúng tôi cũng rất để ý nhưng tư liệu chưa cho phép

khẳng quyết.Trong vấn đề đang bàn ở trên, ý kiến và ngữ chứng
chúng tôi đưa ra hãy còn mỏng, rất mong nhận được những góp ý,
phản biện, cung cấp tư liệu thêm của những ai quan tâm để hằng ý
nghĩa tác phẩm ngày càng sáng rõ hơn, đặc biệt là cho sách giáo
khoa đang cần thiết phải tu bổ.

Chữ viết khó
國 Quốc: nước, có đất có dân, có quyền cai trị gọi là nước.
國 (chữ giản thể)
Phiên âm
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tác giả - tác phẩm
Tác giả: khuyết danh.
Tác phẩm: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, tiêu đề Nam quốc sơn hà do người sau
đặt dựa vào mấy chữ mở đầu bài thơ. Xuất hiện trong thời gian Lí Thường
Kiệt chỉ huy quân dân Đại Việt đánh tan mấy chục vạn quân Tống, do
Quách Quỳ cầm đầu kéo sang xâm lược nước ta vào năm 1077, trước phòng
tuyến sông Như Nguyệt (tức sông Cầu). Quốc tộ và Nam quốc sơn hà coi là
những bài thơ đầu tiên của Văn học trung đại. Đây là một bài thơ khẳng định
quyền độc lập và tự chủ của dân tộc Việt Nam ngang hàng cùng tồn tại với
Trung Hoa, là một nước độc lập, có nền chính trị riêng, có vua riêng được
khẳng định trong sách trời.
Giải thích từ
國 國 Nam : phương Nam; Nước Nam. Nam Quốc được nêu lên để đối lập
với Bắc Quốc (chỉ đế chế Trung Hoa ở Phương Bắc).
國 Hà: Sông

國 Đế 1: Người làm chủ, đứng đầu. 2: Vị thần tối cao gọi là đế, như trời gọi
là thượng đế 國 國
國 Cư: ở
國 Tiệt :Cắt đứt, như tiệt tràng bổ đoản 國 國 國 國 -cắt dài vá ngắn.
國 Nhiên : =國 國 như thế, đúng, rành rọt, rõ ràng như vậy; nhiên là phó từ
chỉ trạng thái nhấn mạnh trạng thái.
國 國 tiệt nhiên: phân biệt rõ ràng đâu ra đấy không dính dáng gì với nhau
nữa
國國 Định phận: định: xếp đặt yên ổn. Định phận:xác định rõ ràng cương vực
vị trí; Khác chữ phân định: chia rõ từng bộ phận riêng biệt, tách rạch ròi
từng phần
國 Tại: ở, như: tại gia tòng phụ 國 國 國 國 .
國 Thư 1: Sách. 2: Ghi chép, viết. 3: Thư tín.4: Chữ, như thư pháp 國 國
-phép viết chữ.
國 Như 1: bằng, cùng. Dùng để so sánh, như: ái nhân như kỉ 國 國 國 國 -yêu
người như mình.
國 Hà: sao, gì. Lời nói hỏi vặn lại, như hà cố 國 國 -cớ gì ? hà dã 國 國 -sao
vậy
國 Nghịch: trái, trái lại
國 Lỗ: tù binh, bắt sống được quân địch gọi là lỗ. Nghịch lỗ: bọn giặc ngang
ngược
國 Lai:đến, sắp tới, như: tương lai 國 國.
國 國 Xâm phạm: tiến dần, xâm lấn. Như: xâm đoạt 國 國 - xâm cướp, xâm
chiếm 國 國
國 Nhữ: mày; 國國 nhữ đẳng:chúng mày;(đẳng: thượng đẳng 國 國 bậc trên
nhất; trung đẳng 國 國 bậc giữa; hạ đẳng 國 國 bậc dưới)
國 Hành: 1.sắp, sẽ là một phó từ chỉ hành động sắp xảy ra, sẽ đến gần;國國:
sẽ nhìn; 2:làm ra, thi hành ra. 3: đi, như: tống hành 國 國 đưa đi.
國 Khan 1: coi, xem; 2.Thấy, nhìn thấy.
國 Thủ 1: chịu lấy, chuốc lấy. 2: chọn lấy. Như: thủ sĩ 國 國 -chọn lấy học trò

dùng.
國 Bại: Hỏng, Thua.
國 Hư: trống rỗng, vơi, hư hão.
Ngữ pháp
Định ngữ: là thành phần phụ nó bổ nghĩa giới hạn cho danh từ, hoặc cụm từ
có tính danh từ, thành phần được bổ nghĩa được gọi là trung tâm ngữ.
國 國( 國)+ 國 國
Ví du
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam thì Hoàng đế nước Nam cai trị
Cương giới đã được phân định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao bọn giặc ngược lẽ trời dám đến xâm phạm
Chúng bay sẽ chuốc lấy thất bại.
Bản dịch tham khảo:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
(Theo bản dịch của Lịch sử Việt Nam Tập 1 - NXBKHXH)
Nội dung
Hai câu đầu?khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền lãnh thổ đất nước
Hai câu cuối ?lời cảnh cáo đanh thép
Quân xâm lược sẽ nắm chắc phần thất bại
Tổng kết toàn bài và bài tập về nhà:
Nội dung, nghệ thuật, các hiện tượng ngữ pháp cần chú ý.
Với lời thơ đanh thép, ý thơ hào hùng, bài Nam quốc sơn hà đã có tác dụng
rất lớn trong việc động viên khích lệ tướng sĩ đương thời, được truyền tụng
rộng rãi trong nhân dân.
Học thuộc những chữ Hán trong bài thơ, sưu tầm các bản dịch.
Tập dịch lại bài thơ.

NGHĨ THÊM VỀ BÀI THƠ "NAM QUỐC SƠN HÀ"

Trầm Thanh Tuấn

NGHĨ THÊM VỀ BÀI THƠ "NAM QUỐC SƠN HÀ"

Có thể nói Nam quốc sơn hà là một kiệt tác trong dòng văn học yêu
nước nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung. Tuy nhiên đây lại
cũng là một tác phẩm hết sức phức tạp, còn nhiều tồn nghi từ nhiều phương
diện như: tác giả, thời điểm ra đời cũng như tình hình dị bản của văn bản.
Cho đến hiện tại trong giới nghiên cứu vẫn chưa đi đến sự thống nhất cao
trong việc xác lập một thiện bản (văn bản chuẩn). Bàn về vấn đề này, nhà
nghiên cứu Bùi Duy Tân, trong Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn
học trung đại Việt Nam (tập 1), NXB Giáo dục, 1999, Hà Nội, đã cung cấp
những dữ liệu khá tin cậy về những dị bản của Nam quốc sơn hà . Theo ước
đoán của tác giả thì dị bản của Nam quốc sơn hà đã lên đến hơn hai mươi dị
bản. Trước tình hình ấy, chúng tôi tạm chọn văn bản trong Sách giáo khoa là
cứ liệu chính để khảo cứu.

Bài thơ mở đầu bằng lời tuyên bố:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Nếu nói bài thơ là khúc ca hùng tráng biểu trưng cho ý thức độc lập dân
tộc cao độ thì những quốc 國, đế 帝 chính là những thanh âm hùng tráng
nhất. Quốc là nước, thật đơn giản ! không có gì đáng bàn. Thế nhưng nội
hàm của từ quốc có thật đơn giản thế không? Như chúng ta biết chữ Hán có
nhiều nghĩa, nghĩa gốc, nghĩa cổ và nghĩa mở rộng. Trong quá trình tìm
hiểu, thiết nghĩ cần có sự liên hội các sắc thái nghĩa ấy để nhằm có cái nhìn
tinh xác về nghĩa của từ theo đúng khuôn thức lịch sử của nó. Theo cứ liệu
của Đặng Đức Siêu trong Ngữ văn Hán Nôm (tập 1), NXB Đại học Sư phạm

Hà Nội, thì Quốc là từ để dùng chỉ các vùng lãnh thổ phụ thuộc của các "vua
chư hầu " thời Tây Chu gọi là "Chư hầu quốc ". Cuối thời Xuân Thu, nhà
Chu mất dần địa vị bá chủ chư hầu, các nước (quốc) chư hầu đánh nhau tạo
thành cục diện "thất quốc tranh hùng " (bảy nước lớn Tần, Nguỵ, Yên, Hàn,
Tề , Sở, Triệu tranh nhau ngôi bá chủ nắm quyền cai quản Trung Hoa đương
thời). Thế nên từ đó Quốc là lớn nhất, cả Trung Hoa từ sau cũng gọi là quốc
– Trung Quốc.

Ngược dòng lịch sử cho thấy, bọn phong kiến phương Bắc chưa bao giờ
công nhận nước ta với tư cách là một quốc (từ trước khi bài thơ ra đời) mặc
dù đất nước ta đã dành quyền tự chủ từ năm 938, sau trận đánh Bạch Đằng
chói ngời lịch sử của Ngô Vương. Thế nhưng, khi Đinh Bộ Lĩnh sáng lập ra
triều Đinh với đế hiệu là Đinh Tên Hoàng, quốc hiệu là Đại Cồ Việt thì
chúng vẫn xem nước ta như là một quận của chúng nên chỉ công nhận Đinh
Bộ Lĩnh là Giao Chỉ quận vương. Như vậy chữ Nam quốc trong bài thơ như
được đặt vào thế ngang hàng đối sánh với Bắc quốc. Thật diệu! Hơn thế nữa,
chữ Nam quốc ấy không chỉ một lần được cất cao thúc giục quân dân nhà Lí
đánh đuổi giặc Tống ra khỏi bờ cõi Đại Việt mà nó còn vang lên thật kiêu
hùng trong lời hịch của Quang Trung trước khi chuẩn bị xuất quân đại phá
quân Thanh: "Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng tri hữu chủ".

Bàn về chữ đế, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm về chữ đế của người
xưa. Trong huyền thoại của người Trung Quốc cổ xưa có những vị được gọi
là đế như: Phục Hy - đế phương đông; Chuyên Húc - đế phương Bắc; Thiếu
Hạo - đế phương Tây; Thần Nông - đế phương nam, Hoàng đế
(1)
ở trung
ương. Các vị này đều ngự ở trên trời. Như vậy chữ đế nguyên nghĩa là để chỉ
trời chứ vốn không có nghĩa là chỉ vua. Các triều đại Hạ, Thương, Chu đều
dùng chữ Vương để gọi vua (thời Tam Vương). Đến khi nhà Tần thôn tính

xong sáu nước (Nguỵ, Yên, Hàn, Tề , Sở, Triệu) thống nhất toàn cõi Trung
Hoa, vua Tần là Doanh Chính cho rằng chữ Vương (王)chưa xứng với tầm
vóc, chưa tỏ rõ được uy quyền thống trị nên tự xưng là Hoàng Đế
(2)
, Thuỷ
Hoàng Đế (vị vua đầu tiên của nhà Tần). Các triều đại sau đều noi theo thế
mà gọi là hoàng đế với ý nghĩa là kẻ thống trị toàn bộ thế giới này.

Như vậy việc dùng từ Nam đế có ý nghĩa thật lớn lao. Ông cha ta muốn
phủ định tư tưởng ngạo mạn của bọn phong kiến phương Bắc rằng dưới vòm
trời này không chỉ có một ông vua là hoàng đế Trung Quốc. Nếu ở phương
Bắc có Bắc đế thì ở phương Nam cũng có Nam đế. Vị thế nào khác gì nhau?
Hơn thế nữa chúng ta nhận thấy, hàm ý sau xa trong từ Nam đế không đơn
thuần là chỉ để nâng tầm mà đây còn là tiền đề của luận đề chính nghĩa về
nền độc lập của dân tộc: Đây là đất nước có chủ, có người đứng đầu. Vậy
nên câu thơ biểu trưng cho tinh thần, cho sức mạnh người dân của đất nước
(xác lập tự chủ từ phương diện con người).

Câu thơ tiếp theo lại là sự xác lập quyền tự chủ khác, quyền tự chủ trên
phương diện lảnh thổ.

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Có thể nói trong câu thơ chúng ta quan tâm nhiều đến chữ thiên thư.
Thiên thư nghĩa đen là sách trời. Vậy sách trời là gì? Có thể tác giả đang đề
cập đến khoa chiêm tinh cổ (đây là lĩnh vực được người Trung Quốc quan
tâm từ rất sớm). Theo khoa chiêm tinh cổ thì các quốc gia trên mặt đất ứng
với các tinh phận trên bầu trời. Trong sách Sử kí 史記, Tư Mã Thiên viết
"trời thì có các vì sao, đất có các châu vực " hay trong sách Chu lễ 邾禮
viết: "phong vực của các nước trong Cửu châu, với các sao trời cũng phân
như vậy ". Thật vậy dấu ấn của tư duy này đã được thể hiện trong thơ ca cổ

điển của Trung Quốc:

Ở Đằng Vương các tự 國國國國, Vương Bột viết
國國國國
國國國國
國國國國
國國國國
Nam Xương cố quận
Hồng Đô tân phủ
Tinh phận Dực, Chẩn
Địa tiếp Hành Lư
(Quận Nam Xương, quận này quận cũ - Phủ Hồng Đô phụ nọ phủ tân -
Sao trời Dực, Chẩn ngôi phân - Hành Lư đất tiếp núi gần non xa
(3)
)
Sao Dực, sao Chẩn nói đến trong bài tự là để chỉ đất Sở (thời Chiến
Quốc), ở phương Nam. Đằng Vương Các nằm trên đất Sở ngày xưa. Hay
trong Thục đạo nan 蜀道難, Lí Bạch viết:

國國國國國國國
Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức
(Sờ được sao Sâm, lướt qua sao Tỉnh, ngẩng trông nín thở, đưa tay vỗ bụng)
Sao Sâm thuộc phận dã đất Thục, sao Tinh thuộc phận dã đất Tần. Nói
sờ được sao Sâm nghĩa là tác giả đã đến đất Thục
(4)
.
Như vậy, lí thuyết này là của tổ tiên đội quân đang xâm lược nước ta.
Lấy lời của ông cha chúng mà khẳng định chủ quyền lãnh thổ: Nước Nam là
nước độc lập (quốc) nên tất yếu (tiệt nhiên) cương vực cũng đã được định
sẵn bởi tinh phận trên bầu trời, thì không còn gì tuyệt hơn, trí tuệ hơn. Ấy

cũng chẳng qua là lấy gậy ông mà đập lưng ông mà thôi.

Trên cơ sở xác lập luận đề chính nghĩa tác giả đi đến phê phán giặc cướp
nước đã chà đạp lên chính nghĩa:ngôn ngữ.
Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ toàn dân để sáng

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm.
Như hà: cớ sao, lời nói như mắng. Tác giả gọi giặc ngoại xâm bằng tiếng
gọi khinh bĩ: nghịch lỗ. Thật vậy, những kẻ đã gạt bỏ chính nghĩa, đem quân
giày xéo một đất nước thuần hậu, chuộng hoà bình gọi như thế thật chính
xác biết bao! Hơn thế nữa, nếu ta hểu được cách sử dụng từ "xâm " thì càng
cảm nhận sâu sắc sự thâm thuý của thi nhân. Hán tự có hiện tượng cùng một
ý nghĩa nhưng có nhiều cách biểu đạt. Nói về chiến trận có:

• Phạt 伐: Tiến đánh công khai, vì chính nghĩa mà dùng binh đánh kẻ
làm loạn, kẻ có tội.
• Tập 襲: tiến đánh bất ngờ
• Chinh 征: Thiên tử xuất quân đánh dẹp phản loạn, thường là từ nước
này đem quân sang đánh nước khác.
• Xâm 侵: Tiến đánh lén lút phi nghĩa.

Trong hàng loạt những từ đồng nghĩa khác âm, tác giả chọn xâm, một từ
đã biểu đạt sâu sắc sự phi nghĩa của bọn phương Bắc hiếu chiến đem quân
sang xâm lược đất nước ta. Thế nên, điều tất yếu sẽ đến với chúng là: Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư.

Đến đây chúng tôi muốn trao đổi thêm về một ý mà từ trước đến giờ
"chúng khẩu " đều "đồng từ ": Nam quốc sơn hà là bản tuyên ngôn độc lập
đầu tiên của nước ta. Sách giáo khoa Ngữ văn 7 (tập 1) viết: "Bằng thể thơ
thất ngôn tứ tuyệt, giọng thơ dõng dạc đanh thép, Sông núi nước Nam là

bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất
nước và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước kẻ thù xâm
lược" [tr 65]. Chúng tôi cho rằng Tuyên ngôn Độc lập chỉ có thể xuất hiện
trong hai trường hợp: một nước không có độc lập sau đó giành được độc lập
hoặc một nước có độc lập, bị xâm lược sau đó giành lại được độc lập. Xét về
phương diện lịch sử, rõ ràng xem Nam quốc sơn hà là bản Tuyên ngôn độc
lập đầu tiên có chỗ không thoả đáng vì cũng theo Sách giáo khoa Ngữ văn 7:
"Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: năm
1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân
Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như
Nguyệt (một khúc của aông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh),
bỗng một đêm, quan sĩ chợt nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống
và Trương hát – hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang phục, được
tôn là thần sông Như Nguyệt – có tiếng ngâm bài thơ này" [tr64]. Nếu như
Sách giáo khoa tạm xem truyền thuyết này là căn cứ để ước đoán hoàn cảnh
ra đời của thi phẩm thì càng không nên xem Nam quốc sơn hà là một tuyên
ngôn độc lập. Vì ở thời điểm ấy nước ta đã có độc lập (nền độc lập được xác
lập từ thời Ngô Quyền – 938) và nhà Tống chưa bao giờ đô hộ được nước ta.

Nam quốc sơn hà là một bài thơ có một vị trí đặc biệt trong lịch sử dân
tộc cũng như trong dòng văn chương yêu nước của dân tộc. Một bài thơ hay
nhưng không dể hiểu. Một vài ý kiến nhỏ chúng tôi mong được góp thêm để
làm rõ thêm một vài khía cạnh của thi phẩm độc đáo này của văn chương
trung đại.

×