Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học:
Phần I: Các khái niệm cơ bản về đổi mới hệ thống chính
trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, sự khác biệt về chất
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư bản chủ
nghĩa.
Cùng với việc kiểm điểm đánh giá tình hình, Văn kiện Đại hội X đề cập đậm nét
vấn đề dân chủ, khẳng định dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
đổi mới.
Trong thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 20 năm đổi mới, có thành tựu của
phát huy sức mạnh nền dân chủ XHCN. Cùng với việc kiểm điểm đánh giá tình
hình, vấn đề dân chủ được đề cập đậm nét trong Văn kiện Đại hội X, khẳng định
dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới. Xã hội XHCN mà
chúng ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh, do nhân dân lao động làm chủ
Đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng nền dân chủ XHCN trong quá trình xây
dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay có mối quan hệ hữu cơ khăng khít.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một cơ cấu xã hội bao gồm ĐCS, nhà nước
XHCN, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội hoạt động theo một
cơ chế nhất định dưới sự lãnh đạo của ĐCS nhằm thực hiện quyền lực của nhân
dân lao động để xay dựng CNXH. Vậy đổi mới hệ thống chính trị bao gồm: xậy
dựng Đảng, kiện toàn bộ máy nhà nước, nâng cao, phát huy vai trò của các đoàn
thể nhân dân, tiêu biểu là mặt trận Tổ Quốc nhằm nâng cao quyền làm chủ của
nhân dân.
Đặc điểm cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Đây là nền dân chủ cho đại đa số người - dân chủ của nhân dân lao động dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nền dân chủ này giành được do kết quả
thắng lợi của cuộc đấu tranh lâu dài vì tiến bộ xã hội của nhân dân lao động.
• Về chính trị : Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện qua sự lãnh đạo chính
trị của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản đối với toàn xã hội,
thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, mà trong đó
có giai cấp công nhân .
• Về kinh tế : Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng sự phát triển ngày càng cao
của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại, nhằm
thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động .
• Về văn hóa tư tưởng : Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng
Marx-Lenin (hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ) làm nền tảng, chủ đạo
đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học,
nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hóa, xã hội, tôn giáo )
Cả thực tiễn và lý luận đều cho thấy có hai thứ dân chủ khác nhau, một thứ dân
chủ của các giới đế quốc, tư bản và một thứ dân chủ của nhân dân lao động. Nói
cách khác, cần phân biệt dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, chúng khác
nhau về bản chất. Dân chủ tư sản là dân chủ của thiểu số, trước hết là dân chủ của
các nhà tư bản độc quyền. Tuy họ chỉ là thiểu số trong dân cư, nhưng lại chiếm
tuyệt đại đa số của cải trong đất nước. Còn dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ
của đa số, của đông đảo nhân dân lao động.
Đương nhiên, chúng ta thừa nhận rằng, dân chủ đối với giai cấp tư sản, hơn nữa,
giai cấp tư sản có thực hiện một số quyền dân chủ nào đấy đối với nhân dân lao
động để lôi cuốn nhân dân xây dựng xã hội tư bản chủ nghĩa, cũng là biểu hiện
một chế độ xã hội tiến bộ hơn chế độ phong kiến. Song, có cái quyền cơ bản nhất
là sở hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội lại thuộc về giai cấp tư sản,
qua đó, giai cấp tư sản có quyền lực chi phối đời sống kinh tế và chính trị đất
nước, thì đại bộ phận nhân dân lao động làm gì có dân chủ thực sự!
Tham khảo:
• PGS Vũ Hữu Ngoạn, Lẽ phải của chúng ta, NXB Chính trị Quốc gia, 2004
• Đề cương bài giảng CNXHKH, NXB Bách Khoa - Hà Nội, 2007
• Từ điển bách khoa toàn thư mở: />%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_X%C3%A3_h%E1%BB%99i_ch
%E1%B
Phần II: Mối quan hệ giữa đổi mới hệ thống chính trị và
xây dựng nền dân chủ XHCN trong quá trình xây dựng
CNXH ở Việt Nam hiện nay là mối quan hệ hữu cơ khăng
khít.
I. Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng ta đã nhận thức nhất quán tầm quan trọng của phát huy dân chủ để xây dựng
xã hội mới, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta nhận thức rõ rằng, ngày nay, dân chủ vẫn
luôn luôn là yêu cầu nóng bỏng của đời sống nhân loại tiến bộ, là lợi ích và
nguyện vọng sâu sắc của nhân dân lao động toàn thế giới, và cũng là lợi ích và
nguyện vọng cơ bản của nhân dân lao động cùng dân tộc Việt Nam ta.
I-1.Đánh giá khái quát kết quả đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị hơn 20 năm qua.
Phương thức lãnh đạo của Ðảng là phương pháp, cách thức, con đường, biện pháp
để thực hiện vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và toàn xã hội. Phương
thức lãnh đạo là vấn đề có ảnh hưởng, tác động lớn đến chất lượng, hiệu quả lãnh
đạo của Ðảng. Chất lượng, hiệu quả lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào sự đúng
đắn của quan điểm, đường lối mà còn phụ thuộc vào sự đúng đắn, khoa học, phù
hợp của phương thức lãnh đạo. Qua hơn 20 năm đổi mới, Ðảng ta nhận thức ngày
càng rõ hơn về phương thức lãnh đạo của Ðảng và ý nghĩa, tầm quan trọng của
đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng.
Cương lĩnh năm 1991 và văn kiện các đại hội gần đây của Ðảng đã xác định Ðảng
lãnh đạo bằng Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, đề ra quan điểm, chủ trương,
đường lối định hướng cho hoạt động của Nhà nước và toàn xã hội; bằng việc giới
thiệu đảng viên vào giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt của bộ máy nhà
nước, các tổ chức của hệ thống chính trị; bằng công tác tuyên truyền, vận động,
thuyết phục; thông qua tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà
nước, các tổ chức của hệ thống chính trị và bằng kiểm tra việc chấp hành Cương
lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, của các tổ chức đảng và đảng viên này. Phương
thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị từ Trung ương
đến địa phương trong những năm qua đã có nhiều đổi mới và đạt được nhiều kết
quả quan trọng.
Những đổi mới về quan điểm, chủ trương, đường lối của Ðảng trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội là định hướng chính trị cho đổi mới hoạt động của hệ
thống chính trị nước ta những năm qua. Ðảng đặc biệt coi trọng việc lãnh đạo thể
chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Ðảng thành luật pháp,
cơ chế, chính sách của Nhà nước; lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội trong các hoạt động
lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước;
định hướng cho việc ban hành cơ chế, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại Ðảng
lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Ðảng đã lãnh đạo tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết
phục, thực hành công khai, dân chủ trong Ðảng và trong xã hội; phát huy và thực
hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, tính năng động, sáng tạo của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Những đổi mới trong công tác tổ chức,
cán bộ, giới thiệu những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực vào các vị trí lãnh
đạo chủ chốt của hệ thống chính trị; củng cố tổ chức cơ sở đảng; nêu cao tính tiền
phong, gương mẫu của đảng viên; kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết,
chỉ thị của Ðảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước đối với tổ chức đảng và
đảng viên, đã có tác động tích cực đến việc giữ vững và nâng cao vai trò, hiệu quả
lãnh đạo của Ðảng. Phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng và đảng viên
đã có đổi mới theo hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát cơ sở hơn.
Những đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đó đã góp phần tích cực vào những
kết quả của công tác xây dựng Ðảng nói riêng, vào những thành tựu của đất nước
đạt được trong những năm đổi mới vừa qua nói chung.
I-2. Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo mà Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) đã đề ra để
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị trong thời gian tới.
Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) đã chỉ ra mục tiêu tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là để giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của
Ðảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Ðảng với nhân
dân; đồng thời nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính
năng động, sáng tạo, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng và trong xã hội, việc tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ
nghĩa của đất nước.
Về quan điểm chỉ đạo, Hội nghị đề ra bốn quan điểm lớn mà khi nghiên cứu, quán
triệt và thực hiện Nghị quyết cần phải nắm vững.
Thứ nhất là, việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và
chỉnh đốn Ðảng, đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Ðảng, với
đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với đổi mới kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Thứ hai là, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Ðảng; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi
trong Ðảng và trong xã hội, đẩy mạnh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm
cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Thứ ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết
tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm vừa
tổng kết, rút kinh nghiệm.
Thứ tư là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung,
vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng
ngành.
I-3. Nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị
Nghị quyết đã đề ra một hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Ðảng (của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư) đối với hoạt động của Nhà nước, bao gồm hoạt động lập pháp,
giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội, hoạt
động của Chủ tịch nước, hoạt động quản lý kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại của Chính phủ, hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước; đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội; đối với công tác cán bộ; và đổi mới phương
thức lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương.
Những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể Nghị quyết nêu lên thì nhiều, song phương
hướng chung của những nhiệm vụ, giải pháp đó là tiếp tục xác định rõ hơn, cụ thể
hơn thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo của Ðảng (Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy đảng các cấp) trong xây dựng các
cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh;
trong thành lập, lãnh đạo, chỉ đạo đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các tổ chức
của nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; trong việc giới thiệu cán bộ,
đảng viên của Ðảng vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các tổ chức trong hệ
thống chính trị, theo nguyên tắc Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ trong cả hệ thống chính trị, có phân công, phân cấp hợp lý,
đồng thời tôn trọng và phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan, người đứng đầu
tổ chức quản lý, sử dụng cán bộ và kiểm tra hoạt động của tổ chức đảng, đảng
viên trong các cơ quan này để giữ vững, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu
quả lãnh đạo của Ðảng, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo, hoạt động có
chất lượng, hiệu lực, hiệu quả cao của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể trong tình hình mới.
Một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn cao trong các nhiệm vụ và giải pháp
mà Nghị quyết đề ra là tiếp tục đổi mới phong cách và lề lối làm việc của các cơ
quan lãnh đạo, cơ quan tham mưu của Ðảng từ Trung ương đến địa phương. Ðó là
đổi mới phong cách, lề lối làm việc của Ðảng theo hướng khoa học, khách quan,
thực sự dân chủ, kỷ cương, thiết thực, sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, nói đi đôi
với làm, làm có kết quả; làm việc có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng
điểm. Cải tiến các thủ tục hành chính trong Ðảng, xác định rõ thời gian xử lý, trả
lời đối với từng loại công việc, thực hiện nghiêm chế độ thông tin, báo cáo và ứng
dụng các thành tựu mới của công nghệ thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Ðảng.
Ðổi mới cách ra nghị quyết, chỉ thị và việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị
của Ðảng theo hướng thiết thực, hiệu quả. Giảm bớt hội họp, các nghi thức lễ tân,
đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hội nghị. Cấp ủy dành nhiều thời
gian chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
Về tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ chỉ đạo xây dựng hệ thống quy
chế, quy định về quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với các đảng
đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc và quy định về mối quan hệ công tác
giữa các đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy các cấp với nhau, với tập thể lãnh
đạo, đảng ủy cơ quan và người đứng đầu cơ quan để làm rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của từng cơ quan, của từng người và quan hệ phối hợp giữa các chủ thể
này sao cho hợp lý, khoa học nhất, đáp ứng tốt nhất mục tiêu đề ra. Hiện nay, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã phân công các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đã giao
cho các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng có liên quan chuẩn bị xây dựng các
quy chế, quy định này để Nghị quyết của Trung ương sớm đi vào cuộc sống.
Trên cơ sở nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết và học tập cách làm của Trung
ương, đề nghị các đồng chí lãnh đạo và các cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn
các tổ chức đảng ở các cấp, các ngành, các địa phương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện Nghị quyết phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm cụ thể của ngành, địa phương, đơn vị mình.
Tổng kết lại: Thông qua việc phân tích những thành tựu trong việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị suốt 20 năm qua, cũng như
những mục tiêu và giải pháp sắp tới để thực tiếp tục qua trình đổi mới đó ta thấy:
mục đích cuối cùng vẫn là phát huy tính dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân.
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
II. Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có một Nhà nước như
vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống,
quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật
tự, an toàn xã hội. Nó ảnh hưởng tới sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống
và số phận của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự,
được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho
quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ,
vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. Để làm được những điều đó cần
phải giải quyết tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
II-1. Đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân.
Để đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, nhất thiết phải giải
quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế…
tất cả các yếu tố đó phải tiến hành đồng thời, nhưng phải ưu tiên cho những vấn
đề kinh tế, chăm lo tốt hơn đến cuộc sống hạnh phúc và mọi nhu cầu phong phú,
đa dạng của con người. Tất cả những điều đó phải dựa trên cơ sở của sự phát triển
kinh tế, nhất là khi đất nước còn nghèo như hiện nay. Bởi vậy, nếu thoát ly sự
tăng trưởng kinh tế, đặt ra những yêu cầu quá cao đối với các lĩnh vực văn hoá –
xã hội là không thực tế. Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu chỉ coi trọng phát triển
kinh tế, lợi ích về văn hoá – xã hội của nhân dân. Thực tiễn những năm qua cho
thấy nếu không chú trọng xây dựng và phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, phúc lợi
công cộng, để cho những mặt này yếu kém và xuống cấp thì chẳng những ảnh
hưởng xấu tới việc chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, mà còn kìm
hãm nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử cho nên nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực. Trong xã hộI XHCN, quyền lực Nhà nước được bắt nguồn từ nhân dân, của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc đổi mới Nhà nước
hiện nay, phải ra sức phát triển và hoàn thiện chế độ đại diện, làm cho nó thực sự
thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Một Nhà nước như vậy mới đảm bảo
quyền con người sống trong hoà bình, độc lập, tự do; được quyền làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình; được quyền có cuộc sống ấm no,
bình đẳng và hạnh phúc. Tôn trọng quyền của mỗi con người (quyền bình đẳng
của công dân trước pháp luật, bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng cũng như các quyền tự do, dân chủ khác) phải gắn
với nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người trước đất nước và xã hội.
Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải kiên quyết
đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng
và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn
– gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Đó chính là tâm tư,
nguyện vọng và cũng là đòi hỏi của nhân dân đối với Nhà nước, thông qua Nhà
nước.
Việc của đất nước là việc của nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp rộng rãi mọi lực
lượng quần chúng nhân dân, phát huy đầy đủ khả năng và trí tuệ của toàn dân để
cùng lo việc nước. Hơn nữa, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ
chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và
đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp,
cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà
nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín
nhiệm của mình đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mà
mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức
trách nhiệm của người đại diện nhân dân, phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm
của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã
đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.” Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền
hành đều thuộc về nhân dân, phải chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, phát
triển kinh tế, văn hoá, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ làm cho dân giàu, nước mạnh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
II-2. Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản
để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước trong Nhà nước pháp
quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị
cao nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật
và bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước. Điều đó
có nghĩa là “Nhà nước phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không
bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều kiện quy định trong Hiến pháp và pháp
luật”. Mặt khác, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất. Do đó, Nhà nước phải
đảm bảo cho công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản
đó vi phạm, kể cả từ phía các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ.
Chính vì vậy, một mặt Nhà nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các
cơ quan Nhà nước, những người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân
thủ triệt để pháp luật, không có một tổ chức Nhà nước hoặc công chức nào được
đặt mình đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi tổ chức
hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật. Cùng với nguyên tắc này, Nhà nước ta
tiến tới thực hiện nguyên tắc không cấm, tất nhiên phải trong khuôn khổ của nền
đạo đức XHCN và tôn trọng lợi ích của xã hội và của người khác. Nguyên tắc này
bảo đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng quyền, lạm quyền và mặt khác chống
những hành vi tự do, vô chính phủ.
Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là xây dựng chế độ trách nhiệm qua
lại giữa Nhà nước và công dân (cá nhân), tức là giữa một bên là người đại diện
quyền lực Nhà nước và một bên vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quyền lực
Nhà nước. Ở đây, Nhà nước xác định cho mình, cho các cơ quan Nhà nước và
những người có chức vụ trách nhiệm pháp lý rõ ràng về các hành vi của họ. Công
dân được đảm bảo quyền và khả năng bắt buộc cơ quan Nhà nước và những người
có chức vụ phải chấp hành pháp luật, thực thi trách nhiệm của mình đối với họ.
Muốn giải quyết mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước thì Nhà nước phải đặt
mục tiêu của mình là phục vụ lợi ích chính đáng của dân. Hơn nữa, việc của đất
nước là việc của dân, cho nên muốn làm việc của dân, cho nên muốn làm việc của
đất nước thì phải tập hợp rộng rãi, phát huy khả đầy đủ năng và trí tuệ của toàn
dân để cùng lo việc nước. Đồng thời phải xây dựng một cơ chế để nhân dân kiểm
soát có hiệu quả đối với các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước. Liên quan
tới vấn đề này, phải từng bước hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, nhưng cần hết
sức coi trọng việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, tạo thành thói
quen tốt trong sinh hoạt xã hội.
Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân bầu ra. Do đó, một khi
Nhà nước không còn vì dân, nghĩa là nó không đáp ứng được lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân có quyền bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với nói. Đó là cơ sở để
Bác Hồ nói rằng: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Trong các chế độ cũ, Nhà nước là bộ máy của giai cấp bóc lột dùng để thống trị
và áp bức nhân dân; cho nên viên chức, quan lại tự xưng là cha mẹ dân, đè đầu
cưỡi cổ dân. Trong chế độ dân chủ XHCN, người chủ Nhà nước là nhân dân;
người cán bộ Nhà nước là do dân lựa chọn, được nhân dân ủy quyền là “công
bộc”; làm cán bộ là “làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan Cách
mạng”. Trong các cơ quan Nhà nước, cán bộ vừa là lãnh đạo, vừa là người hướng
dẫn của nhân dân. Do đó, “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực
lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không có ai dẫn đường”. Chính vì
vậy, trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, Đảng
viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
của nhân dân. Là người đầy tớ, cán bộ phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ… Là người lãnh đạo thì
phảI có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi và
trọng dụng những người hiền tài, đức độ. Bởi vậy, người thay mặt và người đại
diện cho dân phải là người có đức, có tài, phải vừa “hiền” lại vừa “minh”.
II-3. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân
phải dựa trên truyền thống, đặc điểm dân tộc, nhất là truyền thống chính trị của
đất nước.
Ngày nay, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường với định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; việc mở cửa đối với bên ngoài sau
khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ; những yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội
đang đòi hỏi bộ máy Nhà nước phải được đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không phải
là quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, xây dựng lại từ đầu một bộ máy Nhà nước
theo một đường hướng khác, mà là kế thừa và nâng lên tầm cao mới những giá trị
truyền thống của Nhà nước để xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN.
II-4. Xây dựng quyền lực Nhà nước của các công dân trên nền tảng một hệ thống
pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Tư tưởng về xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xã hội của các công dân
thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực với pháp luật. Trong đó pháp
luật là cơ sở để duy trì quyền lực Nhà nước, bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ
chức của giai cấp, lại vừa là hình thức thực hiện quyền lực công khai. Vì vậy, Nhà
nước chỉ có thể biểu hiện ý chí phổ biến và quyền lực công khai của mình đối với
xã hội, với mọi công dân thông qua pháp luật. Xây dựng quyền lực Nhà nước
trong quan hệ xã hội của các công dân là xây dựng một hệ thống pháp luật trên
nền dân chủ thực sự, xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân. Pháp luật phải định
hướng mọi công dân và tổ chức xã hội vươn tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới tự
do đích thực của con người. Để đạt được mục đích đó, pháp luật phải khách quan,
công bằng, bình đẳng và dân chủ, lấy quyền con người, giải phóng con người làm
trung tâm để xây dựng quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước phải thuộc về
nhân dân, phải thể hiện ý chí của nhân dân, là sự phản ánh khách quan các nhu
cầu xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Mặt khác, khi đặt ra các thiết chế của mình
trong khuôn khổ pháp luật, hoặc thiết lập cơ chế để kiểm tra tính hợp pháp, hợp
hiến của các đạo luật, các cơ quan quyền lực Nhà nước cũng phải làm sao cho hệ
thống pháp luật được xây dựng trên sự tự do và các quyền công dân được bảo
đảm. Pháp luật XHCN thể hiện ý chí chung của xã hội, được bảo đảm bằng sức
mạnh cộng đồng. Nhà nước tôn trọng pháp luật như một giá trị xã hội chung;
đồng thời quyền lực Nhà nước là cơ sở, là tiến đề quan trọng nhất để bảo đảm cho
pháp luật có được bản chất pháp lý của nó. Hệ thống pháp luật của Nhà nước luôn
là chỗ dựa cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực làm giá đỡ cho việc xác
định các mục tiêu của quyền lực Nhà nước là vì con người, vì xã hội của các công
dân. Vì vậy, mọi thiết chế quyền lực Nhà nước phảI thực sự bảo đảm tính công
bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội công dân. Bảo đảm trên nguyên tắc mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật.
Xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ với xã hội của các công dân là để
bảo đảm cho mỗi công dân được hưởng những quyền tự do vốn có của họ và
không thể bị tước bỏ. Nhưng sự tự do của mỗi công dân phải dẫn tới sự thống
nhất của cả trật tự xã hội. Sự thống nhất đó chống lại mọi sự chiếm đoạt quyền
lực Nhà nước bởi các cá nhân chuyên quyền đứng bên trên và bên ngoài dân, hoặc
là loại bỏ sự vô trách nhiệm và bất lực của những người cầm quyền. Chính vì vậy,
mỗi người dân là một giá trị tuyệt đối của quyền lực Nhà nước chứ “không thể là
công cụ của bất kỳ ai, dù là có mưu đồ tốt đẹp nhất”.
Thực chất quyền lực Nhà nước là quyền lực của mọi công dân liên hiệp lại tạo
thành Nhà nước, chính công dân giao cho người đại diện của mình thừa hành
quyền lực đó. Cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ thừa hành quyền
lực do công dân uỷ nhiệm. Vì vậy, công dân mới thật sự là chủ thể của quyền lực
Nhà nước. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong mối quan hệ với xã hội của các
công dân là giải quyết mâu thuẫn giữa quyền lực Nhà nước tập trung với quyền
lực và tự do của công dân. Xã hội phải có quyền lực Nhà nước tập trung, nhưng
không phải mọi nhu cầu của người lao động Nhà nước đều lo được. Bởi vì
“không gian quyền lực Nhà nước là có giới hạn, còn đối với cá nhân tự do thì
không gian là vô tận”. Do đó xây dựng quyền lực Nhà nước là phải tạo ra một hệ
thống chính trị để làm cho hai mặt trên trở thành điều kiện và nguyên nhấn của
nhau. Trong hai mặt đó, mặt công dân là nền tảng, là ngọn nguồn, là mục đích của
mọi quyền lực Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
II-5.Nhà nước pháp quyền XHCN phải được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc
tập trung dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc căn bản, là một yêu cầu tự nhiên và tất yếu của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN với tư cách là một
chế độ chính trị. Vì nếu không có dân chủ thông qua bàn bạc, thảo luận, tranh
luận để chọn một giải pháp hợp lý nhất thì không thể tạo được sự thống nhất thật
sự. Nhưng không có tập trung để chuyển sự thống nhất từ quan niệm, nhận thức
sang hành động, thì không bao giờ dân chủ trở thành một giá trị hiện thực, một
kết quả thực tế được “vật chất hoá” mà con người có thể kiểm nghiệm, cảm nhận
được một cách trực tiếp như cơm ăn, nước uống hàng ngày.
Tập trung dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN là sự cần thiết hợp lý để
cho dân chủ tránh được những thói xấu tệ hại của thứ dân chủ bất chấp pháp luật,
kỷ cương, vượt quá hành động pháp lý để rơi vào tự do, hỗn loạn, phá phách, vô
chính phủ. Nó bảo đảm cho các cơ quan quyền lực không thể trở nên nhu nhược,
bất lực mà có thực quyền. Nó kết hợp tính tôn trọng dân chủ, tôn trọng các quyết
định của tập trung với tinh thần trách nhiệm của các tổ chức và các cá nhân có
quyền lực.
Điểm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý Nhà nước theo
tinh thần của Nhà nước pháp quyền là đề cao tinh thần tôn trọng pháp luật, hoạt
động hợp hiến, hợp pháp, thực hiện sự bình đẳng của mọi tổ chức và cá nhân
trước pháp luật, xác lập rành mạch quy chế, chức trách, bổn phận công chức trước
Nhà nước và xã hội. Đó là cơ sở để khẳng định rằng: “sự kết hợp đúng đắn tập
trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực của bộ máy Nhà nước
ta”.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm
đảm bảo cho Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Hoạt động của Đảng thể hiện bản chất cách mạng
và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo
của Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống
chính trị, giúp Nhà nước hoàn thành thuận lợi mọi nhiệm vụ của mình.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng bao gồm đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng, xác định đúng mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo xây dựng nền pháp chế, nhưng Đảng và mọi Đảng viên hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, gương mẫu chấp hành chính sách và
pháp luật; Đảng không lấn sân Nhà nước, không làm thay Nhà nước.
Hiện nay vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam là không thể có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế
được. Vấn đề đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý luận Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà con là kết luận chắc chắn được rút ra từ thực
tiễn của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay.
II-6. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải phù hợp với những giá trị
phổ biến tiến bộ của nhân loại.
Quan niệm về một Nhà nước “Đức trị” và “Làm chính trị phải tựa vào Nhân” của
Khổng Tử là điểm tựa để xây dựng một Nhà nước lý tưởng thân dân, gần dân, lấy
dân làm gốc. Quan niệm đó có những giá trị quý báu mà Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam phải tiếp thu. Mặt khác, những nhà tư tưởng cổ đại đã thấy được
mối liên hệ giữa Nhà nước và pháp luật, vai trò pháp luật trong tổ chức, hoạt động
của Nhà nước, trong đó pháp luật phải thể hiện ý chí của dân và phải khách quan,
công bằng và bình đẳng.
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền tư sản trong thời kỳ đầu cũng đã gắn liền với ý
tưởng về tự do, công bằng, bình đẳng, bác ái… ngọn cờ tư tưởng giải phóng đó đã
tạo nên những động lực xã hội hết sức mạnh mẽ cho sự giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp mà dù muốn hay không vẫn còn giữ nguyên giá trị. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân cũng vì những
mục đích đó.
Vượt lên trên các nhà tư tưởng tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tư tưởng về sự cần thiết của Nhà nước pháp
quyền mà còn hành động cách mạng để thực hiện hoá tư tưởng đó trong xã hội.
Chủ nghĩa xã hội làm nền tảng kinh tế dựa trên chế độ sở hữu XHCN là biểu hiện
cho việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân; đồng thời nó cũng là sự
biểu hiện thực tế của tự do, bình đẳng bác ái… của con người.
C. Mác viết: “Tự do là biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội, thành cơ
quan hoàn toàn phục tùng xã hội, vào thời đại chúng ta, tự do ở mức độ cao hơn
hay thấp hơn của các hình thức Nhà nước được xác định bởi mức độ chúng hạn
chế tự do của Nhà nước”. V. I. Lênin tiếp thu tư tưởng của C. Mác về Nhà nước
pháp luật và phát triển nó trong điều kiện thực tiễn mới phải kế thừa di sản mà
loài người đã tích luỹ được; dưới chủ nghĩa xã hội để điều tiết sản xuất và phân
phối sản phẩm cần phải dùng pháp quyền mà tính tư sản, do đó cần “Một Nhà
nước tư sản không có giai cấp tư sản”. Tiếp tục tư tưởng đó của Lênin, các nhà tư
tưởng sau này khi bàn đến nội dung, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN đã
khẳng định: “Không thể nêu một nguyên tắc nào của quan điểm Nhà nước pháp
quyền XHCN mà chưa được xây dựng từ lâu hoặc không có những điều tương tự
trong các Nhà nước thuộc các hệ thống xã hội khác nhau”. Từ quan điểm đó, các
nhà chính trị pháp lý và triết học Mác – Lênin về Nhà nước pháp quyền đều nhấn
mạnh đến các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân như: quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, tính tối cao của luật,
nguyên tắc phân quyền và thống nhất quyền lực. Trong Nhà nước đó, về bản chất
pháp luật phải đảm bảo tính khách quan công bằng, bình đẳng; pháp luật đảm bảo
quyền con người, quyền tự do dân chủ được quan tâm đặc biệt.
Kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ đó của nhân loại, Đảng ta cho rằng
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân
phải phù hợp với chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối của nền kinh
tế thị trường với định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân phải phù hợp với tính chất xã hội hoá theo hướng phát huy cao độ
sáng kiến của cá nhân, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tự do sáng tạo trong mọi
hoạt động của mình. Để làm được điều đó, Nhà nước có vai trò điều tiết kinh tế ở
tầm vĩ mô, Nhà nước lo cho dân, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện mọi chức
năng xã hội của mình. Do vậy, chức năng xã hội của Nhà nước ngày càng được
mở rộng và đi vào chiều sâu.
Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải kế thừa những giá trị nhân loại trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, chúng ta cũng không xem nhẹ
truyền thống, đặc điểm dân tộc, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Như vậy, Nhà
nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân vừa phản ánh cái
vốn có, đang có, lại vừa phản ánh cả xu hướng đang đến của lịch sử dân tộc và
của thời đại.
III. Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị-xã hội.
Với trách nhiệm được giao, trong những năm qua, MTTQ và các đoàn thể nhân
dân ở đã phát huy vai trò tích cực, thực hiện tốt công tác tuyên truyền về các quan
điểm cơ bản của Đảng về thực hiện dân chủ, các nội dung của Nghị định Chính
phủ về Quy chế, đặc biệt là việc thực hiện QCDC ở cấp xã do MTTQ trực tiếp
theo dõi giám sát.
Để nâng cao nhận thức, phát huy dân chủ rộng rãi trong nhân dân, MTTQ ở cơ sở
đã phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân thông qua MTTQ tham gia góp ý
kiến bổ khuyết cho những thiếu sót, tồn tại trong hoạt động quản lý nhà nước,
quản lý xã hội, trong việc thực hiện các nội dung trong QCDC, nhất là việc thực
hiện công khai (thông tin, thống báo để dân biết), dân chủ (bàn bạc thảo luận, đối
thoại với dân) giải quyết và trả lời những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân đối
với chính quyền địa phương, cơ sở. Ngoài ra, còn tổ chức thực hiện tốt Cuộc vận
động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư"; phong trào
xoá nhà tạm, nhà dột nát cho người nghèo. Đặc biệt là trong những năm qua,
MTTQ chỉ đạo thực hiện "Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư" đã
có tác dụng tốt trong việc động viên nhân dân tham gia các hoạt động xã hội -
nhân đạo từ thiện; hoà giải ở cơ sở, đóng góp ý kiến kịp thời cho cấp uỷ, chính
quyền, đoàn thể, nhất là cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh đó, MTTQ các cấp còn chủ động phối hợp với các đoàn thể thường
xuyên quan tâm đến công tác củng cố, kiện toàn Ban Thanh tra nhân dân. Hầu hết
xã, phường, thị trấn đã có Ban Thanh tra nhân dân hoạt động theo sự chỉ đạo trực
tiếp của MTTQ cùng cấp.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ban Thanh tra nhân dân trong việc
thực hiện QCDC là hoạt động giám sát đã được tăng cường, mở rộng theo đúng
quy định của pháp luật, hướng tập trung giám sát việc thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó, động viên
các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, phấn đấu thực hiện
thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương. Giám sát những vấn đề bức
xúc ở địa phương có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân như công tác
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và công tác hoà giải tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố
cáo…
Nhiệm vụ quan trọng nữa là việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ
chủ tịch HĐND-UBND cấp xã và trưởng thôn, khu.
Từ việc chỉ đạo lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh chủ tịch HĐND, UBND xã
và các trưởng thôn, khu đã khẳng định đây là một chủ trương đúng của Đảng, hợp
lòng dân. Thông qua việc tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân đối với phần tự
phê bình và phê bình, kiểm điểm công tác của các đồng chí trên đã thực sự phát
huy dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cơ
sở có phong cách "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với
dân". Qua đó đã góp phần củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống
chính trị ở cơ sở, nhất là nâng cao năng lực công tác của cấp thôn, khu. Mặt khác,
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Hàng năm, MTTQ các cấp tiến hành sơ, tổng kết việc thực hiện QCDC ở cơ sở,
qua đó vai trò của MTTQ và các đoàn thể đã thực sự được đề cao, góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động của chính quyền, gắn với phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời động viên nhân dân tích cực đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.
Phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể trong công tác chỉ đạo thực hiện
QCDC ở cơ sở, thời gian tới MTTQ và các tổ chức thành viên tổ chức tốt các hoạt
động phối hợp với chính quyền nhằm tạo các điều kiện và môi trường thuận lợi để
mọi người, mọi thành phần kinh tế phát huy cao độ các nguồn lực và tài năng
sáng tạo, ra sức phát triển sản xuất kinh doanh, làm giầu hợp pháp, xoá đói giảm
nghèo, đẩy mạnh phát triển giáo dục Không ngừng bồi dưỡng nâng cao năng
lực, trình độ đội ngũ cán bộ chủ chốt MTTQ và đoàn thể nhân dân để hoàn thành
tốt chức năng "phản biện xã hội"; làm tốt chức giám sát trên cơ sở phát huy quyền
làm chủ của nhân dân theo Quy chế dân chủ. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
làm rõ việc phát huy dân chủ phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Tạo
mối quan hệ "cầu nối" giữa cấp uỷ đảng, chính quyền với nhân dân, tạo lập niềm
tin của dân đối với Đảng và chính quyền; tích cực tham gia công tác xây dựng
Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Tham khảo:
• Bài trả lời phỏng vấn của Báo Nhân Dân về đánh giá những đổi mới phương
thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị những
năm vừa qua, về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp
chủ yếu tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị trong những năm tới của đồng chí Trương Tấn
Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư.(tháng 10 năm 2007)
• MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT
NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN (Tác
giả Nguyễn Trọng Thóc –Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh)
www.hcmussh.edu.vn/USSH/ImportFile/Magazine/Journal051006041441.doc
• Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
/>Phần III: Tổng kết
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể:
Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của
Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì
dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy
Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực
và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu
quả hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của
tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp
lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm
quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá,
chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội
ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm
chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công
tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham
nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa
không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm
trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được
xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động
chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội
ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn
chắp vá.
Để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, từ nay đến
năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống
chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống
chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm
chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và
cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ
phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo
việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp
dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và
đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi
mới kiện toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.
“ Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn mới nhằm xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân
dân”(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
TKQĐ lên CNXH, Nxb Sự Thật, HN
1991,tra.19)