Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.6 KB, 69 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
2.2.1 Hoạt động huy động vốn.......................................................................................33
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển nhanh, mạnh ở nhiều lĩnh
vực. Đảng và nhà nước đã đưa ra mục tiêu biến nước ta cơ bản thành một
nước công nghiệp vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu này là một vấn đề
không hề đơn giản, nó đòi hỏi cần có sự phát triển toàn diện ở tất cả các
ngành và cần sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân. Ngành ngân hàng cũng
không phải là ngoại lệ, là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế, là cầu nối giữa những người muốn tiết kiệm và những người
muốn đầu tư. Là một trung gian tài chính quan trọng các ngân hàng một khi
phát triển sẽ là cơ sở cho sự phát triển của các ngành khác. Chúng ta đang ở
trong giai đoạn kinh tế toàn cầu, giai đoạn mà hàng rào kinh tế giữa các nước
đang dần dần được phá vỡ, nước ta cũng đã gia nhập vào tổ chức thương mại
thế giới WTO. Điều này, một mặt là cơ hội tốt để các ngân hàng mở rộng
phạm vi hoạt động, tăng doanh số, lợi nhuận một mặt là một thách thức rất
lớn đối với các ngân hàng, các ngân hàng thương mại đang phải đối mặt với
sự cạnh tranh khốc liệt trong nội bộ hệ thống ngân hàng và giữa các ngân
hàng với những tổ chức tài chính khác. Vì vậy, để có thể giữ được khách hàng
và không ngừng gia tăng lợi nhuận, các ngân hàng thương mại luôn phải chú
trọng nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới với chất lượng cao nhất,
đáp ứng nhu cầu thị trường, bên cạnh đó cần được sự giúp đỡ của nhà nước,
nhằm phát huy nội lực, không ngừng nâng cao tính hiệu quả, chính xác của
các hoạt động của mình đặc biệt là các hoạt động tín dụng. Hoạt động tín
dụng là hoạt động chủ yếu của các ngân hàng, quyết định đến thành công hay
thất bại, đến lợi nhuận của ngân hàng. Tuy vậy, hoạt động tín dụng lại là hoạt
động chức đựng nguy cơ rủi ro cao nhất, nếu rủi ro xảy ra sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến các ngân hàng thậm chí có thể làm cả hệ thống ngân hàng sụp đổ.


Như vậy, việc quản lý, phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một việc mà các ngân
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng cần hết sức quan tâm nếu muốn duy trì hoạt động cũng như tăng tổng số
lợi nhuận, tài sản của mình. Vì thế, trong thời gian thực tập tại ngân hàng
VPBank em đã tìm hiểu về hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng và của
cả hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và chọn đề tài “ hạn chế rủi ro
tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh VPBank ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề thực tập gồm:
Chương I:Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thuơng mại.
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại Cổ
phần Các Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Việt Nam – VPBank.
Chương III: Các giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại
VPBank và một số kiến nghị.
Em xin chân thành cảm ơn Ths HOÀNG LAN HƯƠNG đã hướng dẫn
tận tình và chu đáo, giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Trong quá trình thực tập em đã cố gắng học hỏi và nghiên cứu, tìm tòi,
nhưng do kiến thức thực tế còn chưa nhiều, kinh nghiệm còn ít, nên chuyên
đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến
của cô để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá
nhân, gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại

các ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ của toàn xã hội.Vì thế,
ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất.
Ngoài ra, ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách
tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ
nhằm ổn định kinh tế.
Với mục tiêu lợi nhuận, đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ
hoặc các giấy tờ có giá khác và mục tiêu của ngân hàng cũng là các đối tượng
mà nó kinh doanh. Ngân hàng cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp như: mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản vật có giá,
cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ,
tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài
hạn, cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý…
 Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Trong thị trường tài chính ngày
nay, mua ban ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện
bởi vì những giao dịch như vậy thường có độ rủi ro cao và đòi hỏi
trình độ chuyên môn cao.
 Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động mang lại lợi nhuận cao
vì thế ngân hàng tim mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng.
Ví dụ như hiện nay do chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam
nên có nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất tiền gửi lên tới 12%/ năm, đây là mức
lãi suất được xem là tương đối cao, tuy nhiên có lẽ là chưa dừng lại ở mức
này.
 Cho vay: gồm có cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ
cho dự án.
Ngày nay, khi mà thị trường tài chính ngày càng phát triển thì Ngân
hàng thương mại trở thành một trung gian tài chính không thể thiếu trong nền

kinh tế. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt thúc đẩy các ngân hàng
cung cấp các tiện ích ngày càng tốt hơn cho khách hàng. Vì thế, các ngân
hàng trong nước cần phải áp dụng công nghệ mới, thay đổi tư duy về tuyển
dụng nhân sự, mức lương, quảng cáo và đặc biệt chú ý tới chất lượng các dịch
vụ.
Ngân hàng thương mại có chức năng chủ yếu như: là trung gian tài
chính, tạo phương tiện thanh toán, trung gian thanh toán.
•Là trung gian tài chính: đây là chức năng quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Trong xã hội có những người thừa tiền(tức là thu nhập của
họ hiện tại lớn hơn các khoản chi cho tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, và do đó
có tiền để tiết kiệm) và cũng có những người thiếu tiền(tức là thu nhập không
đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu và đầu tư nên cần được bổ sung vốn) những
người thừa tiền tìm đến ngân hàng gửi tiền tiết kiệm nhằm để lấy tiền lãi còn
những người thiếu tiền lại tìm đến ngân hàng nhằm vay thêm vốn để đầu tư.
Vì thế, ngân hàng tập hợp được những người cần tiết kiệm và những người
cần vốn để đầu tư, tức là ngân hàng chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
•Tạo phương tiện thanh toán: Tiền- vàng có một chức năng quan trọng
là làm phương tiện thanh toán. Ban đầu, các ngân hàng đã tạo ra phương tiện
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm
giữa. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim
loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất giữa, nó trở thành tiền
giấy. Mỗi quốc gia có loại tiền riêng ví dụ như Việt Nam có tiền VND, Mỹ có
đồng USD. Ngày nay, tiến bộ khoa học phát triển với những ứng dụng hiện
đại thì tiền mặt đã ngày càng được hạn chế vì những nhược điểm của nó thay
vào đó là nhiều hình thức thanh toán mới như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm
thu, nhờ chi, các loại thẻ…
•Là trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.Thay mặt khách hàng, ngân hàng

thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Ngoài ra, các ngân hàng còn
thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc
các trung gian thanh toán khác.Với nhiều hình thức thanh toán khác nhau và
ngày càng hiện đại đã góp phần làm cho ngân hàng trở thành trung tâm thanh
toán quan trọng và hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.2 Tín dụng ngân hàng
1.1.2.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và
của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài
sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho
thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy, nghiệp vụ tín dụng không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà còn có
ý nghĩa quan trọng quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phí nhất định. Ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hoàn thành
nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng
cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng...
của các chủ thể kinh tế góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng
máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, ngân hàng vừa là
người đi vay vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của
ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay. Khi thiết lập một quan hệ tín
dụng phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc đó là : có thời hạn, có hoàn trả và có đền
bù. Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, hai bên thoả thuận
với nhau một thời hạn nợ và mức nợ, do đó hình thức của tín dụng là di

chuyển vốn vay từ ngân hàng sáng cho khách hàng nhưng không phải là sự
chuyển đổi về quyền sở hữu vốn, sự chuyển nhượng này chỉ chuyển quyền sử
dụng vồn từ ngân hàng sáng cho khách hàng. Sau khi đến hạn thoả thuận,
khách hàng hoàn trả khoản vốn đó cho ngân hàng kèm theo một tỷ lệ % tiền
lãi. Khi thiết lập quan hệ tín dụng của khách hàng mối quan tâm lớn nhất của
ngân hàng là khoản tín dụng đó có đem lại lợi nhuận cho ngân hang hay
không, khách hàng có trả được nợ đúng hạn hay không? Chính vì thế, để thiết
lập một mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng là phải dựa trên
khả năng tài chính của khách hàng, dựa trên lòng tin, sự tin tưỏng của ngân
hàng về khả năng hoàn trả nợ đúng hạn của khách hàng.
Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn nhất. Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá
nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
i. cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đời sống
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ii. cho vay trung han, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
1.1.2.2 Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau, sau
đây là một số cách phân loại.
 Căn cứ theo phương thức cho vay.
Theo tiêu thức này, tín dụng Ngân hàng được chia thành một số loại sau đây:
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Đây là hình thức cho vay mà tổ chức
tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền
có trên tài khoản thanh toán của khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian xác
định.

- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức cam kết bảo đảm
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định.
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín
dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các
dự án đầu tư phục vụ đời sống.
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng
thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng .
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ
chức cấp tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút
tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín
dụng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một
tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng
khác.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để
trả nợ theo nhiều kì hạn trong thời hạn cho vay.
 Căn cứ vào thời gian cho vay.
Thời gian cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
- Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới
1 năm và thường được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và
khả năng trả nợ của khách hàng.

- Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn ở Việt Nam có thời hạn từ 1
đến 5 năm, còn đối với một số nước trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn
đến 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài
sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ mà thời gian thu hồi vốn
nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Loại tín dụng này có thời hạn cho vay trên 5 năm
(Việt Nam), hay trên 7 năm (đối với một số nước trên thế giới). Tín dụng dài
hạn được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: đầu tư xây dựng các
xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân
bay...), cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
 Căn cứ vào đối tượng cho vay
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố
định. Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí
nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12
tháng.
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu
động cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh
doanh như mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất,
cho vay để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường
được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho
vay vốn ngắn hạn thường dưới 12 tháng.
 Căn cứ vào mục đích sử dụng.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá
tiêu dùng... Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng
tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá.

- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các
chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
 Phân loại theo thành phần kinh tế
Theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành:
- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước.
- Cho vay kinh tế tập thể.
- Cho vay kinh tế tư nhân.
- Cho vay kinh tế cá thể.
- Cho vay kinh tế hỗn hợp.
Trước đây kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo tuy nhiên hiện nay do sự
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát triển của nền kinh tế, đã có rất nhiều doanh nghiệp đã được cổ phần hoá
nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Nhà nước đã có chính sách khác nhau
đối với từng khu vực kinh tế, có tác động lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp
tín dụng ngân hàng tới các thành phần kinh tế nói chung. Mặt khác, mỗi thành
phần kinh tế lại có những đặc điểm riêng biệt nên ngân hàng cần phải có thái
độ khác nhau khi cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế này vay vốn.
1.1.2.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân
Thứ nhất, nó có vai trò là góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh
nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… Đồng thời tín dụng
ngân hàng còn đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho các doanh nghiệp và cá
nhân để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, góp phần điều hoà vốn trong
toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản
xuất, lưu thông hàng hoá, ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể
tách khỏi sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Nó là cầu nối giữa tiết kiệm và
đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là nhu cầu tiết kiệm vốn cho
đầu tư phát triển.
Hai là: Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Là trung gian tài chính, hoạt động chính của ngân hàng là tập trung vốn,
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi còn phân tán ở mọi tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh
tế và các doanh nghiệp... trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế, thực hiện
tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại, nâng
cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng nội
địa và xuất khẩu.
Tín dụng Ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các
nhà sản xuất kinh doanh cạnh tranh trên thị trường một cách có hiệu quả nhất.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ba là: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, các ngành
kinh tế kém phát triển và các nghành mũi nhọn, thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo và các chương trình dự án mang tính chất xã hội khác.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân
đối, lạm phát và thất nghiệp luôn có khả năng tiềm ẩn. Bên cạnh đó, nông
nghiệp lại là ngành sản xuất chính, thu nhập bình quân đầu người thấp. Vì
vậy, muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu người, giải quyết nạn thất nghiệp
không phải chỉ dựa vào quỹ ngân sách nhà nước hoặc trông chờ vào các khả
năng góp vốn của nước ngoài. Tín dụng Ngân hàng thực sự giữ vai trò quan
trọng trong việc đầu tư cho các dự án có ý nghĩa kinh tế xã hội. Song song với
việc tài trợ cho các nền kinh tế mũi nhọn, có tiềm năng kinh tế lớn như sản
xuất, hàng xuất khẩu, hàng mỹ nghệ, khai thác dầu khí…
Bốn là: Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản
xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và tạo điều kiện để phát
triển trên các quan hệ kinh tế đối với nước ngoài.
Ngân hàng tập trung vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường
tiêu thụ cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và uy tín. Tín dụng ngân
hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn, tạo cho các
doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nước
ngoài. Vì trong điều kiện kinh tế hiện nay, phát triển kinh tế của một nước

được gắn liền với thị trường thế giới. Điều đó đồng nghĩa với việc tín dụng
ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các
nước với nhau.
Năm là: Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, nhà nước có thể kiểm
soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện
pháp, chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Đồng thời điều chỉnh cơ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cấu kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách
về tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay
khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát
triển kinh tế của nhà nước.
1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Rủi ro của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc
biệt – hàng hoá là tiền tệ. Vì thế, nó tồn tại nhiều rủi ro. Rủi ro là những tổn
thất có thể xảy ra ngoài dự kiến.
Phân chia rủi ro theo loại tài sản gồm có: rủi ro trong quản lý và kinh
doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng
khoán, rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.
Phân chia theo nguyên nhân – các nhân tố tác động, gồm có rủi ro do
người vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do
thay đổi tỷ giá, rủi ro do các nguyên nhân khác.
Sau đây là các loại rủi ro phổ biến như:
 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả
đầy đủ cả vốn và lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng, ngân hàng
không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó
luôn hàm chứa rủi ro.

 Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến của ngân
hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi ngoài dự tính. Trong cơ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chế thị trường, tỷ giá thường xuyên thay đổi. Có những thay đổi có thể dẫn
đến tổn thất cho ngân hàng.
 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với
thay đổi lãi suất và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kì hạn của tài sản và
nguồn, quy mô và kì hạn các hợp đồng kì hạn…
Nguyên nhân rủi ro lãi suất là
 Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản.
 Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng
 Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng.
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong
điều kiện lãi suất thường xuyên thay đổi. Vì thế cần phải hạn chế rủi ro lãi
suất bằng các biện pháp như: duy trì sự phù hợp về kì hạn của nguồn và tài
sản, thực hiện trao đổi lãi suất, áp dụng lãi suất thả nổi, sử dụng các hợp đồng
kì hạn…
 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân
hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến
làm tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng
mất khả năng thanh toán
 Các rủi ro khác
Các rủi ro khác là khả nằng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong
thanh toán, hoản loạn, lỗi công nghệ…
1.2.2 Rủi ro tín dụng
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Hoạt động ngân hàng luôn hàm chứa rủi ro, đặc biệt và thường xuyên là
rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng của các ngân hàng đang trở nên rất đáng quan
tâm.
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất là khả năng khách hàng nhận
khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với
ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả,
không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng. Khi thực hiện cho
vay đối với một ngân hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó
sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên, những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Rủi
ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của
ngân hàng thương mại- hoạt động tín dụng. Loại rủi ro này có thể phát sinh do
những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan và cả từ hai phía khách hàng
và ngân hàng.
 Về phía khách hàng
Rủi ro tín dụng phát sinh có thể do những nguyên nhân khách quan lẫn
chủ quan. Về mặt chủ quan có thể do trình độ quản lý của khách hàng yếu
kém dẫn đến sử dụng vốn vay kém hiệu quả hoặc thất thoát ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ. Cũng có thể do khách hàng sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng
thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình, họ tìm đủ mọi cách
ứng phó với ngân hàng như cung cấp sai thông tin, thiếu thiện chí trong việc
trả nợ trong khi biện pháp xử lý nợ của ngân hàng tỏ ra kém hiệu quả. Về mặt
khách quan có thể do khách hàng gặp phải những thay đổi môi trường kinh
doanh không thể lường trước được, chẳng hạn sự thay đổi về giá cả hay nhu
cầu thị trường, sự thay đổi về môi trưòng pháp lý hay chính sách của chính
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phủ khiến cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể
khắc phục được. Vì thế, doanh nghiệp không thể trả nợ cho ngân hàng được.

 Về phía ngân hàng
Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do nguyên nhân chủ quan như quá trình
phân tích và thẩm định tín dụng không kỹ lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết
định cho vay. Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng
hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai. Mặt khác, cũng có thể quyết định
cho vay đúng đắn nhưng do thiếu kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến
khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích nhưng ngân hàng vẫn
không phát hiện kịp thời để ngăn chặn. Vì thế, để cho vay tốt, cán bộ tín dụng
phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà
khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách
hàng vay. Như vây, họ cần được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và
toàn diện, đặc biệt cán bộ tín dụng phải có đạo đức nghề nghiệp.
1.2.2.2 Các hình thức rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả nợ gốc và nợ lãi đúng
hạn, đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia
rủi ro tín dụng thành 4 mức độ rủi ro tín dụng khác nhau:
1.2.2.2.1. Không thu lãi đúng hạn
Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó
ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Sở dĩ hình
thức này được xếp vào cấp độ thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn
quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối
trong thời hạn thu nợ và trả nợ của khách hàng. Hình thức này có xảy ra cũng
không gây tổn thất quá lớn đến ngân hàng, bởi lẻ số lãi mà ngân hàng chưa
thu được trong kỳ sẽ được hạch toán cho kỳ tiếp theo. Thông thường rủi ro
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
này thường gắn với khách hàng là các doanh nghiệp có thời hạn của khoản
vốn thường khá dài.
1.2.2.2.2. Không thu được vốn đúng hạn
Đây là hình thức rủi ro xảy ra khi đã đến kỳ hạn trả nợ nhưng khách

hàng vẫn chưa hoàn trả cho ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ chuyển khoản
nợ này vào danh mục nợ quá hạn, số vốn của ngân hàng trong một chừng mực
nào đó có thể xem là đã mất nhưng trong thực tế khoản nợ quá hạn vẫn hoàn
toàn có thể thu hồi được nếu ngân hàng có các biện pháp hợp lý đối với khách
hàng của họ. Khoản vay của khách hàng đối với ngân hàng thường có kỳ hạn
xác định (6 tháng, 12 tháng, 24 tháng) trong khi hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thường không có kỳ hạn xác định, nhiều khi nó chậm hơn dự tính
một khoảng thời gian nhất định. Chính vì thế, nhiều khi ngân hàng cần gia
hạn cho khách hàng trong một thời gian ngắn để họ hoàn thành chu trình kinh
doanh của mình.
Thời gian từ khi một khoản vốn được xem là nợ quá hạn đến khi nó được
coi là không thể thu hồi là khá dài và trong thời gian này ngân hàng sẽ có các
biện pháp để thu được vốn, thông thường tỷ lệ nợ quá hạn là khá cao còn nợ
không còn khả năng thu hồi là rất nhỏ. Các khách hàng của ngân hàng sở dĩ
chưa trả được khoản vay đúng hạn vì nhiều lý do có thể do chủ quan hay do
khách quan. Khi nguyên nhân là chủ quan thì ngân hàng cần có các biện pháp
để khách hàng thay đổi hành vi để họ đưa ra quyết định trả nợ. Còn khi
nguyên nhân là khách quan, khi khách hàng hiện tại chưa đủ năng lực về tài
chính thì ngân hàng cần có các biện pháp để giúp đỡ khách hàng như gia hạn
thời hạn vay, cho vay thêm để khách hàng có thể đủ tiền trả cho khách hàng.
Khi khách hàng cân đối được thu chi thì họ sẽ hoàn trả được khoản vay.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tóm lại, rủi ro không thu được vốn đúng hạn là hình thức có thể gây hậu
quả lớn đối với ngân hàng. Để hạn chế được rủi ro này ngân hàng cần có các
biện pháp linh động, phù hợp với từng đối tượng khách hàng cụ thể. Trong
nhiều trường hợp ngân hàng cần như một nhà đầu tư mà đối tượng đầu tư là
khách hàng của họ. Nhưng biện pháp thích hợp nhất vẫn là xem xét tính hiệu
quả dự án của khách hàng, có các biện pháp hạn chế tác hại khi có rủi ro xảy
ra như tài sản thế chấp, trả gốc định kỳ.

1.2.2.2.3. Không thu được đủ lãi.
Tình hình trở nên nghiêm trọng hơn khi ngân hàng không thu được lãi
lúc này, tình hình kinh doanh của khách hàng có thế đã kém hiệu quả tới mức
không thể trả đủ lãi cho ngân hàng. Khi đó, ngân hàng phải chuyển khoản lãi
này vào khoản mục lãi treo đóng băng, thậm chí có thể phải thực hiện miễn
giảm lãi cho khách hàng.
Hình thức này có thể xem là hình thức tiếp theo của hình thức rủi ro
không thu được lãi đúng hạn. Ban đầu, vì một lý do nào đó khách hàng chưa
thể thanh toán khoản lãi đúng kỳ hạn nhưng khi tình hình trở nên xấu đi
khách hàng không thể thanh toán được khoản lãi nữa. Các ngân hàng rất dễ
mắc phải rủi ro này nếu họ cho vay một cách tràn lan mà không xem xét tính
hiệu quả của một khoản vay nào đó, tất nhiên là trong một số trường hợp là
nguyên nhân khách quan, bất khả kháng mà khách hàng dù đã tính toán kỹ
vẫn mắc phải.
Để hậu quả của rủi ro này không ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng
của ngân hàng thì họ cần có các hình thức cho vay phong phú, linh động, và
đặc biệt cán bộ tín dụng cần xem xét tính khả thi, hiệu quả của khoản vay
trước khi có các quyết định cho vay. Việc thu lãi định kỳ cũng sẽ hạn chế hậu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quả, giúp ngân hàng xác định sớm được rủi ro mà họ mắc phải để có các biện
pháp thích hợp.
Lãi là phần lợi nhuận của các khoản cho vay của ngân hàng, nó có yếu tố
quyết định đến lợi nhuận ròng mà ngân hàng thu được trong một chu trình
kinh doanh nào đó. Việc quản lý, kiểm soát lãi là vấn đề hết sức quan trọng.
Rủi ro không thu được lãi là điều các ngân hàng không hề mong muốn nhưng
họ cần đối mặt với nó, đó như là chi phí cơ hội cho khoản lợi nhuận trong
tương lai của họ. Chỉ khi nào rủi ro không thu được lãi được phòng ngừa, hạn
chế một cách tối đa thì ngân hàng mới có thể phát triển, tạo được lợi thế cạnh
tranh với các ngân hàng khác.

2.2.4. Không thu được đủ vốn cho vay.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn đầy rẫy rủi ro, giả sử không có
chúng thì hoạt động của ngân hàng hóa ra đã quá đơn giản. Khi thực hiện một
hợp đồng tín dụng nào đó, lẻ dĩ nhiên là ngân hàng muốn thu được cả vốn lẫn
lãi khi hết thời hạn của khoản cho vay đó. Nhưng thực tế nhiều khi họ phải
chấp nhận những trường hợp khách hàng hoàn toàn không có khả năng thanh
toán khoản nợ họ đang thiếu cho ngân hàng. Điều này dĩ nhiên cũng do nhiều
nguyên nhân khác nhau, chủ quan có, khách quan có nhưng vấn đề của ngân
hàng là làm sao tối thiểu các hợp đồng tín dụng không hiều quả này. Xóa nợ
là điều không hề mong muốn nhưng trong một chu kỳ kinh doanh nhất định
ngân hàng cũng phải chấp nhận.
Xóa nợ lẽ dĩ nhiên sẽ làm mất vốn của ngân hàng và ngân hàng phải
dùng số vốn dự phòng để bù đắp chúng. Để hậu quả là không quá tệ hại ngân
hàng cần có các biện pháp phòng ngừa ngay từ khi hình thành một hợp đồng
tín dụng. Hiện nay đối với các khoản vay lớn Ngân hàng thương mại thường
bắt buộc các khách hàng hoàn trả thành nhiều lần vào các thời điểm nhất định,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
như thế rủi ro không thu được vốn xem ra có thể hạn chế được một phần. Tài
sản thế chấp nhiều khi cũng đóng vai trò quan trọng khi khách hàng không
còn năng lực trả nợ nhưng điều mà các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
còn yếu kém là việc định giá tài sản thế chấp còn rất kém, cộng thêm việc giai
lận của khách hàng nên việc áp dụng tài sản thế chấp nếu muốn phát huy hiệu
quả thì ngân hàng cần có các biện pháp nghiệp vụ nhất định.
Trên đây là bốn hình thức của rủi ro tín dụng mà các ngân hàng thường
mắc phải. Ở những thời điểm nhất định ngân hàng có thể gặp một hay nhiều
hình thức rủi ro này, nghiên cứu bốn hình thức rủi ro này giúp cho các Ngân
hàng thương mại có một cái nhìn toàn cảnh về rủi ro tín dụng qua đó họ có
thể ý thức được tác hại của chúng giúp cho họ có các biện pháp nghiệp vụ
hợp lý để phòng ngừa và hạn chế hậu quả mà chúng gây nên. Để hoạt động

tín dụng của mình thực sự có hiệu quả thì các ngân hàng tất yếu phải có các
biện pháp huy động, cho vay hợp lý cần thực hiện các yêu cầu về hoạt động
tín dụng, chu trình tín dụng đúng đắn. Về phía đội ngủ cán bộ nhân viên của
ngân hàng thì họ cần nâng cao nghiệp vụ ngân hàng, không ngừng học tập,
tiếp cận với các kiến thức tiên tiến trên thế giới về lĩnh vực ngân hàng.
Không chỉ cần có kiến thức các ngân hàng cũng cần giáo dục cho nhân viên
của mình về thái độ đối với công việc, đối với khách hàng tạo cho họ có một
môi trường làm việc thích hợp để họ phát huy được năng lực của mình.
Ngân hàng cũng cần có các biện pháp để quản lý chặt chẻ nhân viên của
mình, tránh tình trạng nhân viên vì mưu lợi cá nhân mà bỏ qua các quy tắc
của hoạt động tín dụng dẫn đến nguy cơ rủi ro cao cho các ngân hàng. Gần
đây, một số nhân viên của ngân hàng do mưu lợi cá nhân mà chấp nhận các
dự án không có tính khả thi, hiệu quả dẫn đến việc ngân hàng bị mất vốn khi
khách hàng không có khả năng chi trả khoản mà họ đã vay.
2.3. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín
dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những
nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hoá thành những chỉ
tiêu hoặc những dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh
rủi ro tín dụng:
(1)Nợ quá hạn và tỷ lệ quá hạn trên tổng dư nợ
(2)Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
(3)Nợ có vấn đề
(4)Tính đa dạng hoá của tài sản
(5)Tình hình tài chính của phương án của người vay hoặc xếp hạng tín
dụng người vay.
(6)Đảm bảo tiền vay.
(7)Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.

(8)Môi trường hoạt động của người vay.
2.3.1 Nợ quá hạn
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản
nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên
hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ,
toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khoản nợ
quá hạn và kèm theo một số chỉ tiêu khác như quá một kỳ gia hạn nợ,
hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ
thua lỗ triền miên, phá sản…
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ tín
dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc không trả đúng hạn có liên quan đến
thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi
trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh cáo cho
ngân hàng: Hi vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh, ngân hàng cần có
biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Các quan điểm khác nhau, các tính toán khác nhau về kì hạn nợ và nợ quá
hạn có thể làm cho các chỉ tiêu này bị biến dạng
Thứ nhất do kì hạn trả nợ không đúng.
Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kỳ
kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn
nợ ngắn hạn để hạn chế rủi ro. Kỳ hạn nợ không phù hợp với chu kỳ thu nhập
của người vay. Khi đến hạn, người vay dĩ nhiên không thể trả được nợ, gây
nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe doạ tào chính đối với người vay,
buộc họ phải trả them phần phụ phí để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi
suất phạt.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ.
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ

làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với ngân hàng cấp trên
hoắc để không chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên ngân hàng thoả thuận
vay khoản mới để trả nợ cũ. Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn
nợ đối với khoản nợ mà chắc chắn người vay không thể trả được. Những hành
vi này làm cho chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không thể phản ánh đầy đủ
rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay.
Rất nhiều các khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi bằng phát mại tài
sản. Những khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của Chính
Phủ. Khi Chính Phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng
cân đối của ngân hàng, trở thành tài sản ảo. Xử lý khoản nợ này rất phức tạp.
Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp
vào khoản nợ khoanh ( khi được Chính Phủ đồng ý ). Tuy nhiên chúng thực
sự đe dọa thu nhập của ngân hàng nếu Chính Phủ không tìm ra nguồn bù đắp.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = * 100%
Tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ nợ quá hạn gián tiếp cho thấy được quy mô của các khoản cho vay có
vấn đề của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này càng lớn thì càng chứng tỏ chất lượng tín
dụng của ngân hàng là kém, ngân hàng cần phải xem xét lại khả năng đánh
giá của các khoản vay của mình, đánh giá lại quá trình thủ tục cho vay, đặc
biệt cần xem xét lại khả năng thực hiện nghiệp vụ tín dụng của cán bộ ngân
hàng ở phòng tín dụng. Theo quy định của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam,
thì tỷ lệ nợ quá hạn trên 7% thì ngân hàng này được đánh giá là kém và ngân
hàng cần phải điều chỉnh các nghiệp vụ của mình. Còn nếu tỷ lệ này dưới 5%
thì chứng tỏ ngân hàng này thực hiện các nghiệp vụ tín dụng khá tốt và ngân
hàng cần phải phát huy hơn nữa nhằm làm cho chất lượng cho vay ngày càng
đạt hiệu quả cao hơn, làm cho ngân hàng ngày càng phát triển. Chỉ tiêu nợ
quá hạn có thể thấp, có thể giảm đi qua các năm nhưng là do dư nợ của ngân
hàng tăng nhanh chóng, nợ quá hạn của ngân hàng vẫn tăng đều đặn nhưng

dư nợ của ngân hàng lại tăng nhanh hơn nợ quá hạn. Nếu ngân hàng quá tin
tưởng vào chỉ tiêu này, cho rằng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không
đáng kể khi chỉ tiêu này thấp thì rất là nguy hiểm, vì rất có thể việc mở rộng
quy mô cho vay của ngân hàng không gắn liền việc nâng cao chất lượng tín
dụng sẽ làm cho rủi ro của khoản vay mới đó trong tương lai phát sinh và làm
ảnh hưởng đến ngân hàng. Tuy nhiên nợ quá hạn chưa hẳn là tổn thất của
ngân hàng vì đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp. Vì không phải tất cả các khoản nợ
quá hạn đều dẫn đến rủi ro
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.3.2 Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi, nhà quản lý ngân hàng cũng sử dụng các
hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hoá tài sản,
lập hồ sơ khách hàng,trích lập quỹ dự phòng…
- Điểm của khách hàng
Thông qua phân tích tình hình, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự
án, mối quan hệ và tính song phẳng… ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng,
xếp loại và cho điểm. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn.
- Các khoản cho vay có vấn đề
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình
theo dõi nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu
hiệu kém lành mạnh, có nguy có trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có
vấn đề được xây dựng dựa trên qui định của ngân hàng
- Tính kém đa dạng của tín dụng.
Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kì của
người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một
nhóm khách hàng, của một nghành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao
hơn so vơi đa dạng hoá
- Mất ổn định vĩ mô
Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm pháp cao, tình hình chính trị mất

ổn định… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do
vậy mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một nội dùng phản ánh rủi
ro tín dụng.
1.2.2.4 Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Khi các khách hàng có các dấu hiệu sau đây thì chứng tỏ khách hàng
đó đang có những dấu hiệu về rủi ro tín dụng và ngân hàng cần phải có những
biện pháp nhằm kiểm soát khách hàng đó.
 Từ báo cáo tài chính:
- Ngân hàng không nhận được báo cáo tài chính từ người vay một cách
kịp thời, đúng thời hạn đã cam kết.
- Khả năng thanh khoản, vốn lưu động giảm.
- Có những thay đổi nhanh chóng về tài sản cố định
- Doanh số bán hàng giảm một cách nhanh chóng.
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm.
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh.
 Những dấu hiệu liên quan đến quản trị:
- Các chức năng điều hành và phân công, xử lý công việc thể hiện một
sự chắp vá
- Trong quá trình kinh doanh có những chiến lược mạo hiểm không phù
hợp với thực tế, khả năng của công ty như : từ bỏ các hợp đồng nhỏ mang lại
lợi nhuận ít nhưng ổn định cho công ty, đầu tư các hợp đồng lớn mang lại lợi
nhuận cao nhưng ẩn chứa nhiều rủi ro; đầu tư những lĩnh vực mà bản thân
người lãnh đạo chưa có kinh nghiệm …Việc thực hiện các dự án trên mang lại
những rủi ro cho khách hàng, khả năng thu lợi nhuận và hoàn trả tiền cho
ngân hàng của khách hàng có thể diễn ra không như dự định của khách hàng
và như thế nó sẽ mang lại rủi ro cho cả ngân hàng
- Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế, có thể làm

cho hàng hoá dịch vụ không tiêu thụ được
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu hội đồng quản trị, ban quản lý điều
hành, các cán bộ tổ chức… xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản lý
điều hành
- Có sự chậm trễ trong việc xử lý những thay đổi của thị trường cũng
như môi trường xung quanh.
Từ hoạt động kinh doanh.
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh
- Khách hàng thay đổi chiến lược kinh doanh do những thay đổi trong
chính sách Nhà nước đặc biệt là chính sách thuế, xuất nhập khẩu, thay đổi về
tỷ giá, lãi suất… Hoặc do thay đổi công nghệ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu người
tiêu dùng. Những thay đổi trên cũng là những rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản xuất kinh doanh của khách hàng sẽ gây suy giảm khả năng trả nợ của
khách hàng, là dấu hiệu của rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng
- Ngân hàng nhận thấy có sự chênh lệch giữa doanh thu hay dòng tiền
thực tế khách hàng thu được so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị vay
vốn. Trong báo cáo của khách hàng xuất hiện các khoản chi phí bất hợp lý
như gia tăng đột biến các loại chi phí quản lý, chi phí tiếp khách, chi phí văn
phòng… hay dấu hiệu cho thấy khách hàng có các nguồn thu nhập bất thường
không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc không phải từ hoạt
động được đề xuất trong phương án vay vốn.
- Trong doanh nghiệp có sự thất thoát, thiếu hụt bất thường về tài sản.
1.2.2.5 Tác hại của rủi ro tín dụng
Qua các mục trên ta đã thấy được bản chất của rủi ro tín dụng, các biểu
hiện của rủi ro tín dụng và các nguyên nhân xảy ra chúng. Chúng ta đã biết
rằng rủi ro tín dụng là điều các ngân hàng không hề mong muốn, vậy chúng
thực sự có tác hại ra sao? Trước hết, rủi ro tín dụng làm cho các ngân hàng
khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình dẫn đến quá trình tìm kiếm lợi

nhuận của họ sẽ không còn dễ dàng nữa. Khi rủi ro tín dụng xảy ra họ phải có
thời gian, công sức, tiền bạc để khắc phục chúng. Điều này tất yếu sẻ ảnh
hưởng đến các hoạt động khác trong đó hoạt động tín dụng chịu ảnh hưởng
lớn nhất. Rủi ro tín dụng cũng làm cho số vốn của ngân hàng giảm đi gây ảnh
hưởng xấu đến lợi nhuận, sự an toàn, tính ổn định của hoạt động ngân hàng.
Khi mà rủi ro tín dụng xảy ra thì ở bất cứ cấp độ nào đối với các ngân hàng họ
cũng có khả năng hoặc chắc chắn mất đi một lượng vốn nhất định làm cho
những dự tính và kế hoạch của họ với lượng vốn đó thay đổi. Rõ ràng mất
vốn dẫn đến mất đi một cơ hội để sử dụng nguồn vốn đó cho những hoạt động
kinh tế khác. Hơn nữa, khi mất vốn các ngân hàng phải có kế hoạch để bù đắp
làm cho quy mô kinh doanh khó phát triển hơn. Rủi ro tín dụng khi xảy ra ở
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×