Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

BÀI TIỂU LUẬN--Nghiên cứu đặc điểm sinh học của nấm Vân chi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.26 KB, 25 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
I.1. Đăt vấn đề
Nấm từ rất lâu đã được biết đến như là một nguồn thức ăn dinh dưỡng giàu
đạm, chất xơ, vitamin Nấm có ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người, chúng
có vai trò trong nền kinh tế, khoa học và các chu trình vật chất, năng lượng trong
thiên nhiên. Một số loài nấm được sử dụng trong công nghiệp dược phẩm. Từ hàng
ngàn năm qua, ở châu Á, cả nấm ăn được và nấm không ăn được đều được sử dụng
vì mục đích dinh dưỡng, bồi bổ khí huyết hoặc làm thuốc. Người ta dùng tất cả các
bộ phận của nấm Càng ngày người ta càng phát hiện ra nhiều dược chất có tính
miễn dịch từ nấm. Quá trình tìm kiếm dược phẩm miễn dịch đã diễn ra ở châu Á
(nhất là các nước Trung Quốc, Nhật Bản) từ rất lâu nhưng ở Phương Tây còn chưa
chú trọng lắm. Những năm gần đây nấm được đề cập đến như một nguồn dược liệu
quý giá có khả năng chữa trị được nhiều bệnh như nấm Linh chi (Ganoderma
lucidium), nấm hầu thủ (Hericium enrinaceum)… Khoa học phát triển, dược tính
của nấm ngày càng được phát hiện nhiều.
Nấm Vân chi Trametes versicolor là một loại nấm dược liệu được sử dụng lâu
đời trong truyền thống Phương Đông với nhiều tác dụng kì diệu. Người ta biết đến
hiệu quả chữa bệnh của nấm Vân chi thông qua hai hợp chất chính trích từ nấm
này là PSP (polysaccharide peptide) và PSK (polysaccharide Kureha). Các chất này
được coi là có khả năng chữa trị ung thư, tăng miễn dịch cơ thể, chống các phản
ứng phụ của xạ trị và hoá trị, ức chế sự nhân lên của HIV… Do đó việc hiểu biết về
đặc điểm sinh học, thành phần hóa dược và tác dụng của nấm Vân chi là điều cần
thiết. Do đó em chọn đề tài “ Tìm hiểu về nấm Vân chi - Trametes versicolor ”
I.2. Mục tiêu, đối tượng nghiên cứu
• Mục tiêu
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học của nấm Vân chi
- Thành phần các hợp chất sinh học và dược tính của chúng
• Đối tượng nghiên cứu
- Nấm Vân chi Trametes versicolor
I.3. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập tài liệu từ các nguồn khác nhau: sách, wed…


- Tổng hợp và xử lý thông tin
PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Khái quát về nấm
2.1.1. Giới thiệu chung về nấm
Nấm là những sinh vật có nhân tế bào chính thức, sống dị dưỡng bằng cách
thẩm thấu, cơ thể đa số là sợi nấm dạng ống, phân nhánh lan tỏa tạo thành hệ sợi
nấm hay lạc khuẩn, sinh sản bằng bảo tử .
Tất cả sinh vật sống đều thuộc một trong năm giới. Nấm thuộc một giới riêng gọi
là giới nấm (theo hệ thống phân loại của R.H. Whitaker, 1969). Nấm bao gồm cả
nấm mốc, nấm men và các loài nấm lớn có quả thể. Nấm không quang hợp được.
Do đó nó bắt buộc phải sống trên những chất hữu cơ hoại mục hoặc sống nhờ các
động thực vật khác. Nấm là sinh vật hoại sinh, phân huỷ các chất hữu cơ để l ấ y
chất dinh dưỡng.
Nấm dinh dưỡng bằng cách tiến hành hấp thụ thức ăn trên toàn bộ b ề m ặt của sợi
nấm thông qua phương thức thẩm thấu . Dựa vào cách hấp thu dinh dưỡng của
nấm có thể chia làm 3 nhóm:
- Hoại sinh: Thức ăn là xác bã thực vật hay động vật. Ở nhóm nấm này, chúng có
khả năng biến đổi những chất khó phân hủy thành những chất đơn giản dễ hấp thu,
nhờ hệ men ngoại bào.
- Ký sinh: Chủ yếu các loài nấm gây bệnh, chúng sống bám vào cơ thể sinh vật khác
để hút thức ăn của sinh vật chủ.
- Cộng sinh: Lấy thức ăn từ cơ thể sinh vật chủ nhưng không làm tổn hại sinh vật
chủ, ngược lại còn giúp cho chúng phát triển tốt hơn (như nấm Tuber hay Boletus
cộng sinh với cây thông sồi…).
Trong tự nhiên, nấm đóng một vai trò quan trọng, là máy tái chế sơ c ấp. Chúng
tạo ra các enzyme để phân huỷ chất hữu cơ (thường là các cấu tử g ỗ ). Phần lớn
nấm có khả năng sản sinh ra các enzyme phá huỷ nguyên liệu thực vật thuộc lớp
nấm túi và nấm đảm. Nấm cư trú trên gỗ đã chết chủ yếu phân hủy một hoặc nhiều
cấu tử gỗ, gây mục mạnh.
Hiện nay nấm bao gồm các ngành:

- Ngành Nấm nhầy tế bào (Acrasiomycota)
- Ngành Nấm nhầy giả (Dictyosteliomycota)
- Ngành Nấm nhầy chính thức (Myxomycota)
- Ngành Nấm nhầy nội kí sinh (Plasmodiophoromycola)
- Ngành Nấm một tiêm mao phía trước (Hyphochytriomycota)
- Ngành Nấm nhầy mạng lưới (Labyrinthulomycota)
- Ngành Nấm trứng (Oomycota)
- Ngành Nấm cổ (Chytridiomycota)
- Ngành Nấm tiếp hợp (Zygomycota)
- Ngành Nấm túi (Ascomycota)
- Ngành Nấm đảm (Basidiomycota)
- Ngành Địa y (Lichenomycota)
2.1.2. Giá trị của nấm
Nấm từ rất lâu đã được biết đến như là một nguồn thức ăn dinh dưỡng giàu
đạm, chất xơ, vitamin và tất cả những chất cần thiết cho sự tăng trưởng, phát triển
và sự sống của một người khoẻ mạnh.
Từ hàng ngàn năm qua, ở châu Á, cả n ấm ăn được và nấm không ăn được đều
được sử d ụng vì mục đích dinh dưỡng, bồi bổ khí huyết hoặc làm thuốc. Người ta
dùng tất cả các bộ phận của nấm.
Ngoài giá trị dinh dưỡng, nấm còn có khả n ăng phòng và trị m ộ t số b ệnh. Càng
ngày người ta càng phát hiện ra nhiều dược chất có tính miễn dịch từ nấm. Quá
trình tìm kiếm dược phẩm miễn dịch đã diễn ra ở châu Á (nhất là các nước Trung
Quốc, Nhật Bản) từ rất lâu nhưng ở Phương Tây còn chưa chú trọng lắm.
Dược phẩm miễn dịch có thể được xem như là chất có hiệu quả trong liệu pháp miễn
dịch khi uống vào. Có hơn 50 loài nấm được xếp vào dạng nấm dược liệu có hoạt
tính chữa bệnh in vitro hay trên các mẫu động vật thí nghiệm. Một số chất trích từ
nấm được phát hiện có hoạt tính tăng cường hệ miễn dịch tiềm năng, hoạt tính
miễn dịch chống lại tế bào ung thư hơn hẳn các hoá dược kháng ung thư. Tất cả
đều không độc, hiệu quả và rất dễ dung nạp. Nổi bậc nhất có 6 nhóm chất sau:
Lentinan, AHCC (trích từ n ấm hương Lentinus edodes), Schizophyllan (Nấm

chân chim Schizophyllum commune) Grifron-D (Nấm gà gỗ Grifola frondosa), PSP,
PSK ( Nấm vân chi Trametes versicolor). Các dịch trích chủ yếu được chiết từ quả
thể nấm và sinh khối từ hệ sợi (nuôi cấy lên men trong môi trường lỏng). Cả thành
phần tế bào và các hợp chất biến dưỡng thứ cấp của nấm đều có tác dụng trên hệ
miễn dịch của tế bào chủ và do đó có thể chữa được nhiều bệnh khác nhau. Hướng
kết hợp các tác nhân có tiềm năng miễn dịch với các liệu pháp chống ung thư như
giải phẫu, hoá trị, xạ trị đã đạt được bước tiến đáng kể ở Trung Quốc, Nhật Bản nơi
mà nấm được xem như m ột nguồn kháng ung thư hàng thế kỷ qua.
2.2. Đặc điểm sinh học của Nấm Vân Chi
Nấm Vân chi có tên khoa học phổ biến hiện nay là
Trametes versicolor.
Vân chi là một loại nấm lớn thuộc phân lớp Basidiomycetes gồm khoảng 22 000
loài đã biết. Nấm vân chi gây hoại sinh cây bệnh, cư trú trên gỗ đã chết, thuộc
loại nấm gây mục trắng mạnh có thể phá huỷ đồng thời tất cả các cấu tử gỗ
(hemicellulose, cellulose, lignin), giúp phá vỡ các gốc cây già, cây chết vì thế chất
dinh dưỡng của cây sẽ trở về đất để tái sử dụng. Nấm Vân chi không độc đối với
người nhưng cũng không ăn được vì nó là dạng nấm gỗ.
Vị trí phân loại nấm vân chi
Giới nấm : Fungi
Ngành nấm thật : Eumycota
Ngành phụ nấm đảm : Basidiomycotina
Lớp nấm đảm : Basidiomycetes
Phân lớp nấm đảm đơn bào : Holobasidiomycetidae
Nhóm bộ : Hymenomycetes
Bộ nấm lỗ : Aphyllophorales
Họ nấm nhiều lỗ: Polyporaceae
Chi : Trametes
Loài : Trametes versicolor
2.2.1. Đặc điểm hình thái cấu tạo


Hình 1. Hình thái ngoài của nấm Vân chi
Vân chi là loại nấm hàng năm, không cuống, phát triển một bên. Khi non quả thể
có dạng nhiều u lồi tròn, mọc thành dạng vành với mép tán màu trắng, trắng
kem. Nấm trưởng thành có dạng quả giá, chất da hoá gỗ. Quả thể hình nan quạt
có nhiều vân đồng tâm, chồng chất xen kẽ nhau như ngói lợp, nhìn rất giống
đuôi gà tây đang xòe. Mũ nấm mỏng, phẳng hoặc hơi quăn hình bán nguyệt, mọc
thành cụm đường kính từ 1 đến 8cm, dày khoảng 0,1 – 0,3cm. Mặt trên tai nấm
có lớp lông mịn, mền như nhung, có màu sắc rất khác nhau tùy chủng từ đen,
nâu, xám, xanh đến đo đỏ, trắng hay vàng nhạt. Nấm có nhiều màu sắc như đuôi
của gà tây, Quả thể có dạng hình quạt mọc phủ từng lớp trên thân cây mục. Mặt
nấm lớp trên cùng thường có những màu nâu, trắng , xám hay xanh lam; mặt
dưới trắng có mang những bào tử nhỏ Màu sắc các chủng Vân chi phụ thuộc
vào môi trường và hệ di truyền. Mặt dưới tai nấm màu trắng, màu kem hay hơi
xám có hàng ngàn ống nhỏ. Tất cả các chủng Vân chiều có các ống nhỏ ở mặt
dưới, đây là đặc điểm giúp phân biệt Vân chi với nấm Stereum hissutum. Các
ống này rất nhỏ khoảng 4 – 5 ống/mm, có vách ngăn ngang dày. Miệng ống tròn
hay hơi tròn. Các ống này giúp gia tăng diện tích mang bào tử. Thịt nấm màu
trắng hoặc trắng kem, gồm nhiều sợi dày 0,6 – 2,5 mm.
2.2.2. Đặc điểm vi học
Hệ sợi kiểu trimitic, sợi dinh dưỡng trong suốt, có vách mỏng, có khoá rõ
ràng, đường kính cỡ 2,5 – 3 µm; sợi cứng ở vùng thịt nấm có vách rất dày, không
thấy có vách ngăn tế bào, đường kính tới 4 – 6 µm, rất hiếm khi thấy phân
nhánh; sợi bện cũng có vách ngăn ngang, đường kính sợi nhỏ hơn (2 – 4 µm).
Không thấy có liệt bào, song có thấy cystidioles dạng fusoid, kích thước 15 – 20 x
4 – 5 µm, có khoá ở phần gốc. Đảm bào hình chùy có bốn tiểu bính (nơi đính của
bốn bào tử), có khoá ở phần gốc. Bào tử đảm hình trụ, hơi cong hình quả dưa
gang, trong suốt, nhẵn, kích thước 5 – 6 x 1,5 – 2 µm .
2.2.3. Đặc điểm phân bố
Nấm Vân chi mọc tại những vùng ôn đới tại Bắc Mỹ, Á châu và Âu châu và có
lẽ là loại nấm mọc khá mạnh, phát triển khắp vùng Bắc Bán cầu.

Nấm thường mọc ký sinh trên thân những cây thân mộc lớn như sồi, liễu, long
não mận, đào, táo và đôi khi cả trên thân cây thông. Tại vùng Tây Bắc Hoa Kỳ
và Canada, nấm Vân chi mọc hoang khoảng 15 loài khác nhau , tương đối dễ thu
nhặt. Để bảo quản nấm chống lại sâu bọ, nên làm đông lạnh nấm trong vòng 24
giờ sau khi hái, rồi phơi khô hay sấy khô ngay. Nấm có thể nhai tươi hay làm
thành trà dược.
Vân chi là loại nấm phá gỗ, mọc hoang, thường mọc trên các cây thân gỗ đã chết
hoặc khô, đặc biệt là gỗ sồi, dễ dàng tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Vân chi
thích hợp đối với những nơi có nhiều mưa, ẩm ướt, gần bờ sông… ở vùng ôn đới
Bắc Mỹ, châu Á, châu Âu và là loại nấm sinh sản nhiều nhất ở Bắc Bán Cầu. Ở
Việt Nam cũng tìm thấy nấm này, nhất là vào mùa mưa. Nhật, Trung Quốc và
một vài nước khác đang trồng và chiết xuất PSP, PSK từ Vân chi. Ở Việt Nam, TS
Lê Xuân Thám (Trung tâm kỹ thuật hạt nhân TpHCM) đã mang một giống chuẩn
từ Nhật về, đây là loại mặt trên tai nấm có những vân đồng tâm nâu đen đến
đen. Hiện nay giống này đang được trồng thử trên Đà Lạt và cũng được Trung
tâm nghiên cứu linh chi và nấm dược liệu TpHCM trồng thử nghiệm trong điều
kiện khí hậu của thành phố, đã ra quả thể (tai nấm) tại TpHCM.
2.2.4. Chu trình sống

Sơ đồ1: Chu trình phát triển của nấm Vân chi
2.3. Các hợp chất sinh học quý của nấm Vân chi
Bảng 1. Thành phần dược tính chính trích từ nấm vân chi
Dịch ether Dịch cồn Dịch acid
Acid béo -
Acid hữu cơ +
Alcaloid + -
+
Triterpenoid tự do +
Anthraglycosid - -
Anthocyanidin -

Coumarin +
Chất khử + +
Flavonoid - -
Saponin + +
Tanin + +
Tinh dầu -
Polyphenol +
Hợp chất polyuronic +
Polysaccharide + +
Acid amin + +
Ghi chú: +: dương tính; -: âm tính
Trong thành phần nấm Vân chi có acid hữu cơ, alcaloid, chất khử,
triterpenoid, coumarin, saponin, tanin, polyphenol, hợp chất uronic, acid amin và
polysaccharide. Trong đó polysaccharide là thành phần dược tính được quan tâm,
nghiên cứu nhiều nhất. Các polysaccharide của nấm Vân chi có độ bền cao với nhiệt
độ và ánh sáng, tồn tại lâu trong cơ thể và đặc biệt chưa được phát hiện có tác
dụng phụ gì, cả đối với phụ nữ mang thai, vì vậy rất thích hợp cho nhiều liệu pháp
điều trị. Chúng có thể được tách chiết từ quả thể hoặc sợi nấm Vân chi bằng
phương pháp dùng nước nóng.
Bên cạnh các polysaccharid là các thành phần chính quyết định tác dụng của
nấm Vân chi, trong nấm còn chứa nhiều loại enzym như SOD, cytochrome P-450,
một thành phần quan trọng trong việc khử độc các chất được nhập vào tế bào, và
các chất trao đổi bậc hai có tác dụng ức chế thrombin, chống quá trình đông tụ
máu.
Trong nấm Vân chi có các acid amin chủ yếu như: glutamic, aspartic và một số
acid amin dạng trung hoà. Dịch trích polysaccharide peptide từ nấm (thuật ngữ gọi
là proteoglycan) là những chuỗi polypeptide hay những phân tử protein nhỏ gắn
kết chặt với các chuỗi polysaccharide β-D-glucan, là thành phần hiệu quả trong
chữa trị các chứng ung thư: dạ dày, thực quản, ruột kết và ung thư vú… Các
proteoglycan trích từ nấm Vân chi chủ yếu là liên kết β-D-glucan. Cấu trúc β-D-

glucan là một cấu trúc lập lại, gồm nhiều phân tử D-glucose nối với nhau bằng các
nối β tạo dạng mạch thẳng. Các nối β được tạo từ vị trí C1 của vòng saccharide
đứng trước với vị trí C3 của vòng kế tiếp (β1-3), từ C1 đến C4 (β1-4), hoặc từ C1 đến
C6 (β1-6). Hầu hết các proteoglycan thường có một chuối chính, hoặc là chuỗi β1-3,
chuỗi β1-4 hoặc kết hợp hai chuỗi β1-3, β1-4 với một chuỗi phụ β1-6. Các glucan
gắn với protein là có tiềm năng miễn dịch lớn hơn rất nhiều so với các glucan
tương ứng không kết hợp với protein. Polysaccharide được tìm thấy trong các vách
tế bào không tiêu hoá được của Vân chi có cấu trúc 3 chiều với các chuỗi bên (chuỗi
đường mạch thẳng) mọc nhánh xung quanh cấu trúc trục chính (lõi protein hay
polypeptide), các chuỗi bên có chức năng sinh học hay hoạt tính miễn dịch cho phép
sự tương tác giữa các chuỗi nhánh bên với các thụ thể trên các tế bào miễn dịch
khác nhau. Thụ thể cho β-glucan được tìm thấy trên nhiều tế bào khác nhau: Tế bào
tự sát thương, tế bào bạch cầu trung tính, tế bào bạch cầu đơn nhân to, đại thực
bào và tế bào lympho B, lympho T. Nhiều nghiên cứu báo cáo rằng β-1,3-glucan là
chất kích hoạt hệ miễn dịch chống ung thư tự nhiên ở người và phần glucan có thể
kích ứng sự co lại của khối u. Theo các nhà khoa học thì chỉ có polysaccharide nối
với peptide mới tạo ra hiệu quả kháng ung thư. Các thành phần này không bị ảnh
hưởng bởi quá trình tiêu hoá nên có hiệu quả khi uống.
Hình 2. Chuổi beta-glucan trích từ nấm
2.3.1. PSK (polysaccharide - Kureha)
2.3.1.1. Cấu tạo
PSK được ly trích từ chủng Vân chi CM-101 bằng nước và bằng phương pháp
muối hoá. Trong thành phần cấu tạo gồm 62% polysaccharide và 38% protein.
Thành phần glucan gồm có một chuỗi chính β1-4 và các chuỗi phụ β1-3, β1-6 liên
kết nhau bằng các nối O-glycosidic hay N- glycosidic. Phần peptide rất giàu các acid
amin như aspartic, glutamic và một số acid amin acid khác. PSK có trọng lượng
phân tử khoảng 94 – 100 kDa. Phần polysaccharide gồm các monosaccharide:
glucose, galactose, mannose, xylose, fucose. Các nghiên cứu với PSK được đánh dấu
phóng xạ C14 đã xác nhận rằng phổ nguyên tử của nó được hấp thụ trong 24h sau
khi đưa vào cơ thể chuột. PSK không độc, liều LD50 thấp và không xuất hiện các dị

hình trong các thử nghiệm độc tính cấp và bán cấp.
2.3.1.2. Dược tính
Năm 1971, hơn 200 dược chất hoá lý có khả năng kháng khối u được chọn lọc
bởi các nhà nghiên cứu Nhật, PSK là liệu pháp chữa trị tốt nhất vì nó bảo vệ hệ
miễn dịch bằng cách trung hoà các thuốc hoá trị và các quá trình gây độc của tế
bào ung thư.
PSK có khả năng tăng cường hoạt động miễn dịch tế bào và miễn dịch thể dịch. Khi
PSK được dùng kết hợp với phương pháp xạ trị thí nghiệm trên chuột, người ta
quan sát thấy có sự hồi phục hệ miễn dịch thể dịch đã suy yếu. Các nghiên cứu trên
động vật xác nhận thêm rằng PSK cảm ứng tế bào T diệt và phục hồi lại các thông
số miễn dịch bị suy yếu trong khi đó sẽ ức chế các hợp chất gây ức chế miễn dịch.
PSK ngăn chặn các phản ứng phụ khi dùng kết hợp với các tác nhân hoá trị như 5-
FU (5-fluorouracil), doxorubicin, cyclophosphamide (CPA), tegafur, cis-Blastin và
mitomycin-C (MMC) để chữa trị ung thư, gia tăng khả năng sống còn của các bệnh
nhân ung thư dạ dày ở các giai đoạn III và IV (Kaibara et al, 1970).
PSK kích ứng sự biểu hiện cytokine trong các tế bào máu đơn nhân vùng ngoại vi in
vitro. Sự biểu hiện gen TNF-α (yếu tốgây hoại tử khối u) và interleukin-8 (IL-8)
được cảm ứng mạnh ở những người tình nguyện khoẻ mạnh và những bệnh nhân
ung thư dạ dày khi dùng PSK, mặc dù đáp ứng của mỗi người mỗi khác.
Có tác dụng ngăn chặn sự phát triển khối u in vitro. PSK gia tăng khả năng sống
còn, ức chế sự hình thành và di căn của các tác nhân gây ung thư hoặc các khối u
tạo ra do phóng xạ. PSK cũng ức chế sự phát triển trở lại sau hậu phẫu hoặc sự di
căn các tế bào khối u ởcác mẫu động vật thí nghiệm, cơ chế có lẽ là ngăn chặn sự di
chuyển, sự xâm nhập, sự gắn kết với các tế bào màng trong và sự phát triển. Các kết
quảnghiên cứu cũng cho thấy tác động hỗ trợ hiệu quả giữa PSK và liệu pháp sinh
học gồm vaccin L1210 gắn với concanavalin A (lectin gây phân bào) và kháng thể
đơn dòng chống lại các tế bào ung thư ruột kết.
Thí nghiệm của Pang ZJ và CS đã chứng minh PSK cải thiện hoạt tính enzyme
glutathione peroxidase thông qua sự cảm ứng dịch mã sự biểu hiện của mRNA. PSK
biểu hiện hoạt tính kháng virus và có thể có hiệu quả kháng sự nhiễm HIV bằng

cách biến đổi receptor virus hoặc bằng cách ngăn chặn nó kết hợp với tếbào bạch
huyết. Một cơ chế khác giải thích tính kháng virus của PSK là nó kích thích sự sản
xuất interferon, IL-1 ở tế bào người. PSK cũng có tính kháng sinh mạnh, hiệu
quảtrên Escherichia coli,Staphylococcus aureus, Cryptococcus neoformans,
Psedomonas aeruginosa, Candida albicans và vài loại vi trùng khác gây bệnh ở
người.
2.3.2. PSP (polysaccharide-peptide)
2.3.2.1. Cấu tạo
PSP được ly trích từ hệ sợi nấm Vân chi chủng COV-1. Trong thành phần cấu tạo có
khoảng 90% polysaccharide và 10% peptide. Thành phần chuỗi polypeptide có
trong PSP tương tự như trong chuỗi proteoglycan PSK, rất giàu aspartic acid và
glutamic acid. Tuy nhiên PSP khác PSK về thành phần các đường đơn trong chuỗi
polysaccharide, PSP thiếu fucose nhưng lại có arabinose và rhamnose. Chuỗi
polysaccharide là các β-glucan thật sự: phương pháp sắc kí khí và khối phổ đã
chứng minh liên kết chính trong chuỗi là 1-4, 1-2, và 1-3 glucose cùng với một
lượng nhỏ các liên kết 1-3, 1-4 và 1-6 galactose; 1-3 và 1-6 mannose; 1-3, 1-4
arabinose, trong đó cũng thấy xuất hiện vài liên kết α. Trọng lượng phân tử của PSP
khoảng 100 kDa.
2.3.2.2. Dược tính
Các nghiên cứu về dược lý đã chứng minh rằng PSP ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức
khỏe và năng lượng, được xem là loại chất cảm ứng điều hoà sinh học mới. PSP
không gây hại đối với các tế bào bình thường. PSP có khả năng phân biệt giữa tế
bào thường và tế bào ung thư. Có thể tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây bất cứ
sự thay đổi hay tạo độc tố trên tế bào (Mei-po Yang, Hongkong university). Tỉ lệ
phần trăm bệnh nhân trải qua thử nghiệm hiệu quả của PSP trong các giai đoạn II
và III cho thấy tỉ lệ sống còn gia tăng đáng kể so với nhóm đối chứng: 90 – 97 % đối
với ung thư dạ dày, 82 – 87 % đối với ung thư thực quản, 70 – 86 % đối với ung thư
phổi. PSP là chất đầy tiềm năng và hiệu quả trong điều trị ung thư.
PSP gia tăng chức năng miễn dịch của cơ thể bình thường. Tăng sự biểu hiện của
gen Interleukin-6 (IL-6) trong các tế bào lympho máu ngoại vi (PBL) ở người và do

đó sản xuất ra IL-6 và cũng hoạt hoá tế bào bạch cầu để gia tăng quá trình sản xuất
interferon α và γ lên gấp 2 – 4 lần. Gia tăng mạnh mẽ chỉ số thực bào, trị số HC50,
kháng thể ở chuột, tăng PBL từ phase G1 đến phase S, thúc đẩy sự phát sinh PBL.
Thúc đẩy sự phát sinh tế bào lympho T và tế bào tiền tế bào T ở tuyến ức và lách,
tăng cường hoạt tính tế bào lympho B.
PSP trung hoà quá trình ức chế miễn dịch do khối u gây ra ở động vật. Làm ngưng
quá trình tiêu biến của tuyến ức ở chuột mang bệnh Sarcoma. Trung hoà sự trương
phồng của gan khi mắc bệnh ung thư cổ trướng Ehrlich. Chống lại quá trình ức chế
kháng thể của tế bào ung thư Sarcoma ở chuột. Tăng giá trị bổ thể huyết thanh C3
trong chuột mắc bệnh Sarcoma.
PSP trung hoà quá trình ức chế miễn dịch do tác dụng của các hoá dược trong điều
trị ung thư. Ức chế quá trình tiêu biến tế bào bạch cầu do cyclophosphamine (CPA)
gây ra và rút ngắn thời gian phục hồi tế bào bạch cầu. Chống lại quá trình ức chế
của CPA trên IL-2 và tế bào T tự sát thương. Phục hồi lại phản ứng mẫn cảm loại
chậm bị ức chế bởi CPA. Dùng kết hợp với các phương pháp hoá trị và xạ trị sẽ làm
giảm các tác dụng phụ của hoá dược và có hiệu quả cao hơn.
PSP ức chế sự phát triển của tế bào ung thư ở người và động vật thí nghiệm. PSP
(50 mg/kg, ip hoặc po) có thể ức chế sự phát triển của Sarcoma 180 ở chuột. PSP
(100 µg/ml) có thể ức chế quá trình tổng hợp nucleic acid của tế bào ung thư cổ
trướng Ehrlich.
Ức chế sự phát triển tế bào ung thư bạch cầu P388, tế bào u tủy, tế bào ung thư
gan, tế bào ung thư phổi Lewis ở chuột. Nó có thể ức chế sự phát triển của tế bào
ung Thư dạ dày, ung thư tuyến phổi ở n gười, ung thư tế bào bạch cầu đơn nhân to,
ung thư mô bạch huyết ở da. Nó cũng gây ra sự tiêu biến tế bào ung thư và sự tích
tụ NST mà không tạo ra bất kỳ độc tố nào trên tế bào fibroblast hay tế bào chủ
(Liang-Zhong Xu, Bao-zhen Zhong, 2003).
Huyết thanh bạch cầu (ALS) có thể được trung hoà. Hoạt tính kháng khối u của PSP
có liên quan với sự gia tăng tế bào lympho T.
Tăng sự sản xuất các hợp chất nitơ trung gian, anion superoxide và yếu tố gây hoại
tử ung thư.

Một số hiệu quả khác của PSP.
- Cải thiện sự thèm ăn của chuột khi dùng kết hợp với CPA.
- Giảm phản ứng đau của động vật khi chịu các tác nhân kích thích như
điện, acid acetic, nước nóng.
- Ức chế hệ thần kinh trung ương và giảm hoạt tính tự phát của chuột.
- Tăng khả năng chịu đựng trong điều kiện thiếu oxy đối với chuột thí
nghiệm.
- Biểu hiện khả năng ức chế sự tương tác giữa HIV-1 gp120 và làm bất động
thụ thể CD
4
(IC50=6,25µg/ml), ức chế enzyme glycohydralase gắn với sự
glycosic virus và làm giảm độc tố tế bào. Do đó hướng sắp tới PSP sẽ được
nghiên cứu để tạo thành tác nhân kháng virus in vivo.
- Ngoài ra, PSP còn được ứng dụng trong chữa trị các bệnh viêm nhiễm virus
và bệnh gan.
2.3.3. So sánh giữa PSK và PSP
PSP và PSK là chuỗi proteoglycan, có trọng lượng phân tử khoảng 100 kDa, thành
phần polysaccharide đều không có N-acetylamino-hexose trong khi tất cả chuỗi
polysaccharide khác có. PSP và PSK đều được xem là những chất gây biến đổi các
đáp ứng sinh học có khả năng trị ung thư và làm tăng miễn dịch, nhưng những
nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàn cho thấy PSP và PSK có một số khác biệt.
Bảng 2 : So sánh giữa PSK và PSP
Đặc điểm so sánh Giống nhau Khác nhau
Chủng loại Vân chi Trametes
versicolor
PSP: chủng COV-1 từTrung Quốc.
PSK: CM-101 từNhật.
Dạng dược phẩm PSP: dạng viên
PSK: dạng gói
Màu bột Nâu PSP: nâu

PSK: nâu đậm
Kỹ thuật lên men Nguồn carbon chính
là glucose lên men ở
25
o
C, 3 ngày hoặc
26
o
C, pH = 5 – 7
PSP: nguồn nitơ từ bột đậu nành
PSK: nguồn nitơ từ pepton và cao
nấm men.
Thời gian lên men của PSP (64
giờ) nhanh gấp 3 lần PSK.
Phương pháp chiết Chiết bằng nước
nóng.
PSP: tủa bằng cồn.
PSK: sử dụng phương pháp muối
hoá với (NH4)2SO4 để tủa
Phần đường Galactose,glucose,
mannose, xylose
PSP: arabinose, rhmanose
PSK: fucose
Dược tính
Ngăn chặn sự tổng
hợp acid nucleic của
tế bào Ehrlich ascitic
và sự phát triển của
tế bào ung thư
Sarcoma-180, bạch

cầu P388…
PSP: tỉ lệ ngăn chặn trên P388 là
90 – 96 % (1mg/kg).
PSK: có tỉ lệ là 61 – 90 %
(1mg/kg)
PSP: tỉ lệ ức chế sự tổng hợp RNA,
DNA của tế bào Ehrlich là 47%,
65%.
PSK: 39%, 34%.
- Phục hồi lại phản
ứng mẫn cảm bị ức
chế bởi các dược
chất hoá học và bảo
tồn lượng bạch cầu.
Mức ngăn chặn của PSP, đối với
bệ Sarcoma trên chuột là 43%,
PSK
28%.
Gia tăng hoạt tính
đại thực bào, hàm
lượng globulin miễn
dịch, bổ thể C3,
kháng thể HC50, và
IL-2 tế bào lympho-T
PSP có thể làm tăng hàm lượng α-
và β-ITF tạo bởi tế bào bạch cầu
gấp 2 – 4 lần.
Độc tính LD50>20g/kd, không
độc, không làm xuất
hiện các dị hình,

không ảnh hưởng
đến
sinh sản.
PSP có thể tạo ra phản ứng độc
bằng cách tập hợp nhiễm sắc thể
của các tế bào ung thư phổi
nhưng
không độc trên chuột bình
thường.
Tác dụng trị liệu Làm giảm độc và
phản ứng phụ của
hoá trị và xạ trị, tăng
chức năng miễn dịch,
tăng hiệu quả chữa
trị, kéo dài tuổi thọ
và tăng chất lượng
cuộc sống.
PSP làm tăng sự thèm ăn, làm
giảm đau.
2.4. Tác dụng của nấm Vân Chi
Nấm Vân chi có tác dụng tăng cường sức đề kháng của cơ thể nên có thể được sử
dụng để điều trị rất nhiều loại bệnh.
• Tác dụng điều trị ung thư:
Từ năm 1970,ở Nhật bản PSK từ nấm Vân chi đã được chứng minh có khả năng
kéo dài thời gian sống thêm 5 năm hoặc hơn cho các bệnh nhân ung thư thuộc
nhiều thể loại: ung thư dạ dày, ung thư đại tràng, ung thư vòm họng, ung thư thực
quản, ung thư phổi và ung thư vú (P.M.Kidd, 2000).
Còn PSP đã được sử dụng để điều trị ung thư giai đoạn 2 và 3 ở Trung Quốc từ lâu.
Polysaccharid này cũng có tác dụng kéo dài thêm thời gian sống ít nhất là 5 năm
cho các bệnh nhân ung thư thực quản. PSP cũng có tác dụng cải thiện sức khỏe,

giúp giảm đau và tăng cường khả năng miễn dịch ở 70 –97 % các bệnh nhân ung
thư dạ dày, thực quản, ung thư phổi, ung thư buồng trứng và cổ tử cung (P.M.Kidd,
2000). Nghiên cứu thực hiện bởi Tsang và cộng sự trên 34 bệnh nhân ung thư phổi
giai đoạn tiến triển cho kết quả là sau 28 ngày điều trị bằng PSP, số lượng tế bào
máu, hàm lượng các kháng thể của những người được điều trị đều tăng cao hơn so
với những người không được điều trị (K.W.Tsang et al., 2003). Đặc biệt ở những
người được điều trị, sự tiến triển của bệnh đã được làm chậm lại một cách đáng kể.
Kết quả nghiên cứu do nhóm của tiến sỹ Kenyon ở trung tâm nghiên cứu điều trị
lâm sàng Dove (Winchester, London) trên 30 bệnh nhân ung thư thuộc nhiều dạng
khác nhau chỉ ra rằng điều trị bằng bột nghiền từ sinh khối nấm Vân chi làm giảm
mạnh mẽ hoạt tính của enzym telomerase (một enzym thiết yếu giúp các tế bào ung
thư chống lại quá trình “tự chết”), đồng thời tăng cường đáng kể các phản ứng
miễn dịch chống lại các khối u. Vì vậy, nghiên cứu cho thấy điều trị bằng nấm Vân
chi đặc biệt vẫn có tác dụng với các trường hợp ung thư giai đoạn 3 và 4, khi mà
các liệu pháp hoá học và phóng xạ đã không còn tác dụng.
Bản chất, cơ chế tác động của các hoạt chất trong nấm Vân chi đối với ung thư hiện
vẫn đang được rất nhiều nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau (hóa sinh,
miễn dịch, y học, dược học…) quan tâm nghiên cứu và ngày càng nhiều các phát
hiện mới được công bố.
PSK và điều trị một số bệnh ung thư:
- PSK và ung thư dạ dày: Ung thư dạ dày là loại bệnh gây tử vong khá cao tại Nhật,
do đó phần lớn các thử nghiệm về PSK là để trị ung thư bao dạ dày. Từ 1970 , Kai
bara và các cộng sự viên tại ĐH Kuyshu ở Fukuoka (Nhật) đã thêm PSK vào tiến
trình hóa - chất trị liệu ung thư của họ (Jpn J Surgery 1976;6:54-59). Để thu ngắn
được thời gian thử nghiệm BS Kaibara đã chọn các bệnh nhân ở vào giai đoạn 4
(invasion and metastasis), là giai đoạn bệnh nhân khó sống thêm được 2 năm. Sau
khi giải phẫu, dùng Mytomycin C, bệnh nhân được trị thêm bằng 5-Fluouracil, và
thêm 3g PSK mỗi ngày phương thức này được tạm gọi là ‘chemoimmuno therapy’
Kết quả cho thấy thời gian sinh tồn kéo dài thêm rõ rệt: 34% so với 11% ở nhóm
đối chứng. Những kết quả này sau đó được BS Fujimoto lập lại tại ĐH Chiba

(1979) trên 230 bệnh nhân (Jpn J Surgery 1979;3:190-196). BS Hattori tại ĐH
Hiroshima, thử trên 110 bệnh nhân, phối hợp hóa chất trị liệu, giải phẫu và PSK đã
tìm thấy thời gian sinh tồn của bệnh nhân tăng thêm được 3 năm. Trong các thử
nghiệm sau đó từ 1982 (BS Komada trên 450 bệnh nhân), 1985 (BS Kondo và
Torisu trên 144 bệnh nhân ung thư giai đoạn 3), 1986 (BS Mitomi và Ogoshi trên
168 bệnh nhân ung thư giai-đoạn 1-4) và 1988 (BS Nimoto trên 579 bệnh nhân)
đều ghi nhận được những kết quả kéo dài thời gian sinh tồn được trên 5 năm.
Trong thập niên 90 các thử nghiệm đã được tiếp tục, tuân theo các phương thức
thống kê của Tây-Y và năm 1994, tập san The Lancet số 343:1122-26 đã công bố
kết quả rất nghiêm túc về việc dùng PSK để trị ung thư dạ dày của nhóm nghiên
cứu Immunochemotherapy tại Nhật, ghi nhận PSK thật sự giúp tăng được thời
gian sinh tồn thêm ít nhất là 5 năm nơi những bệnh nhân ung thư bao tử và điểm
đặc biệt nhất là các bệnh nhân đều không bị các phản ứng phụ của Chemotherapy.
- PSK và ung thư ruột già: Sau khi vai trò trị liệu của PSK được xác nhận nơi bệnh
ung thư dạ dày; PSK đã được thử nghiệm để trị các trường hợp ung thư ruột già
Trong một nghiên cứu kéo dài 8 năm, 111 bệnh nhân ung thư ruột già (giai-đoạn 3
và 4, giai-đoạn Dukes, C) được chia thành 2 nhóm, cho dùng PSK hoặc placebo
3g/ngày trong 2 tháng, sau khi giải-phẫu, rồi giảm xuống 2g/ ngày trong 24
tháng, sau đó 1g/ngày: Kết quả cho thấy PSK giúp cải thiện thời gian sinh tồn đến
8 năm (40% so với 25%) (Cancer Immunology Immunotherapy No 31-1990). Một
nghiên cứu khác, thực hiện tại 35 bệnh viện ở Nhật, từ tháng 3 năm 1985 đến
tháng 2 năm 1987 trên 462 bệnh nhân cũng cho thấy những bệnh nhân dùng thêm
PSK kéo dài được thời gian sinh tồn từ 3-5 năm (Dis Colon Rectum No 35 Feb
1992).
- PSK và ung thư thực quản: Dùng quang tuyến trị liệu trước và sau khi giải phẫu
có thể giúp kéo dài thêm thời gian sống cho các bệnh nhân ung thư thực quản.
Năm 1980 BS Okudaira đã thử dùng PSK trên 133 bệnh nhân và ghi nhận PSK có
thể giúp bệnh nhân sống thêm được từ 1 đến 2 năm. Một thử nghiệm khác, công
bố trên Cancer Investigation No 13-1995 cho thấy trên 158 bệnh nhân PSK có
những tác dụng làm giảm hạ các yếu tố ức chế miễn nhiễm (immuno-suppressive

như alpha-1-anti chymotrypsin=ACT, sialic acid và có thể nhờ đó giúp tăng thêm
được thời gian sinh tồn cho các bệnh nhân đã được giải phẫu.
- PSK và vài loại ung thư khác: Ngoài những dạng ung thư trên, PSK còn được thử
nghiệm để giúp điều trị những trường hợp ung thư thanh-quản tại Taiwan năm
1992 (J Int Med Res N0 17-1989) , ung thư phổi tại ĐH Y Khoa Gunma (Nhật),
1977; ung thư gan tại ĐH Y Khoa Okayama, 1994; ung thư bàng quan tại ĐH
Kyoto, 1992 và ung thư vú tại các ĐH Kyushu 1984, Gunma 1995. (Thử trên 227
bệnh nhân theo dõi trong 10 năm với kết quả 81.1 % tăng được thời gian sinh tồn
trên 5 năm). Tất cả đều cho những kết quả rất khích lệ.
PSK tuy không phải là một thuốc đặc trị ung thư, nhưng thật sự có tác dụng cải
thiện được thời gian sinh tồn, kéo dài thêm thời gian sống thêm đến 5 năm trong
một số dạng ung thư và có những trường hợp đến được 15 năm. Nơi một số bệnh
nhân bị ung thư vú loại HLA B40 dương tính, hay trong các trường hợp suy nhược
miễn nhiễm, hay có mức Act, Sialic acid cao PSK đặc biệt hữu hiệu PSK còn giúp
bảo vệ được sự toàn vẹn cho hệ Miễn nhiễm trước các chất độc khi dùng phương
pháp hóa chất trị liệu.
• Tác dụng chống virus HIV:
Năm 1997, R.A. Collins và Ng.T.B. (1997) thuộc Đại học Hồng Kông công bố kết
quả nghiên cứu về tác dụng chống lại virus HIV typ 1 của các polysaccharid từ nấm
Vân chi . Ngay sau đó, nhiều nhà nghiên cứu khác đã tiến hành các thử nghiệm sử
dụng nấm Vân chi trong điều trị bệnh nhân AIDS.
Tiêu biểu phải kể đến là nghiên cứu của Marijke Pfeiffer trên một nhóm bệnh
nhân HIV dương tính ( M.Pfeiffer, 2001). Các bệnh nhân này được điều trị bằng
Coriolus MRL, một dược phẩm chế xuất từ nấm Vân chi, kết hợp với liệu pháp châm
cứu và dùng thảo dược; một số có dùng thêm HAART, một loại thuốc chống AIDS.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 3-4 tháng điều trị, sức khỏe của các bệnh nhân đều
được cải thiện, biểu hiện như tăng cân, cảm thấy khỏe khoắn hơn, giải tỏa ức chế
tâm lý. Đặc biệt số lượng virus trong cơ thể họ đều giảm một cách đáng kinh ngạc
(từ vài chục nghìn xuống vài nghìn) và số lượng các tế bào trình diện kháng thế CD-
4 đều tăng. Sau thời gian điều trị các bệnh nhân đều khỏi hoặc thuyên giảm hẳn các

triệu chứng hệ quả của AIDS như ỉa chảy, viêm phế quản, đau tim, viêm dây thần
kinh, nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, vv…Một số có thể ngừng không cần điều trị với
HAART và có thể quay lại với cuộc sống bình thường, chơi thể thao, làm việc trở lại,
… M. Pfeiffer (2001) đã xây dựng một phác đồ điều trị khá hiệu quả cho các bệnh
nhân HIV dương tính.
Một nghiên cứu đáng lưu ý khác do nhóm của G. Rotolo (1999) thực hiện cũng
chứng minh tác dụng điều trị các biểu hiện thứ cấp trong sự phát triển bệnh ở các
bệnh nhân AIDS . Các bệnh nhân đều trên 35 tuổi, HIV dương tính, được điều trị bổ
sung bằng chế phẩm từ nấm Vân chi. Kết quả cho thấy sau 15 ngày điều trị với hàm
lượng chế phẩm sử dụng là 3g/ngày, số lượng các tế bào bạch cầu trong cơ thể các
bệnh nhân đều tăng lên khoảng 27% so với các trường hợp không được điều trị, và
con số này giảm xuống còn 14,1 % nếu lượng chế phẩm sử dụng cho điều trị được
giảm đi một nửa. Sau 45 ngày điều trị kết hợp cả hai chế độ, số lượng bạch cầu
trong cơ thể các bệnh nhân tăng 45,2%. Từ các kết quả này tác giả khuyến cáo việc
sử dụng chế phẩm từ nấm Vân chi như một liệu pháp chống bệnh AIDS và đề nghị
nghiên cứu sâu hơn về bản chất tác dụng của nấm đối với sự tăng số lượng bạch
cầu.
Hiện nay các nghiên cứu về tác dụng của nấm Vân chi trong phòng chống virus
HIV và bệnh AIDS vẫn đang tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Các nhà khoa học chủ yếu tập
trung vào các cơ chế tác động của các hoạt chất trong nấm để từ đó đề xuất những
phương pháp điều trị thích hợp.
Nấm Vân chi rõ ràng là một loại nấm dược liệu có nhiều đặc tính dược lý ưu việt
và rất đáng quan tâm. Tiềm năng sử dụng nấm Vân chi trong điều trị lâm sàng, đặc
biệt với các bệnh hiểm nghèo như ung thư, AIDS là rất lớn và cần được đi sâu khai
thác. Một điều đáng lưu ý là việc nuôi trồng và sản xuất dược liệu từ nấm này
không hề tốn kém , rất phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, trong
khi đây lại là một loại nấm có hiệu quả y dược cao. Vì vây, việc phát triển sản xuất
dược phẩm từ nấm Vân chi có ý nghĩa kinh tế - xã hội, góp phần bảo vệ và nâng cao
sức khỏe cộng đồng, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho các ngành Công nghiệp
dược phẩm và Công nghệ sinh học.

• Tác dụng tăng cường miễn dịch:
Tác dụng dược lý của nấm Vân chi chủ yếu dựa trên nền tảng là khả năng làm tăng
cường chức năng miễn dịch của cơ thể, nhờ hoạt tính của các hợp chất chứa trong
nấm. Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nấm
Vân chi lên khả năng miễn dịch của cơ thể người và tất cả các công trình đều có kết
quả khẳng định tác dụng tăng cường miễn dịch của nấm này. Theo các kết quả
nghiên cứu, trong nấm có chứa các hợp chất polysaccharid liên kết với protein với
rất nhiều ưu điểm dược lý và chính các polysaccharid này quyết định tác dụng tăng
cường miễn dịch của nấm. Các hợp chất này gồm hai loại chính: PSP
(polysaccharide peptide) và PSK (polysaccharide krestin).
PSK và PSP có cấu trúc hoá học cũng như các tính chất khá tương đồng. Chúng đều
là những hỗn hợp của các chuỗi đường liên kết với một số protein. Cả hai đều có
trọng lượng phân tử khoảng 100 kDa và các chuỗi polypeptid trong phân tử của
chúng đều chứa một số lượng lớn các acid amin aspartic và glutamic. Các
polysaccharid này có khả năng chống chịu với tác dụng của các enzym thuỷ phân
protein. Tác dụng chung của PSP và PSK là hoạt hóa, tăng cường sự sản sinh và bảo
vệ các tế bào của hệ miễn dịch. Các thí nghiệm trên cơ thể động vật chỉ ra rằng PSP
có hoạt tính rất đa dạng. Hợp chất này cảm ứng, kích thích làm tăng sự sản xuất
các interferon, interleukin và các TNF (yếu tố hoại tử u), qua đó thúc đẩy sự sản
xuất các tế bào Lymphocyte, đồng thời hoạt hóa các đại thực. Các đại thực bào và tế
bào Lymphocyte là h ai loai tế bào miễn dịch chính có tác dụng chống lại các tác
nhân gây độc xâm nhập từ ngoài vào và tiêu diệt các tế bào lạ - các tế bào ung thư.
Bên cạnh đó, PSP còn có tác dụng điều hòa hoạt động của các cytokine, đây là thành
phần mấu chốt trong quá trình “tự chết”, rất quan trọng để ngăn ngừa sự hình
thành và phát triển các khối u. PSK và PSP còn có tác dụng làm tăng độc tính và số
lượng của các tế bào giết tự nhiên đối với các tế bào lạ. Nghiên cứu thực hiện bởi
Munroe và cộng sự cho thấy số lượng các tế bào giết tự nhiên trong cơ thể 36 bệnh
nhân suy giảm miễn dịch đã tăng 35% khi họ được điều trị bằng polysaccharid
chiết từ nấm Vân chi (Munroe, 2004). Một tác dụng khác của các polysaccharid này
là khả năng tăng cường hoạt tính và sự sản xuất (thông qua cảm ứng sao mã) các

enzyme superoxide dismutase (SOD) (W.S.Wei et al., 1996;Y.Kobayashi et al., 1994)
và glutathione peroxidase (Z.J.Pang et al., 2000). Các enzym này đóng vai trò rất
quan trọng trong việc chống lại tác động gây hại của các tác nhân oxy hoá tự do,
một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ung thư.
Trên cơ sở các tác dụng trên, PSK và PSP giúp tăng cường sức đề kháng của cơ thể
nói chung, giúp chống lại ảnh hưởng kiềm chế miễn dịch của các liệu pháp hóa trị
và xạ trị, giúp kiềm chế tác hại và kìm hãm sự phát triển các khối u, đồng thời cũng
giúp tăng cường chức năng của gan, tăng cảm giác ngon miệng, điều hoà hệ thần
kinh và làm giảm đau các vết thương.
Đặc biệt đáng lưu ý là tác dụng chống ung thư của PSK và PSP. Các nghiên cứu đã
chỉ ra rằng PSK và PSP có tác dụng với nhiều loại tế bào ung thư như các tế bào ung
thư biểu mô, các sarcoma và các tế bào ung thư máu. Nghiên cứu của Hsieh và cộng
sự chỉ ra rằng PSP tác động lên pha G trong chu kỳ phân bào của các tế bào ung thư
máu, qua đó cảm ứng quá trình “tự chết” (apoptosis). Một nghiên cứu khác (Y.Dong
et al., 1997) lại cho thấy các polysaccharid này có khả năng ức chế sự tổng hợp
ADN ở các tế bào ung thư vú và kìm hãm sự nhân lên hàng loạt của các tế bào ung
thư gan. PSK và PSP không có tác dụng trực tiếp gây hại cho các tế bào ung thư mà
gián tiếp thông qua các tác dụng tăng cường miễn dịch như nêu ở trên, cụ thể là
hoạt hóa các tế bào miễn dịch và tăng cường hoạt động của các enzym chống các
tác nhân oxy hóa.
Gần đây PSP còn được chứng minh là có tác dụng chống lại sự xâm nhiễm của virus
HIV type 1 (R.A.Collins và Ng.T.B, 1997). Polysaccharid này có tác dụng ngăn cản
liên kết giữa protein HIV-1 gp của virus và thụ thể CD4 từ đó ngăn chặn sự xâm
nhập của virus vào tế bào miễn dịch, đồng thời còn có tác dụng ức chế các enzym
HIV-1 reverse transcriptase và glycohydrolase cần thiết cho sự tạo thành virus. Vì
vậy PSP được đề nghị như một liệu pháp hữu hiệu chống lại HIV type 1.
Các polysaccharid của nấm Vân chi có độ bền cao với nhiệt độ và ánh sáng, tồn tại
lâu trong cơ thể, và đặc biệt chưa được phát hiện có tác dụng phụ gì, cả đối với phụ
nữ mang thai, vì vậy rất thích hợp cho nhiều liệu pháp điều trị (P.M.Kidd, 2000).
Chúng có thể được tách chiết từ quả thể hoặc sợi nấm Vân chi bằng phương pháp

dùng nước nóng.
Bên cạnh các polysaccharid là các thành phần chính quyết định tác dụng dược lý
của nấm Vân chi, trong nấm còn chứa nhiều loại enzym như SOD, cytochrome P-
450, một thành phần quan trọng trong việc khử độc các chất được nhập vào tế bào,
và các chất trao đổi bậc hai có tác dụng ức chế thrombin, chống quá trình đông tụ
máu.

2.5. Quy trình nuôi trồng nấm Vân chi
2.5.1. Chọn dòng và giữ giống
Sơ đồ 2: Quy trình phân lập giống
Có nhiều cách để phân lập nấm để tạo giống gốc nhưng hiệu quả nhất là phân lập
từ quả thể. Vì đây là phương pháp nhân giống vô tính. Trong khi tách hệ sợi nấm thì
không rõ có đúng là nấm cần phân lập hay nấm mốc hoặc nấm dại khác. Còn dùng
bào tử nấm cũng không đơn giản vì đây là giai đoạn sinh sản hữu tính, nên nấm
hình thành có thể thay đổi đặc tính. Ngoài ra, phương pháp phân lập từ quả thể hạn
chế được hiện tượng bị lẫn hay nhiễm tạp các loại vi sinh vật khác vì sử dụng trực
tiếp các mô thịt nấm. Nguyên tắc của phương pháp này là chọn tai nấm điển hình
và ở giai đoạn trưởng thành, để dễ đánh giá chất lượng giống. Mô thịt nấm tách ở
những vị trí kín đáo, ít tiếp xúc với các nguồn bệnh nhất. Môi trường phân lập
thường là môi trường dinh dưỡng bao gồm ba thành phần cơ bản.
- Đường: glucose hay saccharose với liều lượng 2 – 3 %.
- Thạch: 2%.
- Chất bổ sung: nước chiết (lấy từ các nguồn tự nhiên như khoai tây, nước
giá, carot…) và hóa chất (chủ yếu gồm các khoáng N, P, K, Mg…).
Khi có được giống thuần, cấy sợi nấm từ môi trường phân lập vào ống nghiệm
chứa môi trường thạch nghiêng để giữ giống. Môi trường giữ giống có thể giống
môi trường phân lập. Khi giữ giống, bảo quản ống nghiệm trong tủ lạnh ở nhiệt độ
4 – 10
o
C và mỗi tháng cấy lại một lần. Ở các cơ quan giữ giống cấp nhà nước các

giống nấm phải được giữ trong nitơ lỏng (-195
o
C) hoặc dùng phương pháp đông
khô hay các phương pháp khác để bảo quản lâu dài và giữ ổn định được hoạt chất
từng giống.
2.5.2. Quy trình nhân giống cấp một và cấp hai
Giống cấp một: là các ống thạch nghiêng được cấy từ các ống nấm đã phân lập,
thuần khiết và được cấy truyền sang nhiều ống để làm giàu lượng giống thuần.
Giống cấp hai: là giống được cấy hệ sợi từ môi trường cấp một vào trong các chai
thuỷ tinh hay các túi chất dẻo có miệng là ống nhựa có nút bằng nút bông mỡ.
Giống cấp hai có thể chế tạo bằng nhiều công thức khác nhau. Tất cả đều là môi
trường xốp với nguyên liệu chính là ngũ cốc, cám, mùn cưa và có thể bổ sung một số
chất dinh dưỡng khác. Bảo quản giống cấp hai được thực hiện ở nhiệt độ phòng (29
± 2
o
C).
2.5.3. Quy trình nuôi trồng ra quả thể
Giá thể nuôi trồng nấm rất đa dạng: mùn cưa, gỗ khúc hay các nguồn phế phẩm
nông nghiệp như cùi bắp, bã mía, rơm rạ…
Sơ đồ 3: Quy trình nuôi trồng nấm
a) Quy trình nuôi trồng trên gỗ khúc
Cây gỗ chặt hạ, bỏ cành, cưa thành khúc 80 – 120 cm, mặt cắt quét vôi, chất đóng ủ
khoảng 1 tháng. Sau đó tiến hành các bước sau:
- Cấy giống
Giống sản xuất là giống hỗn hợp mùn cưa, cám, bột bánh dầu, hạt ngũ cốc… Dùng
búa hoặc khoan đột những hàng lỗ so le, đường kính 1 – 1,5 cm dọc theo khúc gỗ,
cách nhau 5 cm, sâu 3 – 5 cm.
Gieo meo giống cho đầy lỗ cấy, sau đó đậy lại bằng chính miếng gỗ đục từ lõi ra.
Dán giấy parafin hoặc nhỏ sáp lên bao bọc kín lỗ cấy.
Thao tác đột lỗ cấy và gieo meo giống nên làm kế tiếp nhau và nhanh để tránh

nhiễm tạp.
- Nuôi ủ gỗ
Sau khi gieo meo giống, gỗ được ủ ở điều kiện: độ ẩm 75 – 85 %, nhiệt độkhoảng
25 – 30
o
C.
Sau 15 – 20 ngày, kiểm tra sự lan tỏa của sợi nấm và chuyển sang ủ trong đất với
cát. Tưới phun giữ ẩm trong khoảng 30 ngày.
Chỉ có linh chi mới vùi đất, còn Vân chi và một số nấm khác người ta đem vào nhà
tưới tiếp tục tưới phun cho đến khi xuất hiện quả thể. Các khúc gỗ được cưa thành
đoạn 15 – 20 cm (có thể kiểm tra thấy hệ sợi nấm lan trắng mặt gỗ). Vùi cắm các
khúc gỗ xuống nền đất đã làm kỹ và khử trùng diệt mối mọt, sâu bọ,… Bên trên làm
thành mái vòm che mưa nắng và ánh sáng trực xạ.
Người ta thường vùi các khúc gỗ để nhô lên cỡ 5 – 7 cm.
Tưới phun sương giữ ẩm độ không khí 80 – 95% và thông thoáng. Sau 15 – 20 ngày
sẽ có sự xuất hiện mầm quả thể, tiếp tục tưới phun và chăm sóc cẩn thận vì giai
đoạn này nấm rất hay bị sâu.
b) Quy trình nuôi trồng trên giá thể tổng hợp
- Phối trộn cơ chất
Tận dụng các loại phế liệu nông nghiệp (cùi bắp, rơm rạ, mùn cưa… đã được xay
nhuyễn). Tỉ lệ mùn cưa khô nên đạt 30 – 60%, phần còn lại dùng rơm rạ băm nhỏ,
trấu, bã trà khô, vỏ hạt bông, vỏ quả đậu phộng, cành thân cây nhỏ… Xử lý hỗn hợp
cơ chất này với nước vôi 1,5%.
Nguồn dinh dưỡng bổ sung quan trọng là các loại cám ngũ cốc, tỉ lệ nên phối trộn
khoảng 15 – 20%. Nên cho thêm (NH4)2SO4(0,5%), superphosphate (1 – 1,5%) và
MgSO4.7H2O (0,05%). Độ ẩm sau cùng đạt 65 – 70%.
- Khử trùng giá thể
Sau khi đã nhồi cơ chất tổng hợp vào túi PP hay chai PP với lượng khoảng 0,5 – 1,5
kg, tiến hành hấp khử trùng giá thể. Khử trùng kỹ: 2 giờ trong nồi autoclave hoặc
bằng hơi nước nóng ở 121

o
C/2 – 4 giờ. Sau đó lấy ra để nguội.
- Cấy giống
Cấy giống vào giữa khối cơ chất (khoảng 3 – 5% khối lượng giống so với cơ chất).
Nuôi ủ trong buồng tối, ở 25 – 30
o
C, sau 25 – 35 ngày hệ sợi sẽ lan hầu khắp giá
thể.
- Tưới đón nấm
Hệ sợi bắt đầu bện kết sau 25 – 30 ngày. Tại thời điểm này, cần chuyển túi (chai)
vào nhà trồng có ánh sáng khuếch tán nhẹ, nhiệt độ hạ thấp 21
o
C ± 3
o
C. Có thểvùi
đất, treo, xếp trên giàn kệ, mở nút túi cho mầm nấm vươn ra dễ dàng. Duy trì độ ẩm
phòng nuôi cấy ở 80 – 90%. Thông thoáng phòng nuôi cho quả thể lớn.
Tuỳ theo loài nấm mà thời gian thu hoạch thay đổi từ 35 – 45 ngày đến vài
tháng. Sau cùng sẽ tiến hành thu hoạch quả thể và chế biến bảo quản.
2.5.4. Quy trình nuôi trồng thu sinh khối
Ngoài công nghệ nuôi trồng trên giá thể tổng hợp hay trên gỗ khúc, người ta
còn tiến hành thu sinh khối nấm trong các nồi lên men. Hiện nay nhiều xí nghiệp
dược phẩm đã sản xuất sinh khối nấm Vân chi theo phương pháp lên men chìm
trong các nồi lên men với các thông số kỹ thuật sau:
-Môi trường sử dụng: bột khô dầu đậu tương (1%), glucose (3%), bột nấm
men khô (0,2%), (NH4)2SO4(0,25%), MgSO4(0,05%), KH2PO4(0,1%), dầu đậu
tương để khử bọt (0,2%)
- Lượng môi trường trong nồi lên men: 60 – 70%
- pH trước khử trùng: 6,0
- Lượng cấy giống vào: 0,5%

- Áp suất nồi lên men: 0,5 kg/cm
- Nhiệt độ nuôi cấy: 26 – 28
o
C
- Tốc độ khuấy: 180 rpm
- Chế độ thổi khí vô trùng: 1:0,3 – 1:0,5 (V/V.min)
- Thời gian lên men: khoảng 48 giờ
PHẦN III. KẾT LUẬN
Ngày nay xu hướng sử dụng các thảo dược thiên nhiên để trị bệnh đã trở nên
phổ biến, việc tìm kiếm những khả năng chữa trị từ các loại thảo dược đã được
tiến
hành ở nhiều nơi trên thế giới: Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Thái
Lan, ….Trong đó, nấm Vân chi là đối tượng nghiên cứu của nhiều quốc gia. Đặc
biệt
là các nước vùng Châu Á, vì nó có nhiều tiềm năng về nguồn dược liệu.
Nghiên cứu cho thấy trong nấm Vân chi có chứa các hợp chất PSP và PSK với
rất nhiều công dụng. PSK và PSP có trong nấm Vân chi giúp: Tăng cường sức đề
kháng của cơ thể nói chung . Giúp chống lại ảnh hưởng kiềm chế miễn dịch của các
liệu pháp hóa trị và xạ trị. Giúp kiềm chế tác hại và kìm hãm sự phát triển các khối
u, điều trị HIV… Do đó nấm Vân chi là đối tượng quan trọng cần được nghiên cứu
sâu và nhân giống hiện nay.

Tài liệu tham khảo
1. Ngô Anh, 2009, Bài giảng Nấm học, Trường đại học khoa học Huế
2. Nguyễn Lân Dũng, 2002. Công nghệ nuôi trồng nấm, tập 1, tái bản lần thứ
nhất. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
3. Nguyễn Lân Dũng, 2002. Công nghệ nuôi trồng nấm, tập2, tái bản lần thứ
nhất. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội
4.
5.

6.
7.
nam-van-chi-den-trametes-versicolor-co-nguon-goc-tu-trung-quoc.htm
8.
%A5m_V%C3%A2n_Chi_-_Tr%E1%BA%A7n_Vi%E1%BB%87t_H%C6%B0ng

×