Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

BÀI TIỂU LẬN- Dựa và mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể anh (chị) hãy đánh giá và nhận xé việc thực hiện luật giáo dục.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.62 KB, 18 trang )

Đề bài: Dựa và mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể anh (chị) hãy đánh giá và nhận
xét việc thực hiện luật Giáo dục.
I. Mở đầu
Từ xưa đến nay, giáo dục bao giờ cũng được coi trọng trong tất cả mọi thể chế
xã hội và là điều kiện tiên quyết nếu xã hội ấy muốn thịnh vượng, phát triển. Sách Lễ
Ký viết: Ngọc không giũa không thành đồ, người không học không thành đạo. Kinh
Lễ viết: Dựng nước, giữ dân lấy học làm đầu; Quản Tử nói: Kế hoạch một năm không
gì bằng trồng lúa, kế hoạch 10 năm không gì bằng trồng cây, kế hoạch trọn đời không
gì bằng trồng người. Hồ Chí Minh cũng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi
ích trăm năm trồng người”. Tùy theo hoàn cảnh lịch sử, điều kiện phát triển thực lực
của mình mà quốc gia nào cũng xây đựng cho mình một chiến lược giáo dục gốc rễ và
lâu dài.
Nước ta, một tháng sau ngày độc lập, tháng 10-1945, theo chỉ đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục đã ra tuyên bố nêu rõ mục đích cao cả, phương pháp của
nền giáo dục mới là: Tôn trọng nhân phẩm rèn luyện ý chí, phát triển tài năng của
mọi người để phụng sự đoàn thể và góp phần vào cuộc tiến hóa chung của nhân loại.
Phương pháp của nền giáo dục mới là xóa bỏ lối học nhồi sọ, hình thức, chú trọng
phần thực học, phần học về chuyên môn nghề nghiệp chiếm một vị trí quan trọng, hết
sức đề cao tinh thần khoa học nhằm giúp học sinh có lối nhận thức khoa học, phát
triển óc phê bình, óc phân tích và "tổng hợp", tinh thần sáng tạo và óc thực tế. Từ đó
trải qua rất nhiều những biến động lịch sử thăng trầm của đất nước, nền giáo dục của
ta thực hiện nhiều chương trình cải cách lớn nhằm thay đổi nội dung, mức độ nặng nề
của sách học, nhiều tài liệu tham khảo hơn, thay đổi trình tự phát âm, cắt xén nét chữ
viết, rồi giá cả đi học đang leo thang nhưng với mọi giải pháp ấy, thành tích giáo
dục của ta vẫn xoay tròn rồi dừng ở mức đáng lo ngại và vẫn liên tục cải cách?
Trước những thách thức của thời đại tin học, kinh tế tri thức toàn cầu hóa, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đòi hỏi giáo dục phải "chuyển
biến cơ bản toàn diện" nhằm từng bước xây dựng xã hội học - hành, một xã hội mà "ai
cũng có thể học suốt đời", "học thiết thực, hiện đại, gắn chặt với yêu cầu của xã hội",
để phát huy nội lực trí tuệ và nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền
vững. Muốn vậy chúng ta phải xây dựng một chiến lược phát triển giáo dục phù hợp,


từng bước lâu dài để xây dựng nền giáo dục nước ta thành một nền giáo dục tiên tiến,
chất lượng. Chiến lược giáo dục là một bản thiết kế về giáo dục, là một hệ thống đặt
trong một môi trường rộng lớn là kinh tế xã hội trong thời gian 10 năm, 20 năm. Đại
hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là: "Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại hóa". "Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta cần và có thể
rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những
bước nhẩy vọt ".
Vì thế, quy trình xây dựng chiến lược giáo dục trong thời gian 2001 – 2010
được thực hiện trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục, phân tích các điểm mạnh,
điểm yếu, bối cảnh trong nước và quốc tế, đưa ra những mục tiêu chung, mục tiêu cụ
thể dựa trên các quan điểm phát triển và dự báo, đồng thời đưa ra các giải pháp và
chương trình cụ thể để thực hiện các mục tiêu đó. Như vậy, quá trình xây dựng chiến
lược tự nó đã là một cơ sở vững chắc đảm bảo cho sự thành công trong giai đoạn triển
khai nhờ những nội dung sát với thực tế. Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 -
2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước đi theo phương châm đa dạng hóa,
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và
hiệu quả, tạo bước chuyển mạnh mẽ về chất lượng đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến
kịp các nước phát triển trong khu vực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001 - 2010.
Xây dựng chiến lược giáo dục không chỉ là trách nhiệm của các nhà quản lý,
lãnh đạo hay các nhà ra quyết định, các chuyên gia, mà còn được coi là trách nhiệm
của cả những người tham gia thực hiện nó. Vì vậy, trong quá trình xây dựng chiến
lược ngoài các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia cần phải lôi cuốn những
người có liên quan trực tiếp hay gián tiếp có ảnh hưởng hoặc được hưởng lợi từ việc
thực hiện chiến lược này.
II. Mục tiêu phát triển giáo dục giai đoạn 2001 – 2010

1. Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo dục
(1998), Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng (2001) và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
nước ta. Đó là:
a. Giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
b. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng
được học hành. Nhà nước và xã hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ người nghèo học
tập, khuyến khích những người học giỏi phát triển tài năng.
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe và thẩm mỹ, phát triển được năng lực của cá nhân, đào tạo những người lao động
có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, có ý thức công dân, góp
phần làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
c. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ
khoa học - công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh, đảm bảo sự hợp lý về cơ cấu
trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo
chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Thực hiện nguyên lý học đi
đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn,
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
d. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi
trình độ được học thường xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong

phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hóa; khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
Tư tưởng chỉ đạo của Chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn 2001 -
2010 là khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một cách có
hệ thống và đồng bộ; tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục;
phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chấn hưng đất nước, đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững, chóng sánh vai cùng các nước phát triển trong khu
vực và trên thế giới.
2. Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2010
a. Mục tiêu chung:
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 đã nêu rõ: để đáp ứng yêu cầu
về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về
giáo dục. Vì vậy, mục tiêu của Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 là:
* Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với
trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; của từng vùng, từng địa phương; hướng tới
một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu
trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực.
* Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực
khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ
thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh
tiến độ thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
* Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp bậc
học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô,
vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy - học; đổi mới quản lý
giáo dục tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục.
b. Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục:
Đồng thời với việc tăng cường chất lượng và hiệu quả, tiếp tục mở rộng quy
mô các cấp bậc học và trình độ đào tạo, phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành

nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực. Nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các trình
độ vào năm 2010 đạt 40%, trong đó từ cao đẳng trở lên 6%, trung học chuyên nghiệp
8%, công nhân kỹ thuật 26%. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt
hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn.
• Giáo dục mầm non:
Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát
triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và
trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở nông thôn và những vùng khó
khăn; tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ cho các gia
đình.
Đến năm 2010 hầu hết trẻ em đều được chăm sóc, giáo dục bằng những hình
thức thích hợp.
Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 15% năm 2005 và
18% năm 2010. Đối với trẻ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm
2000 lên 58% vào năm 2005 và 67% vào năm 2010; riêng trẻ em 5 tuổi tăng tỷ lệ huy
động đến mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1 từ 81% năm 2000 lên 85% vào năm 2005 và
95% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm
non xuống dưới 20% vào năm 2005, dưới 15% vào năm 2010.
• Giáo dục phổ thông:
Thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông
cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ các nước phát triển trong
khu vực. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực,
sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức
vào cuộc sống.
Tiểu học: Phát triển những đặc tính tự nhiên tốt đẹp của trẻ em, hình thành ở
học sinh lòng ham hiểu biết và những đức tính, kỹ năng cơ bản đầu tiên để tạo hứng
thú học tập và học tập tốt. Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục tiểu học
trong cả nước.
Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 lên

97% năm 2005 và 99% năm 2010.
Trung học cơ sở: Cung cấp cho học sinh học vốn phổ thông cơ sở và những
hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học
cơ sở, tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị vùng kinh tế phát
triển vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở
trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.
Trung học phổ thông: Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo
cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo
điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết
về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng
sau trung học phổ thông, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi
tốt nghiệp.
Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000
lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010.
• Giáo dục nghề nghiệp:
Đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ
luật lao động và tác phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với
việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu
của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực nông thôn, các ngành kinh tế mũi
nhọn và xuất khẩu lao động. Mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có
kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp dựa trên nền học vấn trung học
cơ sở.
Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, trong đó chú trọng phát triển đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công
nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có trình độ cao dựa trên nền học vấn
trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp. Trung học chuyên nghiệp: Thu
hút học sinh trong độ tuổi vào các trường trung học chuyên nghiệp đạt 10% năm 2005,
15% năm 2010.
Dạy nghề: Thu hút học sinh sau trung học cơ sở vào học các trường dạy nghề

từ 6% năm 2000 lên 10% năm 2005, 15% năm 2010.
Dạy nghề bậc cao: Thu hút học sinh sau trung học phổ thông, trung học chuyên
nghiệp vào học các chương trình này đạt 5% năm 2005, 10% năm 2010.
• Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học:
Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã
hội của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh
tranh và hợp tác bình đẳng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện
thuận lợi để mở rộng giáo dục sau trung học thông qua việc đa dạng hóa chương trình
đào tạo trên cơ sở xây dựng một hệ thống liên thông phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ
cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực và năng lực của các cơ sở đào tạo.
Tăng cường năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, năng lực tự tạo việc làm
cho mình và cho những người khác.
Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000 - 2001 lên 200 vào
năm 2010. Tăng quy mô đào tạo thạc sĩ từ 11.727 học viên năm 2000 lên 38.000,
nghiên cứu sinh từ 3.870 năm 2000 lên 15.000 vào năm 2010.
• Giáo dục không chính quy:
Phát triển giáo dục không chính quy như là một hình thức huy động tiềm năng
của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi trình độ,
mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của
mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.
Củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn, đặc biệt ở vùng núi,
vùng sâu, vùng xa. Thực hiện có hiệu quả các chương trình sau xóa mù chữ bổ túc
trên tiểu học để góp phần thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào
năm 2010; tạo điều kiện để thực hiện phổ cập bậc trung học trong những năm tiếp
theo.
Tạo cơ hội cho đông đảo người lao động được tiếp tục học tập được đào tạo lại,
được bồi dưỡng ngắn hạn, định kỳ và thường xuyên theo các chương trình giáo dục,
các chương trình kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu nâng cao năng suất lao
động, tăng thu nhập hoặc chuyển đổi nghề nghiệp. Chú trọng phát triển các chương
trình chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức nhà nước từ

Trung ương đến địa phương.
• Giáo dục trẻ khuyết tật:
Tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật được học tập ở một trong các loại hình lớp hòa
nhập, bán hòa nhập hoặc chuyên biệt, đạt tỷ lệ 50% vào năm 2005 và 70% vào năm
2010.
3. Các giải pháp phát triển giáo dục
Để đạt được các mục tiêu trên, cần tập trung thực hiện 7 nhóm giải pháp lớn: 1)
Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục; 2) Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi
mới phương pháp giáo dục; 3) Đổi mới quản lý giáo đục; 4) Tiếp tục hoàn chỉnh cơ
cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường lớp và các cơ sở giáo
dục; 5) Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục; 6) Đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục; 7) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục. Trong đó, đổi mới chương
trình giáo dục, phát triển đội ngũ nhà giáo là các giải pháp trọng tâm; đổi mới quản lý
giáo dục là khâu đột phá.
Các giải pháp này được cụ thể hóa trong Chương trình mục tiêu quốc gia giáo
dục và đào tạo đến năm 2010 bao gồm 7 dự án với những mục tiêu cụ thể được Phó
Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ký Quyết định Phê duyệt.
Dự án 1: Hỗ trợ thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở (THCS) duy trì kết
quả phổ cập giáo dục tiểu học và hỗ trợ phổ cập giáo dục trung học. Tổng kinh phí dự
tính: 680 tỷ đồng.
Hỗ trợ 32 tỉnh khó khăn trong việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi và phổ cập trung học cơ sở, hoàn thành đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở ở 64 tỉnh, thành phố đến năm 2010.
Dự án 2: Đổi mới chương trình giáo dục, sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy.
Tổng kinh phí dự tính khoảng: 2.830 tỷ đồng.
Mục tiêu cụ thể là nhằm hoàn thành việc đổi mới chương trình và thay sách
giáo khoa mới đại trà ở giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên; hoàn thiện bộ
chương trình và tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non; xây
dựng 100 chương trình khung ở trung cấp chuyên nghiệp và 250 chương trình khung
đại học, cao đẳng; xây dựng 1.000 giáo trình điện tử đại học, cao đẳng; soạn thảo và

xuất bản sách giáo khoa, sách giáo viên cho một số tiếng dân tộc thiểu số; hoàn thiện
chuẩn kiến thức, kỹ năng ở 3 cấp học làm căn cứ cho việc thực hiện đánh giá chất
lượng.
Dự án 3: Đào tạo cán bộ tin học, đưa tin học vào nhà trường. Tổng kinh phí dự
tính khoảng: 960 tỷ đồng.
Mục tiêu cụ thể: Thực hiện Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin
(CNTT), ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp phần mềm, đẩy
mạnh giảng dạy, ứng dụng CNTT ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Đầu tư
cho một số khoa CNTT thuộc các trường đầu ngành để đạt chất lượng đào tạo tiên tiến
trong khu vực. Tăng cường phòng máy tính, nối mạng Internet, tuyển chọn phần mềm
giáo dục phục vụ ứng dụng CNTT vào dạy học các môn học trong các cơ sở giáo dục
đào tạo.
Dự án 4: Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Tổng kinh phí dự tính khoảng: 700 tỷ đồng.
Mục tiêu cụ thể: Bồi dưỡng, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục, đến năm 2010 có 80% giáo viên mầm non, 100% giáo viên tiểu học, trung
học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong đó
có 40% giáo viên tiểu học có trình độ cao đẳng trở lên, 50% giáo viên THCS có trình
độ đại học và 10% giáo viên THPT có trình độ thạc sĩ. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên cho tất cả các trường (khoa) sư phạm, trường cán bộ quản lý giáo dục để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đến năm 2010 đạt tỷ lệ 40% giảng viên có
trình độ thạc sĩ, 25% có trình độ tiến sĩ.
Dự án 5: Hỗ trợ giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số và vùng có nhiều khó
khăn. Tổng kinh phí dự tính: 3.000 tỷ đồng.
Mục tiêu cụ thể: Tập trung hoàn thiện cơ sở vật chất cho 48 trường phổ thông
dân tộc nội trú (PTDTNT) tỉnh theo hướng chuẩn hoá (có đủ nhà học, phòng bộ môn,
ký túc xá, nhà đa năng, nhà ăn, phòng hướng nghiệp ). Hỗ trợ xây dựng nhà ở, nhà
bếp và các trang thiết bị thiết yếu cho việc tổ chức đời sống nội trú cho gần 900
trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT), nhằm tạo thêm các điều kiện để phổ cập
vững chắc tiểu học và THCS. Cung cấp trang thiết bị, tài liệu, phương tiện nghe nhìn,

đồ dùng dạy học cho các trường PTDTNT nhằm thực hiện đổi mới nội dung chương
trình giáo dục, thực hiện giáo dục hướng nghiệp dạy nghề và giáo dục bản sắc văn hoá
dân tộc.
Dự án 6: Tăng cường cơ sở vật chất các trường học. Tổng kinh phí dự tính:
6.600 tỷ đồng.
Mục tiêu cụ thể: Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới 14.000 phòng học để thực
hiện mức chất lượng tối thiểu ở tiểu học, tạo điều kiện mở rộng số trường tiểu học và
THCS học 2 buổi/ngày, thu hút tối đa trẻ 5 tuổi tới trường mầm non, mẫu giáo trước
khi vào lớp 1; tăng cường cơ sở vật chất phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng cho tất
cả các cấp học, trước hết là xây dựng thư viện, phòng thí nghiệm, phòng bộ môn và
mua sắm thiết bị dạy học; hỗ trợ xây dựng phòng làm việc cho giảng viên các trường
đại học, cao đẳng, bảo đảm đến năm 2010 có đủ chỗ làm việc cho giáo sư và phó giáo
sư tại trường.
Dự án 7: Tăng cường năng lực dạy nghề. Tổng kinh phí dự tính: 5.500 tỷ đồng.
Mục tiêu cụ thể: Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề cho các
trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề; phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề, kiểm định viên dạy nghề, đánh giá viên dạy
nghề; phát triển chương trình dạy nghề, xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, ngân hàng
đề thi, hệ thống tiêu chuẩn kiểm định chất lượng dạy nghề; hỗ trợ dạy nghề trình độ sơ
cấp và dạy nghề thường xuyên cho đối tượng là lao động nông thôn, thanh niên dân
tộc thiểu số và người tàn tật; thực hiện thí điểm dạy nghề theo cơ chế đặt hàng.
Nguồn kinh phí thực hiện các dự án: 20.270 tỷ đồng. Trong đó ngân sách trung
ương: 16.420 tỷ đồng; Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): 2.080 tỷ đồng;
Ngân sách địa phương và huy động cộng đồng là: 1.770 tỷ đồng.
III. Tổng kết việc thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010
- Kết quả khảo sát cho thấy sau 5 năm thực hiện chiến lược giáo dục 2001-
2010, nhiều mục tiêu số lượng đã đạt được theo tiến độ đã đề ra, nhiều giải pháp chiến
lược đã được triển khai và thực hiện rộng khắp, những định hướng và nội dung của
chiến lược phát triển giáo dục đạt ở mức độ khá và tốt. Đó là:
+ Thứ nhất, mạng lưới và quy mô giáo dục tiếp tục phát triển. Số trường học

mầm non, phổ thông đều tăng so với năm trước. Cả nước có 93 trường đại học, 137
trường cao đẳng (công lập, ngoài công lập), 37.270 trường học từ mầm non đến phổ
thông, trong đó mầm non tăng 349 trường, tiểu học tăng 174 trường, THCS tăng 202
trường, THPT tăng 84 trường. Các trường phổ thông dân tộc nội trú mỗi năm một
khẳng định sự vững chắc của mạng lưới giáo dục dành cho con em nhân dân các dân
tộc thiểu số với 13 trường trung ương, 50 trường tỉnh, 266 trường huyện, và 519
trường bán trú xã, cụm xã. Mạng lưới các trường sư phạm, các trung tâm kỹ thuật tổng
hợp- hướng nghiệp, các trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm tin học, ngoại
ngữ, mở rộng khắp nước, chưa kể hơn 5.000 trung tâm học tập cộng đồng ở xã,
phường, tạo nên một không khí, một sắc thái "xã hội học tập từ cơ sở".
Quy mô học sinh, sinh viên đều tăng, được ngành xác định trên quan điểm - tăng
cường các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Trừ bậc tiểu học có xu hướng ổn định và giảm,
học sinh, sinh viên các bậc học mầm non, THCS, THPT, đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp đều tăng. Theo đó, các điều kiện từ kinh phí, cơ sở vật chất, giáo
viên, giảng viên đều tăng theo.
Năm 2005, ngân sách đầu tư cho GD và ÐT là 41.630 tỷ đồng (chiếm 18%)
trong tổng chi ngân sách Nhà nước, trong đó chi thường xuyên là 26.575 tỷ đồng (tăng
6,8%), chi cho chương trình mục tiêu quốc gia 1.770 tỷ đồng (tăng 42%) so với năm
2004. Riêng kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia tập trung cho các dự án để ngành
GD và ÐT thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm. Ðó là Dự án đổi mới nội dung, chương
trình sách giáo khoa (SGK): 800 tỷ (tăng 54%); Dự án bồi dưỡng giáo viên, tăng
cường cơ sở vật chất cho các trường sư phạm: 120 tỷ đồng ( tăng 20%); Dự án hỗ trợ
giáo dục miền núi, vùng dân tộc khó khăn: 150 tỷ đồng (tăng 25%); Dự án tăng cường
năng lực đào tạo nghề: 340 tỷ đồng (tăng 70%); Dự án tăng cường năng lực trung học
chuyên nghiệp: 35 tỷ đồng.
Việc triển khai Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học góp phần quan trọng
bảo đảm cơ sở vật chất trường học nhất là các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
theo hướng chuẩn hóa. Ðến nay, đã có 42.148 phòng được xây dựng, đạt tỷ lệ 70,8%
so với kế hoạch, trong đó, 34.055 phòng đã hoàn thành đưa vào sử dụng. Với việc xây

dựng đội ngũ, đưa tổng số giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục lên gần một triệu người,
ngành GD và ÐT quan tâm cải thiện chất lượng đội ngũ này ở cả ba phương diện:
chuẩn hóa, bồi dưỡng nâng trình độ, và tăng tỷ lệ giáo viên/ lớp. Khảo sát ở 37 tỉnh,
thành phố cho thấy, tỷ lệ giáo viên mầm non đạt chuẩn và trên chuẩn 79,65%; ở tiểu
học tỷ lệ này là 94,47; THCS 95,02; và THPT 96,98%. Tỷ lệ giáo viên/ lớp cũng tăng
hơn, tiểu học: 1,25 GV/ lớp; THCS: 1,73; và THPT: 1,78 GV/ lớp ( năm học trước, tỷ
lệ này là 1,21; 1,70 và 1,77 GV/ lớp).
+ Thứ hai, trên nền tảng mạng lưới, quy mô tiếp tục phát triển, các mục tiêu
quốc gia về dân trí đều đang tiến dần đến độ "chín". Ðến tháng 7-2005, cả nước đã có
26/ 64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, và cũng có
26/ 64 tỉnh, thành phố cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS. Ở mục tiêu tạo
nguồn đào tạo nhân tài, học sinh Việt Nam tại các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực
vẫn giữ được truyền thống mang về cho đất nước các huy chương vàng, bạc và đồng,
góp phần khẳng định trí tuệ tuổi trẻ Việt Nam trên trường thi quốc tế.
+ Thứ ba, chủ trương "ba chung" trong tuyển sinh đại học, cao đẳng sau những
phản ứng, lo ngại, phê phán của xã hội, đã bắt đầu đi vào ổn định, khẳng định bước
đầu cái "được" của một chủ trương, rõ nhất là ở nội dung chung đề, chung đợt; không
chỉ làm giảm sự tốn kém, căng thẳng cả xã hội, mà còn làm cơ sở khẳng định "thương
hiệu", tên tuổi các trường đại học, góp phần điều chỉnh cách dạy, cách học của các
trường đại học khác, đồng thời ít nhiều hạ "nhiệt" các lò luyện thi vốn đầy sự bất ổn
mà ít hiệu quả.
- Tuy nhiên, có những nội dung của chiến lược được thực hiện còn ở mức yếu
và mức độ thực hiện cũng khác nhau giữa các địa phương. Đặc biệt, mục tiêu nâng
cao chất lượng giáo dục chưa được chuyển biến đáng kể. Nguyên nhân của những hạn
chế là do các địa phương gặp nhiều khó khăn ở các mặt sau: 1/ Cơ chế, chính sách
chưa phù hợp; 2/ Phân cấp quản lý chưa hợp lý; 3/ Đầu tư kinh phí cho giáo dục còn
thấp; 4/ Năng lực đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý còn hạn chế; 5/ Cơ sở vật chất
thiếu và lạc hậu.
- Trong nội dung “Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009-2020” đã nêu
lên những thành tựu sau 8 năm thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 đó

là:
+ Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu học tập của xã hội
Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng 2,86%
so với năm học 2000-2001; trong đó số học sinh học nghề tăng 2,14 lần; số học sinh
trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,41 lần; số sinh viên cao đẳng, đại học tăng 1,75 lần,
nâng tỷ lệ sinh viên cao đẳng, đại học trên một vạn dân tăng 1,6 lần, số học viên cao
học và nghiên cứu sinh tăng 2,5 lần.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các trình độ khác nhau tăng từ 20% vào năm
2000 lên 31,5% vào năm 2007.
Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ bản đã
xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả các xã,
trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất
cả các huyện. Các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết
các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như
Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi
đã có trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số.
Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700 trung
tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học, nhiều trường
đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa. Ngoài ra, có nhiều cơ sở đào tạo
ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có yếu tố nước
ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Một xã hội học tập đã hình thành rõ nét ở Việt
Nam.
+ Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có chuyển biến.
Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã có tiến bộ, toàn diện hơn.
Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên
được nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân,
lập nghiệp và có tinh thần tự lập và đại bộ phận đã có việc làm. Chất lượng đào tạo
của một số ngành đào tạo khoa học và công nghệ đã được nâng cao một bước.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý chất lượng đã đặc biệt được chú

trọng. Đã hình thành các tổ chức chuyên trách về đánh giá và kiểm định chất lượng.
Ngoài Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng cấp trung ương được thành lập vào
tháng 8/2004, phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng đã được thành lập tại 55 trong
số 63 Sở Giáo dục và Đào tạo (87%), 55 đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng
được thành lập ở các trường đại học và cao đẳng. Tới tháng 7/2008, đã có 114/163
(70%) trường đại học tự đánh giá, trong đó có 40 trường được đánh giá ngoài.
Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa phương.
Nhiều trường đại học đã tổ chức dạy học theo các chương trình tiên tiến quốc tế. Tới
tháng 7/2008 có 24 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế đang được thực hiện ở 17
trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Đã tăng cường sự gắn kết giữa
hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động đào tạo sau đại học, tập trung vào các
lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông-
lâm-ngư và khoa học giáo dục. Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nhân lực cho các
lĩnh vực kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu quả đào tạo, trong 2 năm gần đây ngành giáo
dục đào tạo đã tích cực đẩy mạnh việc thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu xã hội.
Đồng thời với sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và tài liệu dạy học theo
Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội, phương pháp giáo dục ở các nhà trường đã
bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động, chủ động và tích cực
của người học, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy
và học. Chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên ở các cấp học và trình độ đào tạo đã
và đang được xây dựng làm cơ sở cho việc đánh giá và bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn.
+ Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc
gia về xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ
sở. Đến 7/2008 đã có 42/63 tỉnh, thành phố (67%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi; 42/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ dân số từ
15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 94%; số năm học trung bình của dân số từ 15
tuổi trở lên là 9,6. Sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam và nữ ngày càng được
thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ bản.
+ Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã
đạt được những kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực

vào việc huy động trẻ đến trường, giám sát, đánh giá và hiến kế cho giáo dục, xây
dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục
dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng liên tục
từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí
của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân. Bên cạnh đó, cũng đã huy động
được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội và đầu tư nước
ngoài.
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học 2007-
2008, cả nước có gần 6.000 cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33 trường
trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung
cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công
lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng.
Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là 15,6% (năm 2000 là
11,8%), trong đó tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%; học sinh trung cấp chuyên nghiệp là
18,2%; học nghề là 31,2%; sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%.
+ Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội học
tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ em khuyết
tật. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác đã tạo điều
kiện cho đại bộ phận con em các gia đình nghèo, diện chính sách được học tập, trước
hết ở các cấp học phổ cập. 53% số học sinh sinh viên cả nước được miễn giảm học phí.
Từ năm học 2007-2008, học sinh học nghề, sinh viên cao đẳng, đại học có hoàn
cảnh khó khăn được vay để chi trả cho việc học hành (752.000 người được vay với mức
tối đa 800.000 đồng/tháng).
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ
rệt. Đến năm học 2007-2008 có 278 trường dân tộc nội trú của trung ương, tỉnh, huyện
và cụm xã, với khoảng 86.000 học sinh; các trường, lớp hoà nhập và chuyên biệt đã thu
hút hơn 250.000 trẻ khuyết tật đi học.
+ Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến. Công tác quản lý chất
lượng đã được chú trọng với việc tăng cường hệ thống đánh giá và kiểm định chất
lượng. Năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn thành việc xây dựng đề án đổi mới

cơ chế tài chính trong giáo dục đào tạo, trong đó có đề án học phí. Việc phân cấp quản
lý giáo dục cho các địa phương và sở giáo dục được đẩy mạnh, đặc biệt tăng quyền chủ
động cho các cơ sở giáo dục trong tuyển dụng giáo viên, sử dụng ngân sách, tổ chức
quy trình giáo dục, tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học, thực hiện chương trình, sách
giáo khoa phù hợp với đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể của từng vùng
miền. Cải cách hành chính trong toàn ngành giáo dục được đẩy mạnh. Cơ chế “một
cửa” được triển khai thí điểm tại cơ quan Bộ và 63/63 văn phòng của các Sở giáo dục.
Công nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong quản lý ngành.
Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng của
giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát
triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của Chương trình phát triển
Liên hiệp quốc trong những năm gần đây có những tiến bộ đáng kể: từ 0,688, xếp thứ
109 trong số 174 quốc gia vào năm 2000 đã tăng lên 0,733, xếp thứ 105 trong số 177
quốc gia vào năm 2005. Những thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước
trong hơn
- Sau 8 năm thực hiện chiến lược giáo dục mặc dù đã đạt được một số thành
tựu cơ bản nhưng giáo dục nước ta vẫn còn những bất cập và yếu kém:
+ Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liên thông giữa
các cấp học và các trình độ đào tạo, trong đó giáo dục nghề nghiệp chưa được quan
tâm đúng mức. Cách thức tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo dục còn thể hiện
nhiều lúng túng. Tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề đào
tạo chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của xã hội.
+ Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong
thời kỳ mới. Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình độ đào
tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, nhưng chất
lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và còn
thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Trong giáo
dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng.

Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục đại học phát triển, số lượng các trường
cao đẳng, đại học tăng mạnh trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật
chất - kỹ thuật nhà trường chưa phát triển đủ để đảm bảo được chất lượng đào tạo của
các cơ sở này.
+ Nội dung, phương pháp giáo dục từ mầm non đến phổ thông đã được đổi
mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; chương trình giáo dục đại học chậm đổi mới,
chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Còn có những nội dung trong chương trình
giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo không thiết thực, nặng về lý thuyết, nhẹ về
thực hành, chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng học
tập của mọi đối tượng học sinh. Phương pháp dạy học về cơ bản vẫn theo lối truyền
thụ một chiều, đòi hỏi người học phải ghi nhớ máy móc, không phát huy được tư duy
phê phán, tư duy sáng tạo và tinh thần tự học ở người học.
+ Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ
giáo dục trong thời kỳ mới. Còn thiếu quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ nhà giáo từ
mầm non đến đại học dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo vừa thừa, vừa thiếu, vừa
không đồng bộ về cơ cấu. Ở các trường cao đẳng, đại học, số giảng viên có trình độ
thạc sỹ và tiến sỹ còn quá ít. Phương thức đào tạo trong các nhà trường sư phạm chậm
đổi mới, chất lượng đào tạo còn thấp dẫn đến tình trạng trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ của một bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng.
Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt đại bộ phận, một số nhà giáo còn có biểu hiện vi phạm
đạo đức lối sống, làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của người thầy trong xã hội. Công tác
bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo còn thiếu
hiệu quả. Các chế độ chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa đáng, chưa tạo được động
lực phấn đấu vươn lên trong bản thân mỗi người thầy.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù tình
hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều cải
thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2007 vẫn còn 11% số lớp học ở tình trạng lớp học
tạm, phòng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phòng thí nghiệm,
phòng học bộ môn và các phương tiện dạy học còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở các
trường đại học.

=> Tóm lại, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng,
quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có
vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến
lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Chiến lược
Giáo dục Việt Nam 2001-2010 đã tiến hành được 8 năm. Thực tiễn phát triển giáo dục
đất nước đã khẳng định những định hướng đúng đắn của chiến lược nhưng đồng thời
cũng cho thấy cần có sự điều chỉnh. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009-
2020 tiếp tục thực hiện giai đoạn cuối của Chiến lược giáo dục 2001-2010 với những
điều chỉnh cần thiết, tạo những bước chuyển căn bản của giáo dục trong thập niên tới.
IV. Đánh giá về tình hình phổ cập giáo dục THCS ở nước ta
- Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 - 2010 xác định mục tiêu: Đạt chuẩn
phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị vùng kinh tế phát triển vào năm 2005,
trong cả nước vào năm 2010. Cụ thể:
1. Mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2001-2010 là phải bảo
đảm cho hầu hết thanh niên, thiếu niên sau khi tốt nghiệp tiểu học tiếp tục học tập để
đạt trình độ trung học cơ sở trước khi hết tuổi 18, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở phải đạt được các chỉ tiêu sau:
a. Đối với xã, phường, thị trấn:
- Bảo đảm duy trì, củng cố kết quả và hoàn thiện mục tiêu phổ cập giáo dục
tiểu học.
- Huy động số học sinh tốt nghiệp tiểu học hàng năm vào học trung học cơ sở
đạt tỷ lệ từ 95% trở lên; ở những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt
khó khăn từ 80% trở lên.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trung học cơ sở; giảm tỷ lệ lưu ban,
bỏ học; bảo đảm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở hàng năm từ 90% trở lên; ở

những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 75% trở lên.
- Bảo đảm tỷ lệ thanh, thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 18 đạt trình độ trung
học cơ sở từ 80% trở lên; ở những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc
biệt khó khăn từ 70% trở lên.
b. Đối với quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh:
Bảo đảm 90% số xã, phường, thị trấn đạt các mục tiêu phổ cập giáo dục trung
học cơ sở.
c. Đối với tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Bảo đảm 100% số quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đạt các mục tiêu
phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
(NGHỊ QUYẾT VỀ THỰC HIỆN PHỔ CẬP GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ
SỞ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 09 tháng 12 năm 2000)
2. Đánh giá về việc thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở
a. Tiến trình thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở
- Sau hai năm thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở tới đầu năm 2003,
cả nước có 11/64 tỉnh thành đạt phổ cập trung học cơ sở và có 6 tỉnh thành khác dự
khiến sẽ hoàn thành phổ cập giáo dục.
- Đến cuối năm 2005 cả nước đã có 27/64 tỉnh thành hoàn thành phổ cập giáo
dục Trung học cơ sở.
- Đến 8/ 2006, Báo cáo tổng kết công tác phổ cập giáo dục giai đoạn I (2001-
2005) đã thống kê được 36/64 tỉnh thành trong cả nước đạt chuẩn về phổ cập Trung
học cơ sơ.
- Đến tháng 7/2008, số lượng các tỉnh thành trên cả nước đạt chuẩn về phổ cập
giáo dục Trung học cơ sở là 42/64 tỉnh thành.
b. Đánh giá về việc thực hiện phổ cập giáo dục Trung học cơ sở
Tháng 6/2000, cả nước đạt chuẩn quốc gia xoá mù chữ và phổ cập giáo dục TH
(PCGDTH-CMC). Đây là thành tựu to lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã kiên
trì, nỗ lực phấn đấu, vượt qua thử thách để đạt được.
Bước vào thiên niên kỉ mới, thiên niên kỉ của nền kinh tế tri thức, chất lượng

nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định trong việc phát huy nội lực, phát triển đất nước,
hợp tác và cạnh tranh trong hội nhập khu vực và quốc tế. Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục
nâng cao học vấn của những người lao động. Vì vậy, việc thực hiện PCGD trung học
cơ sở (PCGDTHCS) trong giai đoạn 2001-2010 có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan
trọng nhằm góp phần phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; hội nhập khu vực và quốc
tế.
* Thực trạng
- Từ khi nghị quyết thực hiện phổ cập giáo dục được thông qua, Công tác phổ
cập giáo dục được thực hiện nghiêm chỉnh khẩn trương trên khắp cả nước và bước đầu
gặt hái được những kết quả khả quan. Nhưng hiện nay , trên toàn quốc còn 22/64 địa
phương chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở (PCGD THCS) là những
tỉnh kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, điều kiện thực hiện và bảo đảm chất lượng
PCGD THCS còn nhiều hạn chế. Những tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn thì còn có một
số nơi chưa thực sự bền vững, hoặc chưa chú trọng đến việc duy trì, củng cố và phát
triển kết quả phổ cập nên có nguy cơ bị mất chuẩn.
- Mặt khác, hầu hết các địa phương được công nhận hoàn thành PCGD THCS
đều thuộc khu vực đồng bằng. Trong khi đó, tiến độ triển khai công tác phổ cập ở các
huyện, xã miền núi rất chậm, vướng mắc, mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở vật
chất trường lớp, điều kiện học tập của con em vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ
phòng học tranh tre, nứa lá còn chiếm tỉ lệ khá cao. Do điều kiện ăn ở, đi lại khó khăn,
tình trạng bỏ học nửa chừng của học sinh miền núi vẫn thường xảy ra, ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng học tập và gây khó khăn cho công tác phổ cập giáo dục. Ví
dụ: Đến cuối năm 2006, Quảng Nam có 12 huyện với 184 xã đạt chuẩn PCGD
THCS, tỉ lệ 70% và còn khoảng 30% các huyện vùng sâu vùng xa, kinh tế khó khăn tỉ
lệ đạt chuẩn không cao.
- Cả nước còn khoảng 12% số huyện chưa đạt kết quả vững chắc, tỷ lệ đạt
chuẩn ở mức không cao nhưng do sức ép về tiến độ và số lượng, một số địa phương
cố gắng thực hiện kế hoạch trong điều kiện chưa thật đầy đủ, chưa quan tâm đến chất
lượng PCGD, kết quả đạt chưa cao, chưa bền vững, có thể dẫn đến nguy cơ mất

chuẩn.
- Ở nhiều nơi, vấn đề phổ cập lại đi liền với việc GV đánh giá chất lượng HS
một cách dễ dãi, giảm dần thực tế chất lượng GD đại trà ở các cấp học. Chuyện phổ
cập giáo dục ở các cấp là vô cùng cần thiết cho nền kinh tế - xã hội, cho sự phát triển
của đất nước. Song vấn đề này không nhất thiết phải đi liền với việc hạ thấp chất
lượng giáo dục đại trà. Mặt khác, chỉ tiêu thi đua ở các cấp học là đòn bẩy để kích
thích nâng cao chất lượng dạy và học nhưng nếu đặt nó quá tầm thì sẽ dẫn đến bệnh
chạy theo thành tích.
- Còn những tỉnh chưa đạt chuẩn PCGD THCS đều là những tỉnh khó khăn,
một số tỉnh khó đạt được chuẩn vào năm 2010 như đã đăng ký: Kon Tum, Gia Lai,
Đắk Lắk, Lai Châu, Sóc Trăng, Đắk Nông.
* Nguyên nhân
- Thứ trưởng Bộ GD - ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho rằng một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do nhận thức về công tác PCGD của một số địa
phương còn hạn chế. Các địa phương mới chỉ quan tâm đến mục tiêu trước mắt là
phấn đấu đạt chuẩn, chứ chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng kế hoạch củng
cố, duy trì và phát triển kết quả PCGD để đảm bảo tính bền vững. Đồng thời, mạng
lưới trường, lớp chưa đến các điểm dân cư, cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, học
tập của một số địa phương còn khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và đảm
bảo chất lượng. Đặc biệt, ở các tỉnh miền núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, Tây
Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long… tình trạng lớp nhô, lớp ghép, điểm trường nhỏ
lẻ với rất ít HS vẫn còn khá nhiều.
* Giải pháp
- Muốn duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng PCGD THCS phải dùng các
giải pháp tổng hợp, nhưng quan trọng nhất là phải huy động tối đa trẻ trong độ tuổi
đến lớp, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo, giảm lưu ban, bỏ
học bằng cách Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân cho con em trong
độ tuổi đến lớp học, có biện pháp để giảm tỉ lệ bỏ học; duy trì các lớp học
PCGDTHCS. Tuy nhiên trong thực tế, cách làm thiên về tăng tỉ lệ huy động trẻ trong
độ tuổi đi học bằng biện pháp vận động học sinh tái hòa nhập học bổ túc văn hoá,

trong khi điều kiện đảm bảo chất lượng còn rất hạn chế đã làm phát sinh nhiều khó
khăn.
- Cần xét lại tiêu chuẩn công nhận trường đạt chuẩn phổ cập giáo dục vì vẫn
còn một vài điểm bất hợp lý, khó thực hiện ở những vùng sâu, vùng xa. Trung ương
cần có nguồn kinh phí hỗ trợ nhiều hơn cho các địa phương gặp nhiều khó khăn trong
việc duy trì kết quả phổ cập và tiến dần đến đạt chuẩn.Cần tăng cường hỗ trợ kinh phí
cho các tỉnh này để giải quyết tình trạng học sinh có học lực yếu kém, bỏ học. Tăng
cường xây hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, tạo cơ hội cho con em
đồng bào dân tộc ít người, vùng núi khó khăn được học tập.
- Đối với các địa phương chưa đạt chuẩn quốc gia về PCGDTHCS, cần tổ chức
học tập kinh nghiệm của các địa phương đã đạt chuẩn, có kế hoạch phân công trách
nhiệm cho các cấp, cho từng thành viên, duy trì hoạt động của Ban Chỉ đạo.
- Đối với địa phương đã đạt chuẩn PCGDTHCS, cần có biện pháp để củng cố
kết quả, phấn đấu 100% xã, phường đạt chuẩn.
=> Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ nỗ lực cao trong công tác chỉ đạo, thực hiện những giải
pháp mạnh và quyết liệt để phấn đấu đưa cả nước cơ bản phổ cập giáo dục THCS
đúng thực chất vào năm 2010.
V. Lời kết
- Giáo dục là quốc sách hàng đầu của mỗi một quốc gia vì vậy làm thế nào để
xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, phù hợp và chất lượng là một bài toán nan giải
cho ngành giáo dục. Và để thực hiện điều đó cần có thời gian lâu dài, có chiến lược rõ
ràng, cụ thể bởi hiệu quả và chất lượng của giáo dục phụ thuộc vào việc có xây dựng
được một chiến lược phù hợp và đúng hướng hay không? Đó là điều mà ngành giáo
dục và toàn thể nhân dân ta đã đề ra, đang sửa chữa và sẽ hoàn thiện nhằm xây dựng
một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển mạnh mẽ về chất
lượng đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực, nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện mục
tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".
- Liên hệ bản thân: Là sinh viên ngành Sư phạm – những giáo viên tương lai là
lực lượng sẽ trực tiếp tác động đến chất lượng giáo dục của đất nước trong tương lai,

em tự thấy mình cần phải ý thức được rõ ràng hơn về trách nhiệm, nghĩa vụ và danh
dự của một người giáo viên. Không những cần phải ra sức trau dồi kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ sư phạm mà còn cần nắm chắc Luật Giáo dục, Chiến lược giáo dục
cũng như Mục tiêu Giáo dục của môn học, ngành học nói riêng và của toàn hệ thống
giáo dục nói chung nhằm vận dụng một cách phù hợp vào trong thực tiễn giảng dạy ở
trường phổ thông để công tác giảng dạy đem lại hiệu quả cao nhất. Như vậy, mới
xứng đáng là người nối tiếp sự nghiệp trồng người của dân tộc.

×