Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam..DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.17 KB, 78 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn, một hoạt động cơ bản của ngân
hàng thương mại. Nguồn vốn chính là nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng,
đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của mỗi ngân
hàng. Hoạt động này chính là cơ sở tồn tại và phát triển của ngân hàng. Vì thế,
ngân hàng ln phải quan tâm đến nâng cao chất lượng hoạt động huy động vốn
của mình.
Chính sách lãi suất huy động vốn là chính sách có tác động rất lớn đến hiệu
quả của hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Lãi suất huy động ảnh hưởng đến
chi phí trả lãi, đây là chi phí chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí hoạt động của ngân
hàng, nên chính sách lãi suất có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Mặt
khác, chính sách lãi suất có tính quyết định đối với việc mở rộng nguồn vốn, hay
huy động một nguồn vốn mới. Với một chính sách lãi suất phù hợp ngân hàng có
thể mở rộng huy động vốn với chi phí tiết kiệm, cũng như mở rộng các hoạt động
kinh doanh khác của ngân hàng.
Nghiên cứu để có được một chính sách lãi suất huy động vốn phù hợp ln là
mục đích hướng tới của mỗi ngân hàng. Với ý nghĩa thực tế của vấn đề, và sau một
thời gian thực tập, tìm hiểu hoạt động tại Ngân hàng thương mại cổ phần các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, em chọn đề tài sau: “Hoàn thiện chính
sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh Việt Nam” để nghiên cứu.
Chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1. Tổng quan về chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
Chương 2. Chính sách lãi suất huy động vốn của Ngân hàng thương mại
cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
1



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chương 3. Hoàn thiện chính sách lãi suất huy động vốn ở Ngân hàng
thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của PGS-TS Phan Thị Thu Hà Giáo viên hướng dẫn, cùng các cô chú cán bộ tại Hội sở - Ngân hàng thương mại
cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành
bản chuyên đề này.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Hương.

2


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chương 1
Tổng quan về chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại.
1.1.1.Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại.
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa đã kéo theo sự hình thành và phát
triển của hệ thống ngân hàng, đến lượt mình, hệ thống ngân hàng cũng tác động trở
lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Có thể khẳng định một nền kinh tế hưng thịnh
phải đi liền với một hệ thống ngân hàng vững mạnh, bởi ngân hàng là một trong
những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Trên toàn thế giới, ngân
hàng cung cấp những khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn
nhất, là tổ chức cung cấp lượng vốn lưu động quan trọng nhất cho các doanh
nghiệp, là thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do
chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các cơng trình cơng cộng, và gần
đây đã mở rộng cho vay dài hạn đối với doanh nghiệp để hỗ trợ mua sắm máy móc

thiết bị mới...
Ngân hàng thương mại (dưới đây sẽ viết tắt là: NHTM) ra đời trên cơ sở kinh
doanh tiền tệ của những người thợ kim hoàn bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và
ngược lại. Bằng uy tín và sự giàu có của mình họ nhận cất trữ hộ tiền để thu phí, từ
đó nhận thanh tốn hộ và thanh tốn khơng dùng tiền mặt cho người gửi tiền. Họ
nhận thấy, có nhiều người đang có nhu cầu vốn để kinh doanh trong khi họ đang
nắm giữ rất nhiều tiền, nên họ đã dùng chính số tiền này để cho vay lấy lãi, do đó
nảy sinh nghiệp vụ cho vay. Lợi nhuận cao thu được từ lãi tiền cho vay đã kích
thích họ mở rộng cho vay bằng cách thay vì thu phí của người gửi tiền họ trả lãi
cho người gửi tiền để kích thích người gửi tiền nhằm thu hút thêm qui mô tiền gửi.
Khi tồn tại nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay, thanh tốn hộ có thể nói ngân hàng
thương mại đã ra đời. Bằng cách cung cấp thêm các tiện ích khác nhau, các dịch vụ
3


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

khác nhau mà ngân hàng đã huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, đây là điều
kiện để mở rộng cho vay và giúp ngân hàng tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển kinh tế, tiến bộ khoa học kỹ thuật, hệ thống ngân hàng
đã có nhiều bước tiến quan trọng, thay đổi rất nhanh chóng để kịp đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của nền kinh tế và làm động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Từ chỗ
đa dạng hóa các loại hình ngân hàng, đa dạng hóa các hoạt động của ngân hàng, các
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp làm tăng số lượng cũng như qui mô của ngân hàng
dẫn đến tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra các ngân hàng cực lớn với số vốn tự có
rất lớn. Q trình phát triển của các ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ chặt chẽ,
ràng buộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân hàng. Các hoạt động xuyên quốc
gia, đa quốc gia của các ngân hàng thúc đẩy hình thành các hiệp hội , các tổ chức
liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra các chính sách chung để kết nối và tạo sự thống
nhất trong sự vận hành điều hành hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia, khu vực và

quốc tế.
Ngân hàng thương mại đầu tiên ở Việt Nam là Ngân hàng Đông Dương của
Pháp, được thành lập vào giữa thế kỷ XIX để phục vụ cho giới thương gia pháp
trên thị trường Việt Nam. Sau đó có thêm các ngân hàng nước ngoài của Trung
Quốc, Anh,... nhưng những ngân hàng này chưa đóng góp vào sự phát triển kinh tế
của đất nước mà chỉ phục vụ cho giai cấp thống trị. Đến năm 1945, ngân hàng nhà
nước sơ khai được thành lập. Đến năm 1990 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước ra đời
chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp là Ngân hàng Trung ương (dưới đây sẽ được
viết tắt là: NHTƯ) và NHTM. Theo luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 12/12/1997 thì: “tổ chức
tín dụng là một tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cho vay cung ứng các dịch vụ thanh
tốn chi trả hộ...”. Tóm lại NHTM là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng cụ thể là các hoạt động huy động
vốn, hoạt động sử dụng vốn và thực hiện các dịch vụ chi trả hộ, cung ứng các
4


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phương tiện thanh toán cùng các hoạt động kinh doanh khác. Mục tiêu của ngân
hàng là tối đa hóa lợi nhuận đồng thời đảm bảo được an tồn cho hoạt động của
mình với đối tượng kinh doanh là tiền tệ.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
NHTM có các hoạt động cơ bản: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng
vốn, hoạt động cung cấp các dịch vụ trung gian và các hoạt động khác có liên quan.
Hoạt động huy động vốn hay là hoạt động tạo vốn cho NHTM đóng vai trị
rất quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động, quy mô hoạt động của ngân
hàng.
- Trước hết là hoạt động huy động vốn tạo nguồn vốn chủ sở hữu cho ngân

hàng, đây là nguồn vốn có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà
cửa cho ngân hàng, bảo đảm an toàn cho hoạt động và thể hiện sức mạnh tài chính
của ngân hàng. Sự hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo loại hình sở hữu
của ngân hàng, năng lực tài chính của ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị
trường. Nguồn này thông thường gồm: nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn
góp bổ sung trong quá trình hoạt động (nguồn từ lợi nhuận, bổ sung từ phát hành
thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm,...), các quỹ của ngân hàng (quỹ bảo toàn vốn,
quỹ thặng dư, quỹ dự phòng rủi ro, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,...), nguồn vay
nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
- Hoạt động huy động tiền gửi là hoạt động quan trọng nhất, tạo tiền đề chính
cho các hoạt động của ngân hàng. Hoạt động huy động tiền gửi nhằm thu hút các
khoản tiền nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Huy động các nguồn
tiền gửi khác nhau trong xã hội là cần thiết và tất yếu cho sự tồn tại và phát triển
của mỗi ngân hàng. Nguồn tiền gửi luôn chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng. Và để gia tăng nguồn này với chất lượng cao trong môi
trường cạnh tranh, các ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau
với những tiện ích cho khách hàng ngày càng nhiều. Nguồn tiền này gồm: tiền gửi
5


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ
chức kinh tế xã hội, tiền gửi của các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác...
- Huy động vốn từ đi vay của ngân hàng thương mại có thể giúp ngân hàng
vượt qua khó khăn trong giai đoạn khả năng huy động bị hạn chế. NHTM có thể
vay từ NHTƯ, vay từ các tổ chức tín dụng khác, hoặc phát hành các loại giấy nợ
trên thị trường vốn.
- Ngồi ra, ngân hàng có thể huy động vốn từ các nguồn khác như: nguồn ủy
thác, nguồn trong thanh toán,...

Hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm: hoạt động ngân quỹ, hoạt động
cho vay, hoạt động bảo lãnh, hoạt động chiết khấu, hoạt động cho thuê, hoạt động
đầu tư,...
- Hoạt động ngân quỹ là hoạt động sử dụng vốn cơ bản của ngân hàng, nhằm
duy trì khả năng thanh tốn của ngân hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền cũng như
thanh toán thường xuyên cho khách hàng. Nguồn đảm bảo hoạt động này là các
khoản tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN (khoản dự trữ bắt buộc do NHNN quy
định theo tỷ lệ phần trăm tổng số dư tiền gửi tại ngân hàng bắt buộc phải dự trữ
trong thời kỳ nhất định), tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu.
- Hoạt động cho vay là hoạt động thường xuyên và là hướng cơ bản trong hoạt
động sử dụng vốn của NHTM. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng
với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Có thể
phân chia các khoản cho vay theo nhiều tiêu thức khác nhau như phân chia theo
thời gian, theo đối tượng cho vay, theo mục đích cho vay,... Ngân hàng có thể thực
hiện cho vay theo các phương thức: cho vay thấu chi, cho vay từng lần, cho vay
theo hạn mức tín dụng, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.
Đây là hoạt động mang lại phần lớn thu nhập từ lãi cho ngân hàng, giúp tăng vốn
chủ sở hữu từ đó tăng thế mạnh, uy tín của ngân hàng, giúp ngân hàng có thể phát
triển.
6


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Hoạt động chiết khấu thương phiếu là hoạt động mà trong đó khách hàng
chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho
ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và
hoa hồng phí. Đây là hoạt động khá đơn giản, gây ít phiền phức cho ngân hàng,
đồng thời cũng là hoạt động gây ít rủi ro và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là
chắc chắn.

- Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức
thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Thực chất đây là
một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng bằng uy tín của mình qua đó
khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được
các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Nếu phân theo mục tiêu, hoạt
động bảo lãnh bao gồm các loại: bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng, bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh tốn, bảo lãnh
hồn trả vốn vay,...
- Hoạt động cho thuê tài sản là hoạt động trong đó ngân hàng mua tài sản sau
đó cho khách hàng thuê với thời gian sao cho ngân hàng phải thu được đủ hoặc gần
đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài
sản đó. Hoạt động này giống hoạt động cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải
xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc và lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải
trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kỳ, tuy nhiên tài sản cho thuê vẫn thuộc
sở hữu của ngân hàng.
- Hoạt động đầu tư của ngân hàng bao gồm: đầu tư vào chứng khốn ngắn hạn,
chủ yếu là chứng khốn Chính phủ; mua cổ phiếu và trái phiếu của các tổ chức
kinh tế khác; ...
Ngồi ra NHTM cịn thực hiện các hoạt động dịch vụ trung gian như thực hiện
thanh toán hộ, mua bán hộ chứng khoán,... Đây là hoạt động ngân hàng thực hiện
theo yêu cầu của khách hàng, hoạt động này ngày càng đa dạng phong phú, đem lại
7


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thu nhập, đồng thời củng cố thêm uy tín cho ngân hàng. Đối với dịch vụ thanh toán
hộ, theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng cung cấp cho khách hàng phương tiện
thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng. Đối với dịch vụ mua

bán hộ chứng khốn: do có uy tín nên ngân hàng có thể bảo lãnh phát hành chứng
khốn cho các cơng ty cổ phần muốn huy động vốn, tư vấn đầu tư chứng khoán cho
khách hàng. Ngoài ra ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian khác như: kinh
doanh mua bán ngoại tệ; dịch vụ ủy thác, đại lý tài sản vốn đầu tư của các tổ chức,
cá nhân theo hợp đồng; dịch vụ quản lý tài sản, cho thuê két sắt, ...
1.1.3. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.1.3.1. Huy động vốn chủ sở hữu.
Ban đầu khi thành lập ngân hàng, vốn chủ sở hữu được hình thành từ các
nguồn khác nhau dựa theo hình thức sở hữu của ngân hàng. Nếu là ngân hàng tư
nhân thì vốn đó là do cá nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước
thì do ngân sách Nhà nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do các cổ đơng đóng
góp thơng qua mua các cổ phần; nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham
gia liên doanh góp. Vốn chủ sở hữu ban đầu thường phải tuân theo các quy định
của các nhà chức trách tiền tệ. Theo đó, quy định rõ số vốn tối thiểu – vốn pháp
định mà ngân hàng cần phải tuân thủ khi bắt đầu kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.
Điều này xuất phát từ an toàn cho hoạt động ngân hàng, nhằm hạn chế rủi ro phá
sản của ngân hàng, tạo ra và duy trì niềm tin của công chúng đối với ngân hàng,
hạn chế những tổn thất đối với Chính phủ do những yêu cầu về bảo hiểm tiền gửi.
Trong quá trình hoạt động, vốn chủ sở hữu của ngân hàng được gia tăng nhờ
chủ sở hữu góp thêm hoặc kêu gọi thêm chủ sở hữu; lợi nhuận sau thuế sau khi bù
đắp được chi phí thường được giữ lại một phần bổ sung vào vốn chủ sở hữu dưới
tên gọi: “lợi nhuận tích lũy lại”; ngân hàng trích lập các quỹ: quỹ dự phịng, quỹ
thặng dư, quỹ bảo tồn vốn, các quỹ này làm gia tăng vốn chủ sở hữu; hay ngân
hàng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển dổi thành cổ phiếu. Mỗi phương thức
làm gia tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng đều có mặt lợi thế và mặt khó khăn,
8


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


nhưng sự gia tăng vốn chủ trong quá trình hoạt động của ngân hàng là điều mà các
ngân hàng nhất thiết phải nghĩ đến. Quy mô của vốn chủ sở hữu cần phải được phát
triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi
ro khác của ngân hàng hay nói cách khác vốn chủ sở hữu như “ấm đệm”chống đỡ
những thua lỗ của ngân hàng cần phải được củng cố bổ sung tương ứng với quy mô
rủi ro của ngân hàng.
1.1.3.2. Hoạt động huy động tiền gửi.
Có thể nói, tiền gửi là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất để ngân hàng thực hiện các hoạt động
của mình như: cho vay, đầu tư, bảo lãnh, chiết khấu,... Nó là nguồn tài trợ chủ yếu
cho các hoạt động mang lại thu nhập cho ngân hàng, vì thế nó là nguồn gốc sâu xa
của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Ngân hàng thường cung cấp các
loại hình tiền gửi khác nhau cho khách hàng để gia tăng quy mô nguồn vốn trong
mơi trường cạnh tranh và mong muốn có được nguồn tiền gửi với chất lượng cao.
Tiền gửi thanh toán là một trong những loại hình tiền gửi lâu đời nhất mà
ngân hàng cung cấp. Đây là tiền của khách hàng gửi vào ngân hàng bằng đồng tiền
nội tệ hoặc ngoại tệ để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ khi có nhu cầu. Khách
hàng mở tài khoản tiền gửi thanh tốn trong ngân hàng có thể là cá nhân, hộ sản
xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác... Khi sử dụng loại
hình tiền gửi này họ có nhu cầu chi trả tiền hàng hóa, dịch vụ thơng qua ngân hàng
bởi thanh tốn qua ngân hàng giúp q trình thanh tốn của họ diễn ra an tồn hơn,
nhanh chóng hơn, và tiện dụng hơn. Tiền gửi thanh tốn địi hỏi ngân hàng thanh
tốn ngay lập tức các lệnh rút tiền cho bên thứ ba được chỉ rõ là người thụ hưởng,
vì vậy họ ln phải giữ mức dự trữ cao cho loại tiền gửi này để sẵn sàng cho nhu
cầu thanh toán. Mặt khác do tính khơng ổn định của loại tiền gửi này mà ngân hàng
có khả năng sử dụng chúng rất hạn chế, vì thế ngân hàng trả lãi cho khách hàng
trên tài khoản tiền gửi này rất ít thậm chí là bằng khơng. Tuy nhiên, việc phát triển
loại hình tiền gửi này về phía ngân hàng khơng những góp phần phát triển các hình
9



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thức thanh toán khơng dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí cho việc phát hành và lưu
thông tiền mặt cho nền kinh tế, mà cịn tạo nguồn chi phí rẻ do ngân hàng trả lãi
thấp khi sử dụng số dư trên loại tài khoản này để tiến hành kinh doanh. Tiền gửi
thanh toán có thể chia thành tiền gửi thanh tốn khơng hưởng lãi và tiền gửi thanh
toán được hưởng lãi.
- Tiền gửi thanh tốn khơng hưởng lãi là nguồn vốn biến động nhất do ngân
hàng gặp khó khăn nhiều nhất trong việc dự báo quy mơ tiền gửi có thể sử dụng
vào mục đích kinh doanh của mình. Kỳ hạn thực tế của loại tiền gửi này là ngắn
nhất vì nó có thể được rút ra bất kỳ lúc nào mà không có sự báo trước. Vì sự rút ra
thanh tốn mà không báo trước nên số dư của tài khoản này để trong ngân hàng
khơng được hưởng lãi. Tuy nhiên, nó giúp cho mục đích thanh tốn của khách hàng
được đảm bảo nhanh chóng, an tồn, kịp thời và đây chính là nguyện vọng của
khách hàng gửi tiền.
- Tiền gửi thanh tốn được hưởng lãi là tài khoản tiền gửi có số dư được
hưởng lãi theo thỏa thuận giữa khách hàng với ngân hàng và tùy thuộc vào chính
sách lãi suất của ngân hàng.Tiền gửi thanh toán được hưởng lãi đã xuất hiện dưới
hình thức tài khoản NOW- tài khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. Với tài
khoản giao dịch được hưởng lãi cho phép ngân hàng được đòi hỏi khách hàng phải
thông báo trước về việc rút tiền. Nhưng những thao tác rút tiền bất ngờ như tài
khỏan NOW, với những khoản tiền lớn dễ đẩy ngân hàng đến khó thanh tốn và
khủng hoảng.Vì vậy sự tồn tại của tài khoản tiền gửi thanh tốn khơng hưởng lãi
vẫn tỏ ra vô cùng cần thiết cho những giao dịch lớn, tránh sự bị động cho ngành
ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là một hình thức huy động của ngân hàng dựa trên sự đáp
ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền. Thực chất đây là loại hình tiết kiệm thơng
thường có kỳ hạn. Người sử dụng loại hình tiền gửi này khơng được sử dụng các
hình thức thanh tốn áp dụng đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu, người

gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Khi khách hàng đến gửi tiền vào ngân hàng
10


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

theo tài khoản tiền gửi có kỳ hạn thì điều ngân hàng cần biết trước tiên là khách
hàng gửi vào thời gian bao lâu. Thơng thường định kỳ có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng, 1năm hoặc hơn nữa. Tài khoản tiền gửi loại này sẽ có kỳ hạn tối
thiểu theo thỏa thuận của ngân hàng và khách hàng, khách hàng không được rút
trước hạn đã định khi thỏa thuận. Nếu có nhu cầu phải rút trước thì ngân hàng có
một trong các cách xử lý là: từ chối khơng cho khách hàng rút, yêu cầu khách hàng
phải thông báo trước một thời gian đã thống nhất, hoặc khách hàng sẽ phải chịu lãi
suất phạt vì đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng.
Căn cứ vào hình thức trả lãi, loại tiền gửi này có thể chia thành những loại
sau:
+ Loại trả lãi sau: là hình thức tiết kiệm trả lãi khi hết hạn. Nếu đến hạn người
gửi tiền khơng đến lấy, thì tiền lãi được nhập vào vốn và coi như người gửi tiền đã
gửi kỳ hạn tiếp theo.
+ Loại trả lãi trước: là hình thức tiết kiệm trả lãi ngay khi khách hàng gửi tiền.
Khi đến hạn, khách hàng sẽ được lĩnh phần gốc đúng như số tiền ghi trên thẻ tiết
kiệm. Nếu khách hàng không rút gốc trước hạn thì sẽ giải quyết theo quy định hiện
hành của ngân hàng.
+ Loại trả lãi theo định kỳ: là hình thức trả lãi theo từng kỳ hạn khách hàng
đăng ký với ngân hàng. Kể từ ngày đến kỳ tính lãi, khách hàng có thể rút phần lãi
của kỳ đã đăng kí vào bất cứ ngày làm việc nào của ngân hàng. Nếu khách hàng
không lĩnh lãi theo kỳ hạn đã đăng kí thì ngân hàng chỉ thực hiện sao kê tính lãi.
Hết kì tính lãi cuối cùng, số lãi cịn lại chưa lĩnh của các kì tính lãi trong kì hạn tiền
gửi sẽ được nhập vào gốc.
+ Loại trả lãi theo thời gian gửi thực: là hình thức trả lãi theo khoảng thời gian

mà số tiền gửi của khách hàng tồn tại thực sự trong ngân hàng.
Căn cứ theo thời gian gửi tiền, loại tiền gửi này có thể chia thành:
+ Tiền gửi kỳ hạn loại ngắn hạn: là loại tiền gửi có kỳ hạn được phân chia theo
thời gian gửi tiền, thường có thời gian rất ngắn từ 1 ngày đến vài tuần, tối đa là 3
11


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tháng. Đây là hình thức huy động để ngân hàng giải quyết những nhu cầu cấp bách
về tiền mặt trong ngắn hạn. Vì vậy các ngân hàng chỉ phát hành phiếu nợ với thời
gian ngắn để huy động tiền gửi của nhân dân như chứng chi tiền gửi có kỳ hạn, trái
phiếu đơ la – euro,...
+ Tiền gửi có kỳ hạn loại trung hạn: thường có thời gian đáo hạn từ 6 tháng, 9
tháng, đến 12 tháng. Loại tiền gửi này thường là tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế xã hội, đó là các tài khoản khấu hao, quỹ khen thưởng, phúc lợi, lợi
nhuận, thu nhập doanh nghiệp chưa chi, các quỹ dự phòng chưa phải sử dụng. Mặt
khác, các cá nhân gửi tiền vào loại tài khoản này có số tiền nhàn rỗi khá lâu, khơng
có nhu cầu rút ngay.
+ Tiền gửi có kỳ hạn loại dài hạn: thường có thời gian đáo hạn dài hơn, từ 1
năm đến 10 năm. Thông thường ngân hàng phát hành những trái phiếu tiết kiệm,
trái phiếu euro – đô la loại lớn, các chứng chỉ có giá trị cao.
Tiền gửi tiết kiệm là tài khoản tiền gửi được lập ra để thu hút vốn của những
khách hàng muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu
cầu về tài chính được dự tính cho tương lai. Loại tiết kiệm này nhằm thu hút số tiền
nhàn rỗi trong thời hạn dài và chỉ được rút khi đến hạn. Ngân hàng trả lãi cho
khoản tiền gửi tiết kiệm cao nhưng đổi lại chi phí duy trì và quản lý đối với tài
khoản tiền gửi này nói chung thấp. Khách hàng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng
với mục đích là an toàn và sinh lời. Khi gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng sẽ
được ngân hàng cấp sổ hoặc thẻ tiết kiệm, khách hàng không được sử dụng tiền

trong tài khoản để thanh toán. Tuy nhiên ngân hàng vẫn cho phép khách hàng sử
dụng sổ tiết kiệm như tài sản đảm bảo để vay vốn tại ngân hàng. Khoản tiền gửi
này có kỳ hạn dài và là nguồn tương đối ổn định đối với ngân hàng. Vì vậy, các
ngân hàng thường cạnh tranh nhau thu hút nguồn tiền gửi này để nâng cao chất
lượng nguồn vốn của mình.

12


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

1.1.3.3. Hoạt động đi vay vốn.
Nhiều ngân hàng trong những giai đoạn cụ thể, lâm vào tình trạng khơng đáp
ứng được nhu cầu chi trả khi khả năng huy động các nguồn tiền gửi bị hạn chế.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ NHTM thường vay NHTƯ. Hình thức cho
vay chủ yếu của NHTƯ là tái chiết khấu. Các thương phiếu đã được các NHTM
chiết khấu trở thành tài sản của họ, khi cần tiền, các NHTM mang những thương
phiếu này lên tái chiết khấu tại NHTƯ. Hoạt động này đã làm cho thương phiếu
của NHTM giảm đi, dự trữ của ngân hàng lại tăng lên đủ đáp ứng dự trữ bắt buộc
hay dự trữ thanh toán. Hoặc NHTƯ cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn
theo hạn mức tín dụng nhất định. Khi tiền trở lên khan hiếm, nhiều NHTM cùng
muốn vay thì khả năng đáp ứng các nhu cầu vốn này của NHTƯ bị hạn chế. Việc
cho vay của NHTƯ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà nó theo đuổi trong từng
thời kỳ.
NHTM có thể thực hiện vay mượn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng thơng
qua thị trường liên ngân hàng. Những ngân hàng có dự trữ vượt nhu cầu, hoặc có
nguồn vốn dư thừa so với nhu cầu cho vay sẽ sẵn lòng cho ngân hàng khác vay để
tìm kiếm lãi suất cao hơn. Khoản vay có thể khơng cần phải đảm bảo, hoặc được
đảm bảo bằng chứng khoán kho bạc. Các khoản vay này tuy lãi suất thấp song
thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng. Khi

các ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh tốn thì việc vay mượn các ngân hàng
trên cùng địa bàn sẽ gặp khó khăn.
Cách khác, NHTM cũng có thể vay mượn trên thị trường vốn bằng cách phát
hành các giấy nợ: kỳ phiếu, trái phiếu,... Kỳ phiếu là một phiếu nợ ngắn hạn, ngân
hàng phát hành kỳ phiếu có mục đích nhằm huy động vốn trong dân cư một cách
linh hoạt, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dự án kinh tế
hoặc cho hoạt động của NHTM. Kỳ phiếu gồm các loại mệnh giá khác nhau và có
thể chuyển nhượng được. Cịn trái phiếu ngân hàng là công cụ nợ trung và dài hạn,
mệnh giá trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu để cam kết trả cho người sở hữu
13


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trái phiếu. Trái phiếu có thể được phát hành bằng đồng nội tệ hoặc đồng ngoại tệ
mạnh, với những kỳ hạn khác nhau, có thể chuyển nhượng, cầm cố thế chấp hoặc
có thể được ngân hàng mua lại theo thể thức chiết khấu. Đây là hình thức mà ngân
hàng có thể chủ động huy động được lượng vốn mong muốn trong thời gian ngắn.
Các loại kỳ phiếu trái phiếu làm đa dạng hơn cho sản phẩm huy động vốn của ngân
hàng và tạo ra nhiều lựa chọn cho khách hàng. Nguồn huy động vốn từ phát hành
các giấy nợ có tính ổn định cao hơn tiền gửi tiết kiệm. Những ngân hàng có uy tín
lớn hoặc trả lãi suất cao sẽ huy động được nhiều hơn các ngân hàng khơng có uy tín
hoặc trả lãi thấp hơn. Đặc biệt là các ngân hàng có quy mơ nhỏ, thường gặp khó
khăn trong vay mượn bằng cách này, họ thường phải vay qua ngân hàng đại lý hoặc
có sự bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư.
1.1.3.4. Huy động vốn từ các nguồn khác.
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy
thác giải ngân, thu hộ,...các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng,
làm gia tăng nguồn vốn ở ngân hàng.
Các hoạt động thanh tốn khơng dùng tiền mặt có thể hình thành các nguồn

trong thanh tốn.
Nhìn chung việc huy động từ các nguồn khác này thường mang lại nguồn vốn
không lớn trừ một số ngân hàng có các dịch vụ ủy thác cho Nhà nước hoặc cho các
tổ chức quốc tế,...
1.2. Chính sách lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Lãi suất huy động vốn của ngân hàng.
Theo quan điểm của K.Marx: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do
kết quả bóc lột lao động làm thuê bị tư bản – chủ ngân hàng chiếm đoạt”. Theo
ông, lãi suất là một bộ phận của lợi nhuận. Như vậy, lãi suất nhìn chung sẽ thấp
hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Hạn chế của quan điểm này là chỉ đề cập đến lãi
suất trong quan hệ cho vay và đi vay của các mối quan hệ tài chính ở thời kỳ đó.
14


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, đại diện là J.M.Keynes cho
rằng: “Lãi suất là khoản thù lao cho số tiền vay, nó là phần thưởng cho sở thích chi
tiêu hay sở thích thanh khoản”; “Lãi suất do đó cịn được gọi là sự trả cơng cho sự
chia lìa với của cải, tiền tệ.”. Như vậy theo quan điểm này lãi suất chính là chi phí
cơ hội của việc giữ tiền, là kết quả của hoạt động tiền tệ. Đây có thể nói là một
bước tiến mới trong việc xác định các hình thức biểu hiện và những nhân tố tác
động lãi suất.
Tóm lại, có thể hiểu lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong một
thời gian nhất định mà người sử dụng vốn vay trả cho người sở hữu.
Đối với NHTM, là trung gian tài chính cung cấp các dich vụ tài chính cho nền
kinh tế như huy động tiền gửi, cho vay, bảo lãnh, thanh toán hộ,...Ngân hàng đã
thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ thơng qua giá: giá đó chính là lãi suất và
các khoản phí khác. Ngân hàng phải trả giá cho khách hàng về phần lớn nguồn tiền
mà ngân hàng huy động được, đó là chi phí của ngân hàng. Mặt khác khách hàng

cũng phải trả giá cho việc sử dụng các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp, từ đó cấu
thành nên doanh thu của ngân hàng.
Lãi suất ngân hàng gồm lãi suất huy động vốn (lãi suất đầu vào) và lãi suất cho
vay (lãi suất đầu ra):
Lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại là lượng giá trị mà ngân
hàng phải trả cho người sở hữu số vốn mà ngân hàng đã huy động được thông qua
huy động tiền gửi, vay mượn trên thị trương liên ngân hàng, vay khác... Lãi suất
huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: tỷ lệ lạm
phát, khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia, nhu cầu đầu tư của xã
hội, tỷ lệ sinh lời của hoạt động đầu tư khác, sự phát triển của thị trường tài chính,
khả năng sinh lời của ngân hàng, độ an toàn của ngân hàng... Lãi suất huy động tại
mỗi ngân hàng được phân biệt theo các hình thức huy động khác nhau, theo các
tiêu thức: loại tiền huy động, thời gian huy động, mục đích huy động, mức rủi ro
của ngân hàng, các dịch vụ đi kèm, và quy mô vốn huy động.
15


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Lãi suất tiền gửi là tỷ lệ giữa số tiền lãi so với số tiền gốc mà NHTM phải trả
cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. Lãi suất tiền gửi là lãi suất danh
nghĩa mà ngân hàng công bố. Hiện nay các ngân hàng đang đối mặt với sự cạnh
tranh thu hút khách hàng của các đối thủ ngày càng đông trên thị trường. Một mặt
ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để thu hút, duy trì sự ổn định trong
lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng lại phải cố gắng hạn chế trả lãi
quá cao để tránh làm giảm mức lợi nhuận của ngân hàng. Đối với mỗi loại hình tiền
gửi ngân hàng có mức lãi suất riêng phụ thuộc vào quy mơ và chất lượng nguồn
vốn sẽ huy động được từ loại hình tiền gửi này và phụ thuộc vào chính sách lãi suất
huy động của mỗi ngân hàng. Lãi suất huy động được phân biệt theo các loại hình
tiền gửi khác nhau.

+ Đối với tiền gửi thanh toán được ngân hàng trả lãi thì lãi suất áp dụng cho
loại hình này thấp hơn lãi suất áp dụng cho loại hình tiền gửi có kỳ hạn. Lý do là vì,
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là sử dụng dịch vụ thanh
tốn của ngân hàng, vì vậy lãi suất không phải là vấn đề hấp dẫn nhất đối với họ mà
vấn đề ở đây là họ cần chất lượng dịch vụ thanh toán tốt của ngân hàng. Thêm nữa,
những khoản tiền gửi này có tính ổn định khơng cao bởi ngân hàng có thể bất cứ
lúc nào phải thực hiện thanh toán với khối lượng tiền lớn, làm ngân hàng không
chủ động trong việc sử dụng nguồn này.
+ Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là những nguồn tiền khách hàng gửi
vào ngân hàng với mục đích khơng phải để thanh tốn thường xun mà chủ yếu để
hưởng lãi. Vì vậy, lãi suất là điều họ rất quan tâm và bộ phận tiền gửi này rất nhạy
cảm với lãi suất. Đây là những nguồn tiền thường có tính ổn định cao trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thường trả lãi suất cho những
nguồn vốn này cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn để cạnh tranh trong huy
động nguồn vốn có chất lượng tốt cho hoạt động kinh doanh của mình. Hình thức
áp dụng tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng là rất đa dạng, có loại có kỳ hạn 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, thậm chí lâu hơn. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian
16


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

càng dài lãi suất càng cao bởi ngân hàng hồn tồn có thể dùng tiền gửi này đem
đầu tư vào những dịch vụ hoặc sản xuất có tính lâu dài hơn, với lợi tức ổn định
hơn. Hiện nay để thu hút khách hàng gửi tiền các ngân hàng đã sử dụng lãi suất rất
linh hoạt là chia nhỏ lãi suất theo nhiều thời hạn khác nhau. Lãi suất tiền gửi có kỳ
hạn có thể tính theo phương pháp lãi suất đơn hoặc lãi suất kép và lãi suất cố định
hoặc lãi suất thả nổi.
Ngồi ra, khi huy động mà chưa đủ vốn thì ngân hàng cịn đi vay từ các tổ
chức tín dụng khác. Việc vay mượn này được thực hiện thông qua thị trường liên

ngân hàng. Ta xem xét lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng:
Thị trường liên ngân hàng là thị trường mà các ngân hàng thương mại thực
hiện việc vay và cho vay lẫn nhau sau khi họ đã tự cân đối giữa nguồn vốn và sử
dụng vốn tại ngân hàng mình. Lãi suất huy động, hay cho vay liên ngân hàng là lãi
suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nó là mức lãi suất chỉ dẫn khá chính xác
về chi phí vốn vay của các ngân hàng thương mại và cung cầu vốn trên thị trường;
Điển hình là lãi suất cho vay liên ngân hàng London (LIBOR). Về thực chất, đối
với ngân hàng, đó là lãi suất tiền vay qua phương thức huy động tiền gửi; cịn đối
với khách hàng thì đó là lãi suất tiền gửi. LIBOR được xác định hàng ngày giữa
một nhóm 5 ngân hàng ở London có hoạt động kinh doanh hàng đầu về hối đoái,
gồm National Westeminster Bank (Anh), Chi nhánh ngân hàng Morgan (Mỹ), Chi
nhánh ngân hàng Banque National de Paris (Pháp), Chi nhánh ngân hàng Detsche
Bank (CHLB Đức), và Chi nhánh ngân hàng Bank of Tokyo Misubishi (Nhật).
LIBOR áp dụng các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tự do, tức là ngoại tệ không thuộc
quản lý của nhà nước hữu quan, thường được gọi là: “ngoại tệ Châu Âu”, như Euro
USD, Euro GBP, Euro JPY, ...Các khoản vay lớn và có tính quốc tế thường áp
dụng LIBOR, trừ khi có thỏa thuận riêng vì rằng London là trung tâm tài chính
truyền thống lớn nhất thế giới và những ngân hàng thuộc nhóm đề ra LIBOR là
những ngân hàng có nhiều hoạt động và kinh nghiệm trên thị trường vốn quốc tế.
Ngày nay, Singapore đã trở thành một trung tâm tài chính tầm cỡ ở Đơng Á và
17


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

SIBOR là lãi suất cho vay liên ngân hàng Singapore cũng đã được nhiều ngân hàng
sử dụng trong nhiều quan hệ tín dụng lẫn nhau. Trước đây, Việt Nam thường chỉ sử
dụng LIBOR trong quan hệ vay mượn với các ngân hàng nước ngồi, cịn bây giờ
việc sử dụng LIBOR hay SIBOR là do thỏa thuận của hai bên cho vay và đi vay,
thơng thường đó là sự đề xuất của bên cho vay.

Khi phát hành kỳ phiếu hay trái phiếu, ngân hàng nhằm thu hút một khoản
vốn nhất định, và nguồn vốn thu hút được từ việc phát hành kì phiếu, trái phiếu có
tính ổn định cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm. Do đó lãi suất ngân hàng trả cho kì
phiếu, trái phiếu cũng thường cao hơn, làm gia tăng chi phí của ngân hàng.
Khi NHTM đi vay NHNN, lãi suất cho vay sẽ do NHNN công bố, lãi suất này
phụ thuộc vào cơ chế điều hành lãi suất chủ đạo của NHNN trong từng giai đoạn
kinh tế.
Lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại: là tỷ lệ giữa số tiền lãi mà
khách hàng phải trả cho ngân hàng với số tiền gốc mà khách hàng vay được từ
ngân hàng. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của ngân hàng là
một chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời từ lãi của ngân hàng. Có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng cần xem xét khi định giá khoản cho vay của ngân hàng đối với khách hàng
như: lãi suất tiền gửi của ngân hàng, chi phí quản lý, chi phí điều hành cho khoản
vay, quy mơ lượng tiền cho vay, loại tiền vay, rủi ro của khoản vay, rủi ro lãi suất
của khoản vay,...Và nguyên tắc là xác định lãi suất cho vay dựa theo quan hệ cung
cầu. Lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, vì vậy,
ngân hàng thường cố gắng thu hút lượng vốn có kỳ hạn dài để làm nguồn cho vay
đối với các dự án có thời gian dài.
Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngày nay,
sự cạnh tranh trên thị trường cho vay ngày càng gay gắt, các ngân hàng phải cố
gắng duy trì các khoản tín dụng của mình với mức giá hợp lý, phù hợp mức giá
chung trên thị trường tài chính. Sự cạnh tranh cũng đã làm giảm khả năng sinh lời
của các ngân hàng từ chênh lệch lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.
18


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

1.2.2. Sự cần thiết của chính sách.
Chính sách lãi suất huy động vốn của mỗi ngân hàng là việc ra quyết định của

các nhà lãnh đạo ngân hàng về các mức lãi suất cho các hình thức huy động vốn
của mình. Việc ra quyết định này được dựa trên sự tính tốn phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến loại lãi suất này. Để tạo nhiều vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng của
mình, các ngân hàng phải có chính sách lãi suất hợp lý. Một chính sách lãi suất hợp
lý là đưa ra được các mức lãi suất vừa đảm bảo kích thích khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng, vừa đảm bảo cho việc tính tốn đưa ra mức lãi suất đầu ra cạnh tranh,
để tránh tình trạng huy động với giá cao mà đầu tư với giá thấp. Sự cần thiết của
chính sách lãi suất được thể hiện qua các điểm sau:
Thứ nhất, giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động của mình. Chi phí
huy động vốn của ngân hàng bao gồm tất cả các khoản chi mà ngân hàng phải bỏ ra
để có được nguồn tiền, nó bao gồm tiền lãi và các chi phí có liên quan đến huy
động như chi phí thuê quầy tiết kiệm, lương của cán bộ ngân hàng, chi phí sổ sách,
chi phí phát hành đối với các cơng cụ nợ như kì phiếu, trái phiếu, chi phí
marketing...Trong đó, chi phí trả lãi cho khách hàng ln chiếm phần lớn. Như vậy
chính sách lãi suất huy động quyết định chi phí trả lãi của ngân hàng từ đó ảnh
hưởng đến chi phí hoạt động của ngân hàng, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân
hàng. Mặt khác, nguồn huy động được ngân hàng đem đi cho vay lấy lãi, như vậy
vốn huy động cũng chính là nguồn gốc sinh ra lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng
phải tìm cách đặt lãi suất huy động của mình ở một mức hợp lý để một mặt thu hút
được lượng lớn nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác tiết kiệm chi phí
cho ngân hàng; nâng cao lợi nhuận của mình.
Thứ hai, giúp ngân hàng diều tiết lượng vốn phù hợp mục đích sử dụng
của mình. Trong mỗi giai đoạn phát triển của từng ngân hàng, nguồn vốn được sử
dụng theo các chiến lược khác nhau để phục vụ cho chiến lược kinh doanh mang lại
lợi ích cao nhất cho ngân hàng. Ví dụ: Trong giai đoạn ngân hàng đang thiếu vốn
trung và dài hạn để cho vay các dự án kinh tế, sau khi cân đối giữa chi phí và thu
19


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


nhập của mình ngân hàng có thể gia quyết định tăng lãi suất huy động đối với tiền
gửi tiết kiệm kì hạn dài, hoặc phát hành trái phiếu với lãi suất hấp dẫn. Điều này sẽ
thu hút những người có tiền nhàn rỗi, hoặc những người gửi tiền ở nơi có lãi suất
thấp hơn chuyển tiền vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi suất cao hơn. Vấn đề
là huy động với mức lãi suất cao hơn là bao nhiêu để có được số vốn ngân hàng dự
định thu hút? Điều này đòi hỏi ngân hàng nghiên cứu và đưa ra được chính sách lãi
suất huy động hợp lý.
Thứ ba, giúp ngân hàng ổn định được vốn kinh doanh của mình. Để mở
rộng và phát triển kinh doanh, ngân hàng phải có chiến lược đảm bảo sự gia tăng và
sự ổn định của các nguồn tiền một cách thường xuyên. Một trong những tiêu chí để
đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng là khả năng huy động vốn với mức
lãi suất hợp lý cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay. Hiện nay, trong
tình trạng cạnh tranh gay gắt của một số lượng lớn các ngân hàng và các tổ chức tài
chính phi ngân hàng khác, thì chi phí để huy động tiền gửi lẫn quy mơ huy động
tiền gửi mà một ngân hàng có thể huy động đều phụ thuộc vào chính sách định giá
và chính sách Marketing của ngân hàng. Nếu chính sách định giá và chính sách
Marketing của ngân hàng mà khơng theo kịp các đối thủ cạnh tranh sẽ phải chịu tổn
thất về thu nhập cũng như về cơ sở khách hàng. Ví dụ như lãi suất cảu ngân hàng
thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh đồng thời khơng có chiến lược giữ khách hàng
tốt thì khách hàng sẽ dần rút vốn của mình sang gửi tại ngân hàng khác.
Chính vì những lý do nêu trên, ta thấy một ngân hàng muốn giải quyết tốt
khâu nguồn vốn, cần phải có một chính sách lãi suất huy động hợp lý, từ đó giúp
tăng hiệu quả hoạt động huy động vốn, kiểm soát được chi phí của ngân hàng,
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.2.3. Mục tiêu của chính sách.
Mục tiêu của chính sách lãi suất huy động vốn là đưa ra được các mức lãi suất
cá biệt ứng với các hình thức huy động trong từng thời kỳ của ngân hàng, giúp tăng
hiệu quả của hoạt động huy động vốn. Các nhà quản lý ngân hàng phải đưa ra mức
20




×