Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Xuất khẩu mặt hàng cá tra của tỉnh An Giang sang thị trường Liên minh châu Âu - Phạm Hải Yến - K49E - 9,3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 105 trang )



MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MẶT
HÀNG CÁ TRA CỦA TỈNH AN GIANG SANG THỊ TRƯỜNG EU 5
1.1. Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu 5
1.1.2. Các hình thức của xuất khẩu 7
1.1.3. Vị trí, vai trò của xuất khẩu 7
1.1.4. Các nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa 9
1.2. Tổng quan về EU và thị trường thủy sản EU 11
1.2.1. Giới thiệu chung về EU 11
1.2.2. Đặc điểm thị trường thủy sản EU 13
1.3. Tiềm năng và lợi thế của An Giang trong chế biến và xuất khẩu cá tra
22
1.4. Lợi ích của việc đẩy mạnh xuất khẩu cá tra của tỉnh An Giang 26
1.4.1. Lợi ích kinh tế 26
1.4.2. Lợi ích xã hội 28
1.5. Kinh nghiệm của một số tỉnh thành khác về đẩy mạnh xuất khẩu cá
tra 29
1.5.1. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Tháp 29
1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Bến Tre 30
1.5.3. Kinh nghiệm của thành phố Cần Thơ 31
1.5.4. Bài học rút ra cho tỉnh An Giang 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÁ TRA CỦA TỈNH AN GIANG
SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2008 – 2012 33
2.1. Thiết kế khảo sát 33
2.2. Tình hình xuất khẩu cá tra của tỉnh An Giang sang thị trường EU giai


đoạn 2008 – 2012 34


2.2.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu 34
2.2.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 40
2.2.3. Giá xuất khẩu 42
2.2.4. Phương thức thanh toán 44
2.2.5. Kênh phân phối 44
2.3. Thực trạng các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu cá tra của
tỉnh An Giang sang thị trường EU 46
2.3.1. Kết quả khảo sát 46
2.3.2. Nhận xét và bình luận của tác giả về kết quả khảo sát 50
2.4. Đánh giá chung tình hình xuất khẩu cá tra của tỉnh An Giang sang thị
trường EU 51
2.4.1. Thành tựu 51
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân 54
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁ TRA CỦA TỈNH
AN GIANG SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2013 – 2020 62
3.1. Định hướng xuất khẩu cá tra của tỉnh An Giang sang thị trường EU
giai đoạn 2013 – 2020 62
3.1.1. Định hướng và chiến lược xuất khẩu 62
3.1.2. Dự báo về tình hình xuất khẩu trong thời gian tới 64
3.2. Cơ hội và thách thức đối với mặt hàng cá tra xuất khẩu sang thị
trường EU 67
3.2.1. Cơ hội 67
3.2.2. Thách thức 69
3.3. Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cá tra của An Giang sang thị
trường EU 71
3.3.1. Về giống 71
3.3.2. Nâng cao chất lượng vùng nuôi 72

3.3.3. Chính sách về vốn người nuôi 74
3.3.4. Tăng cường sản phẩm giá trị gia tăng và nâng cao chất lượng mẫu mã
75
3.3.5. Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững 76


3.3.6. Xúc tiến mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu 77
3.4. Kiến nghị đối với Nhà nước 78
3.4.1. Kiến nghị đối với Bộ, ngành Trung ương 78
3.4.2. Kiến nghị đối với Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang 79
3.4.3. Kiến nghị đối với các Sở, ngành liên quan trong tỉnh An Giang 79
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC 89





DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
1

ASC
Aquaculture
Stewaship Council
Hội Đồng Quản Lý Nuôi
Trồng Thủy Sản

2

DN

Doanh nghiệp
3

ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long
4

EU European Union Liên minh Châu Âu
5

FAO
Food and Agriculture
Organization
Tổ chức Liên Hiệp Quốc về
lương thực và nông nghiệp
6

GlobalGAP
Global Good
Agricultural Practices
Tiêu chuẩn Thực hành nông
nghiệp tốt toàn cầu
7

GSP

Generalized System
of Preference
Hệ thống ưu đãi phổ cập
8

GTGT Giá trị gia tăng
9

IMF
International
Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
10

NN&PTNT
Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
11

SQF 1000
CM
Safe Quality Food
Tiêu chuẩn thực phẩm an toàn
chất lượng
12

TW Trung ương
13

UBND Ủy ban Nhân dân

14

VietGAP
Vietnamese Good
Agricultural Practices
Tiêu chuẩn Thực hành sản
xuất nông nghiệp tốt ở Việt
Nam
15

XK Xuất khẩu


DANH MỤC BẢNG BIỂU
1. DANH MỤC BẢNG Trang
Bảng 1.1: Tổng sản lượng thủy sản đánh bắt và nuôi trồng của EU giai
đoạn 1995 – 2010
14
Bảng 1.2: Ước lượng mức tiêu thụ thủy sản trung bình của các nước EU
từ năm 1989 đến năm 2030
15
Bảng 1.3: Cơ cấu mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào EU giai đoạn 2001 –
2011
17
Bảng 2.1: Sản lượng xuất khẩu cá tra An Giang sang thị trường EU giai
đoạn 2008 – 2012
34
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng cá tra An Giang sang thị
trường EU giai đoạn 2008 – 2012
39

Bảng 2.3: Giá nhập khẩu cá tra trung bình của một số quốc gia thành viên
EU năm 2011
43
Bảng 2.4: Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu cá tra sang thị
trường EU của các doanh nghiệp ở An Giang
47
Bảng 2.5: Tỷ lệ kiểm tra các ao nuôi cá tra nguyên liệu trước khi thu mua 54
Bảng 2.6: Mức độ ổn định của nguyên liệu cho nhà máy chế biến xuất
khẩu
55
Bảng 2.7: Vốn điều lệ của doanh nghiệp xuất khẩu cá tra 55
Bảng 2.8: Đánh giá về khả năng xuất khẩu các mặt hàng GTGT chế biến
từ cá tra của doanh nghiệp
56
Bảng 2.9: Công nghệ, máy móc và trang thiết bị phục vụ chế biến xuất
khẩu của doanh nghiệp
56
Bảng 2.10: Trình độ tay nghề của công nhân trong khâu chế biến 56
Bảng 2.11: Mức độ thường xuyên tiến hành các hoạt động điều tra nghiên
cứu và phân tích thị trường, khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp
57
Bảng 2.12: Các hoạt động marketing xuất khẩu của doanh nghiệp 58
Bảng 3.1: Định hướng phát triển nghề nuôi cá tra giai đoạn 2013 – 2015 62




2. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Trang
Biểu đồ 1.1: Sản lượng và giá trị thủy sản nhập khẩu toàn cầu năm 2009 13
Biểu đồ 1.2: So sánh sản lượng thủy sản đánh bắt và sản lượng thủy sản

tiêu thụ ở EU giai đoạn 1989 – 2007
16
Biểu đồ 1.3: Cơ cấu khu vực nhập khẩu thủy sản vào EU năm 2011 16
Biểu đồ 2.1: Sản lượng xuất khẩu cá tra An Giang sang một số nước EU
giai đoạn 2008 – 2009
35
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu thị trường nhập khẩu sản phẩm cá tra của tỉnh An
Giang năm 2009
36
Biểu đồ 2.3: Sản lượng nhập khẩu cá tra An Giang của Đức và Tây Ban
Nha so với toàn EU giai đoạn 2010 – 2012
37
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu các sản phẩm cá tra của tỉnh An Giang xuất khẩu
sang thị trường EU giai đoạn 2008 – 2012
41
Biểu đồ 2.5: Giá xuất khẩu trung bình của mặt hàng cá tra An Giang sang
thị trường EU năm 2008 – 2012
42
3. DANH MỤC HÌNH Trang
Hình 1.1: Hệ thống phân phối thủy sản của EU 20
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt Nam đã và đang từng
bước cố gắng phát huy tối đa lợi thế của mình để có thể bắt kịp với sự phát triển của
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Từ trước đến nay, Việt Nam được biết
đến như một quốc gia có thế mạnh về nông – lâm – ngư nghiệp và đời sống của đa
số người dân phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. XK các sản phẩm thủy sản đã đem lại
một nguồn ngoại tệ không nhỏ phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước,
trong đó phải kể đến XK cá tra, một sản phẩm độc đáo mang đặc trưng của vùng

sông nước miền Tây. Trong khoảng mười năm trở lại đây, XK cá tra đang dần trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, cá tra Việt Nam đã có mặt khắp 142
quốc gia và vùng lãnh thổ với sản lượng nuôi tăng gấp 50 lần, vượt ngưỡng 1 triệu
tấn mỗi năm, giá trị XK tăng gấp 65 lần, đóng góp khoảng 2% GDP cho cả nước
(Diệp Anh, 2013).
Trong những năm qua, trên bước đường phát triển của mình, ngành công
nghiệp chế biến thủy sản của tỉnh An Giang không chỉ chứng minh được năng lực
mà còn khẳng định một vị thế vững chắc với những sản phẩm xuất khẩu đạt tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế. An Giang là một tỉnh thuộc ĐBSCL – một vùng đồng
bằng châu thổ trù phú của hạ lưu lưu vực sông Mê Kông. Thiên nhiên đã ban cho
vùng châu thổ này những tiềm năng vô giá, nổi bật nhất là đất phù sa màu mỡ,
nguồn nước dồi dào, sinh thái rừng ngập nước và khí hậu ôn hòa quanh năm. Lợi
thế về tự nhiên đã tạo điều kiện cho người dân trong vùng phát triển hoạt động nuôi
trồng và chế biến cá tra XK. Những năm qua, nghề nuôi cá tra ở đây đem lại hiệu
quả kinh tế khá cao nên diện tích nuôi cá tra ngày càng tăng nhanh. Vào đầu năm
2004, diện tích nuôi cá tra toàn tỉnh An Giang chỉ khoảng 100 ha, đến năm 2006
con số này đã tăng lên khoảng 700 ha (Hải Linh, 2012) và cho tới năm 2013 đã lên
đến 1.348 ha (Thanh Sơn, 2013), hình thành các vùng chuyên canh nuôi cá tra
nguyên liệu đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước, cùng với sự ra đời của hàng loạt
các nhà máy chế biến cá tra XK góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng
lao động ở địa phương và các vùng lân cận. Sản phẩm cá tra của An Giang đã có
mặt khắp các thị trường tiêu thụ thủy sản lớn trên thế giới như Hoa Kì, EU, Nhật
2
Bản, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc… Trong đó, đáng chú ý là thị trường EU, một thị
trường to lớn, ổn định với nhu cầu tiêu thụ vào bậc nhất thế giới, đồng thời cũng là
thị trường khắt khe, đòi hỏi cao về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nuôi trồng và chế biến cá tra XK đem lại một nguồn lợi to lớn cho địa
phương nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, trong xu thế cạnh tranh ngày
càng khốc liệt, nền kinh tế tồn tại nhiều bất ổn và sức mua giảm sút, cộng với bản
thân ngành chế biến và XK cá tra của tỉnh An Giang vẫn còn yếu kém, chưa nhận

được quan tâm và đầu tư đúng mực nên ngành chưa phát triển tương xứng với tiềm
năng, khả năng cạnh tranh về chất lượng còn thấp, chưa xây dựng được thương hiệu
và còn nhiều bất cập khác. Do đó, để phát huy tối đa lợi thế của ngành, vùng với
loài cá có giá trị XK cao, tạo nguồn hàng có chất lượng ổn định, nâng cao kim
ngạch XK, đứng vững trên thị trường, đặc biệt là thị trường khó tính như EU, đòi
hỏi cần có những giải pháp đúng đắn và kịp thời.
Chính vì thế, vấn đề đáng quan tâm hiện nay đối với ngành nuôi trồng và chế
biến cá tra XK của tỉnh An Giang là đưa ra được những giải pháp tạm thời khắc
phục những khó khăn trước mắt và xây dựng hệ thống các giải pháp mang tính chất
lâu dài nhằm giải quyết triệt để những tồn tại và đón đầu những thử thách mới. Bên
cạnh đó, EU được biết là một thì trường tiêu thụ rộng lớn nhưng khó tính và đặt ra
những yêu cầu rất cao đối với sản phẩm nhập khẩu, đặt biệt là thực phẩm, chinh
phục được thị trường này đồng nghĩa với việc sản phẩm cá tra của tỉnh An Giang đã
có chỗ đứng trên thị trường toàn thế giới. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả đã quyết
định lựa chọn đề tài: “Xuất khẩu mặt hàng cá tra của tỉnh An Giang sang thị
trường Liên minh châu Âu” làm nội dung nghiên cứu của khóa luận.
2. Mục đích nghiên cứu
 Tóm lược một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động XK, đặc điểm thị
trường EU và những yếu tố tác động đến hoạt động XK cá tra sang thị trường EU.
 Phân tích và đánh giá tình hình XK cá tra của tỉnh An Giang sang thị trường
EU giai đoạn 2008 – 2012.
 Căn cứ vào cơ sở lý luận và những phân tích, đánh giá thực trạng, đề xuất
những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, đẩy mạnh XK mặt hàng cá tra của tỉnh An
Giang sang thị trường EU giai đoạn 2013 – 2020.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: hoạt động XK cá tra của tỉnh An Giang.
 Phạm vi nghiên cứu:
 Về mặt không gian: tỉnh An Giang và thị trường xuất khẩu EU.
 Về mặt thời gian: thực trạng trong giai đoạn 2008 – 2012 và giải pháp

cho giai đoạn 2013 – 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận tốt nghiệp này, trên nền tảng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
 Phương pháp thống kê, tổng hợp: sử dụng số liệu thứ cấp do các cơ quan chức
năng cung cấp và từ các báo cáo, nghiên cứu, tạp chí, sách báo và internet…
 Phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu: từ các bảng thống kê và số liệu thứ
cấp thu thập được.
 Đặc biệt, tác giả đã sử dụng phương pháp khảo sát thực tế thông qua bảng câu
hỏi. Cụ thể, tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát tại 17 DN chế biến và XK cá tra
của tỉnh An Giang từ ngày 21/10/2013 đến ngày 01/11/2013, có 15 phiếu hợp lệ thu
về. Mục tiêu khảo sát để thu thập thông tin và đánh giá những mặt đã đạt và chưa
đạt của các DN XK cá tra sang thị trường EU trong tỉnh, trên cơ sở đó đưa ra giải
pháp ở chương 3. Số liệu được tác giả xử lý, tổng hợp bằng phần mềm Microsoft
Excel.
5. Bố cục của bài:
Ngoài mục lục, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, lời mở đầu, kết
luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận tốt nghiệp gồm có ba chương, cụ thể
như sau:
 Chương 1: Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu cá tra của tỉnh An Giang
sang thị trường EU.
 Chương 2: Thực trạng xuất khẩu cá tra của tỉnh An Giang sang thị trường
EU giai đoạn 2008 – 2012.
 Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cá tra của tỉnh An Giang sang thị
trường EU giai đoạn 2013 – 2020.
4
Trong quá trình thực hiện khóa luận không tránh khỏi sai sót, tác giả rất
mong nhận được những góp ý của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Tác
giả xin gửi lời cảm ơn đến Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang,

Sở Công Thương tỉnh An Giang, đặc biệt là anh Nguyễn Hoàng Linh (Phó phòng
Khoa học Công nghệ – Sở NN&PTNT An Giang ) và anh Trần Thanh Tuấn
(Trưởng phòng Thị trường-Xuất nhập khẩu – Sở Công Thương An Giang), cùng với
17 DN chế biến XK cá tra trong tỉnh đã nhiệt tình hỗ trợ tác giả trong công tác tìm
kiếm thông tin, thu thập số liệu. Bên cạnh đó, tác giả cũng xin cảm ơn nhà trường
và người hướng dẫn khoa học, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hoàng đã tạo điều kiện và tận
tình hướng dẫn tác giả hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
Sinh viên thực hiện
Phạm Hải Yến

5
CHƯƠNG 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MẶT
HÀNG CÁ TRA CỦA TỈNH AN GIANG SANG THỊ TRƯỜNG EU
1.1. Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm
XK là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, nó xuất hiện từ lâu
đời và ngày càng phát triển. Từ hình thức đầu tiên là trao đổi hàng hóa giữa các
nước, cho đến nay, hoạt động XK đã rất phát triển và thể hiện thông qua nhiều hình
thức. Cùng với nhập khẩu, XK giúp một quốc gia mở ra những giao dịch kinh tế
quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ chủ yếu khi quốc gia đó tham gia vào hoạt động
kinh tế quốc tế.
XK được hiểu là hoạt động đưa hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang
quốc gia khác nhằm thu lợi nhuận, trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh
toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một trong hai quốc gia hay cả hai quốc
gia (đồng tiền dùng thanh toán quốc tế). Mục đích của hoạt động này là thu được
ngoại tệ dựa trên việc khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công
lao động quốc tế và một số mục đích khác. Cơ sở của hoạt động XK là hoạt động
mua bán trao đổi hàng hóa trong nước, bao gồm cả hàng hóa vô hình và hàng hóa
hữu hình. Khi sản xuất ngày một phát triển và các quốc gia nhận được nhiều lợi ích

từ việc trao đổi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới quốc gia hoặc
giữa thị trường nội địa và khu chế xuất.
Một số khái niệm về xuất khẩu:
“XK hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
đưa vào khu vực đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam được xem là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật” (Điều 28, mục 1, chương 2, Luật Thương Mại
Việt Nam 2005)
Theo nhà kinh tế học Sullivan (Sullivan, 2010), “XK là bất kỳ hàng hóa nào
được chuyển từ một nước này sang một nước khác một cách chính thức, điển hình
là cho mục đích thương mại. Hàng hóa và dịch vụ XK do các nhà sản xuất trong
nước XK cho người tiêu dùng nước ngoài”.
Tóm lại, có thể hiểu ngắn gọn XK là việc hàng hóa được di chuyển ra khỏi
6
biên giới hải quan của một quốc gia.
1.1.1.2. Đặc điểm
XK là một trong những hoạt động cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế
nên mang những đặc trưng của hoạt động thương mại quốc tế. Hoạt động XK phân
biệt với hoạt động mua bán hàng hóa thông thường trong nước ở đặc điểm là nó có
sự tham gia mua bán của đối tác nước ngoài và hàng hóa có sự di chuyển qua biên
giới hải quan.
Đối tượng của hoạt động XK bao gồm nhiều loại, cả hàng hóa vô hình lẫn
hữu hình, thông thường là những mặt hàng mà quốc gia có lợi thế so sánh về các
nguồn lực phát triển.
Hoạt động XK có thể được tiến hành bởi tư nhân hoặc DN nhà nước nhằm
đáp ứng nhu cầu riêng của từng chủ thể, tuy nhiên, thông thường mục đích của tư
nhân chỉ nhằm tối đa hóa lợi nhuận, còn đối với các DN nhà nước, chính phủ thì
ngoài mục tiêu lợi nhuận còn có các mục tiêu khác như văn hóa, chính trị, ngoại
giao…
Thời gian lưu chuyển hàng hóa trong hoạt động xuất khẩu thông thường sẽ
dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hóa trong hoạt động kinh doanh nội địa,

do khoảng cách địa lý cũng như những thủ tục phức tạp để tiến hành hoạt động XK
(Võ Thanh Thu, 2011, tr. 215 – 227). Do đó, để xác định kết quả hoạt động kinh
doanh XK, người ta chỉ xác định khi hàng hóa đã luân chuyển được một vòng hay
khi đã thực hiện xong một thương vụ ngoại thương.
Thời điểm giao nhận hàng và thời điểm thanh toán không trùng nhau mà có
khoảng cách dài, phụ thuộc vào khoảng cách địa lý và phương thức giao hàng,
phương thức thanh toán được quy định trong hợp đồng mua bán hàng hóa dịch vụ
(Võ Thanh Thu, 2011, tr. 215 – 227).
Phương thức thanh toán: trong XK hàng hóa, có nhiều phương thức thanh
toán được áp dụng, tuy nhiên, phương thức thanh toán chủ yếu là thanh toán bằng
thư tín dụng. Đây được xem là phương thức thanh toán tối ưu cho cả 2 bên, đặc biệt
là bên XK.
Tập quán, pháp luật: Hai bên mua bán ở hai quốc gia khác nhau, mang quốc
tịch khác nhau, pháp luật và tập quán kinh doanh khác nhau, vì vậy, phải tuân thủ
7
luật kinh doanh cũng như tập quán kinh doanh của từng nước và luật thương mại
quốc tế.
1.1.2. Các hình thức của xuất khẩu
Một số hình thức XK thường gặp trong giao dịch thương mại quốc tế bao
gồm:
 XK trực tiếp: là hình thức giao dịch mà trong đó, người bán (người XK) và
người mua (người nhập khẩu) liên hệ trực tiếp với nhau để bàn bạc thỏa thuận về
hàng hóa, giá cả, phương thức thanh toán, điều kiện cơ sở giao hàng và một số điều
kiện khác.
 Giao dịch qua trung gian: là hình thức mua bán quốc tế thông qua một bên
thứ ba làm trung gian. Bên thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Trung
gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới.
 Buôn bán đối lưu: là phương thức giao dịch trao đổi hàng hóa, trong đó XK
kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao
đi tương xứng với lượng hàng nhận về. Mục đích của XK ở đây không phải là ngoại

tệ, đồng tiền chỉ làm chức năng tính giá, nhằm thu về một lượng hàng hóa có giá trị
tương đương.
 Chuyển khẩu/tạm nhập tái xuất: kinh doanh tái xuất là việc bán lại hàng hóa
đã mua trước đây nhằm mục đích kiếm lời, hàng hóa chưa qua chế biến ở nước tái
xuất. Mục đích của phương thức này là mua rẻ bán đắt nhằm thu lượng ngoại tệ lớn
hơn số vốn bỏ ra.
 Gia công quốc tế: gia công hàng XK là phương thức sản xuất hàng XK trong
đó, bên đặt gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc
bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước, bên nhận gia công trong nước sẽ
tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu. Toàn bộ sản phẩm làm ra bên
nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công và nhận tiền công.
 XK tại chỗ: là hình thức XK hàng hóa cho một DN trong nước bán cho nước
ngoài, nhưng hàng hóa được giao cho một DN khác trong nước theo chỉ định của
phía nước ngoài để làm nguyên liệu sản xuất, gia công hàng XK.
1.1.3. Vị trí, vai trò của xuất khẩu
Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế toàn cầu, hoạt động XK được xem là
8
một hoạt động rất cần thiết. Trên cơ sở về lợi thế so sánh giữa các quốc gia, hoạt
động sản xuất ở từng quốc gia sẽ có tính chuyên môn hóa cao hơn, giúp giảm chi
phí sản xuất và các chi phí khác để từ đó giảm giá thành sản phẩm. Thông qua hoạt
động XK, các quốc gia tham gia vào hoạt động này phụ thuộc vào nhau nhiều hơn.
Hoạt động này không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt, mà còn có sự tham gia
của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của nhà nước.
XK được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối
ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển (Bùi Xuân Lưu – Nguyễn Hữu
Khải, 2007, tr. 379 – 383). Bên cạnh đó, XK còn có những vai trò sau:
 XK tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất
nước. Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu
để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa
đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy

móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
 XK đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh
mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát
triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
 XK tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tức là
sự phát triển của ngành hàng XK này sẽ kéo theo sự phát triển của một ngành
khác có quan hệ mật thiết.
 XK tạo ra khả năng mở rộng thì trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất
phát triển và ổn định.
 XK tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước.
 XK tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng
lực sản xuất trong nước.
 Thông qua XK, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải
tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường.
9
 XK còn đòi hỏi các DN phải luôn đổi mới, hoàn thiện công việc quản trị
sản xuất và kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường.
 XK có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời
sống của nhân dân. Tác động của XK đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều
mặt. Trước hết, sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng XK đang trực tiếp là nơi thu hút
hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. XK còn tạo ra nguồn
vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp
ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Quan trọng hơn cả là việc XK tác động trực tiếp đến sản xuất, làm cho cả
quy mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề
mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn,

năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện.
 XK là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước
ta. XK và các quan hệ kinh tế đối ngoại luôn có tác động qua lại phụ thuộc lẫn
nhau. XK là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế đối ngoại. Vì vậy khi hoạt động
XK phát triển sẽ kéo theo các bộ phận khác của kinh tế đối ngoại phát triển như
dịch vụ, quan hệ tín dụng, đầu tư, hợp tác, liên doanh, mở rộng vận tải quốc tế
Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện mở rộng XK. Vì
vậy đẩy mạnh XK có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao
địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế, góp phần vào sự ổn định kinh tế
chính trị của đất nước (Bùi Xuân Lưu – Nguyễn Hữu Khải, 2007, tr. 379 – 383).
1.1.4. Các nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa
1.1.4.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm: vị trí địa lý, khí hậu cũng tác động đến hoạt
động XK, đặc biệt với những hoạt động XK sử dụng tài nguyên thiên nhiên làm
nguyên liệu chính như hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gốm chịu ảnh hưởng của thời
tiết, mưa ảnh hưởng đến hoạt động nung gốm và vận chuyển gốm
1.1.4.2. Thuế quan
Thuế quan XK là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá XK. Thuế
quan là một công cụ lâu đời nhất của chính sách thương mại quốc tế và là một
phương tiện truyền thống để tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
10
1.1.4.3. Công cụ phi thuế quan
Hạn ngạch XK: hình thức này áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng
rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong XK hàng hóa. Hạn
ngạch XK hàng hóa được quyết định theo mặt hàng, theo từng quốc gia, theo từng
thời gian nhất định.
Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật: bao gồm những quy định về vệ sinh,
đo lường, an toàn lao động, bao bì đóng gói, đặc biệt là quy định về vệ sinh an toàn
thực phẩm, vệ sinh phòng dịch đối với thực phẩm tươi sống, tiêu chuẩn bảo vệ môi
trường sinh thái và các máy móc, dây chuyền thiết bị công nghệ

1.1.4.4. Nhân tố chính trị - pháp luật
Đây là nhân tố hoàn toàn khách quan đối với DN, các nhà XK phải luôn chú
ý đến các nhân tố như:
 Các quy định của Nhà nước đối với hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế: Có
thể nói các chính sách và quy định của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
kinh doanh XK. Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhà nước thiết
lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các DN.
Công cụ, chính sách vĩ mô của nhà nước là nhân tố quan trọng mà các DN
kinh doanh xuất nhập khẩu phải nắm rõ và tuân theo vô điều kiện bởi nó thể hiện ý
chí của Đảng và Nhà nước, bảo vệ lợi ích chung của mọi tầng lớp trong xã hội.
Hoạt động XK tiến hành giữa các chủ thể giữa các quốc gia khác nhau, bởi vậy, nó
chịu sự tác động của các chính sách chế độ luật pháp ở quốc gia mình và đồng thời
cũng phải tuân theo những quy định của luật pháp quốc tế chung.
Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực,
trực tiếp gia công XK, đầu tư cho XK, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng
XK, chính sách trợ cấp XK cũng góp phần to lớn tác động đến tình hình XK của
một quốc gia. Tùy theo mức độ can thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các
chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực XK sẽ như
thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang tính thể
chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là một trong những
nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động XK của các DN.
Đối với nước ta chính sách ngoại thương có nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi
11
cho các tổ chức kinh doanh tham gia sâu vào sự phân công lao động quốc tế, mở
mang hoạt động XK và bảo vệ thị trường nội địa nhằm đạt được những mục tiêu và
yêu cầu về kinh tế, chính trị xã hội hoạt động kinh tế đối ngoại.
 Các hiệp định thương mại mà quốc gia tham gia.
 Các quy định nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu.
 Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới XK như luật bảo
hiểm quốc tế, luật vận tải quốc tế, các quy định về giao nhận ngoại thương

1.1.4.5. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả tại đó ngoại hối được mua và bán. Tỷ giá hối đoái
và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện chiến lược hướng
ngoại, đẩy mạnh XK. Một tỷ giá hối đoái chính thức (HĐCT) được điều chỉnh theo
quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái thực tế (HĐTT). Nếu tỷ giá hối
đoái chính thức là không đổi và tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên thì, các nhà XK các
sản phẩm sơ chế, là người bán theo mức giá cả quốc tế nằm ngoài tầm kiểm soát
của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong nước. Hàng XK
của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại với HĐCT cố định
không được tăng lên để bù lại chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà XK các sản phẩm
chế biến có thể làm tăng giá cả XK của họ để bù đắp lại chi phí nội địa cao hơn,
nhưng kết quả khả năng chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên
mức giá tính theo ngoại hối và lợi nhuận thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỉ giá
HĐTT giảm so với tỷ giá HĐCT, khi đó sẽ có lợi hơn cho các nhà XK.
Ngoài ra, còn có một số nhân tố xuất phát từ bản thân DN như: bộ máy quản
lý của DN, khả năng vốn, tài chính, nhân lực, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ, uy tín của DN
1.2. Tổng quan về EU và thị trường thủy sản EU
1.2.1. Giới thiệu chung về EU
EU là từ viết tắt của European Union (Liên minh châu Âu) – một liên minh
kinh tế, chính trị bao gồm 28 thành viên, là trung tâm hàng đầu thế giới về kinh tế,
chính trị, thương mại, tài chính và khoa học kỹ thuật.
Sau hai cuộc chiến tranh thế giới khốc liệt, EU đã ra đời với khát khao hòa
bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển của các nước châu Âu. Với hơn 60 năm hình
12
thành và phát triển, EU được xây dựng từng bước trên nền tảng mức độ liên kết
giữa các thành viên ngày càng mở rộng và sâu sắc ở khắp các lĩnh vực. Cùng với
phát triển về chiều sâu, EU cũng trải qua nhiều đợt mở rộng, kết nạp nhiều thành
viên mới (Bộ Ngoại giao Việt Nam, 2012). Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay EU
có 28 quốc gia thành viên. Sau đây là danh sách 28 quốc gia thành viên của EU

được xếp theo năm gia nhập:
1952: Bỉ, Đức, Italy, Luxembourg, Pháp, Hà Lan
1973: Đan Mạch, Ireland, Anh
1981: Hy Lạp
1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển
2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia,
Malta, Cộng hòa Síp
2007: Romania, Bulgaria
2013: Croatia (European Environment Agency, 2012)
EU có trụ sở được đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ với diện tích là 4.422.773
km² và dân số khoảng 500 triệu người, chiếm 7,3% dân số toàn thế giới. EU hiện là
nền kinh tế lớn nhất thế giới, GDP năm 2011 đạt 17,57 nghìn tỉ USD, thu nhập bình
quân đầu người toàn EU đạt 32,900 USD/năm (Chính phủ, 2012).
EU và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
28/11/1990. Năm 1996, EU mở Phái đoàn Đại diện thường trực tại Hà Nội, đặt nền
móng cho sự phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu trong mối quan hệ của hai bên.
Kể từ đó, EU trở thành một trong những đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, thương mại, đầu tư, đóng góp tích cực vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Thương mại là trụ cột quan trọng trong quan hệ Việt Nam – EU. EU hiện là
một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch thương
mại hai chiều tăng trung bình 15–20%/năm và là thị trường XK lớn thứ 2 của nước
ta sau Mỹ. Quan hệ thương mại giữa nước ta và EU hiện chiếm đến 75% kim ngạch
xuất khập khẩu với khu vực châu Âu. Trong giai đoạn 2000 – 2010, kim ngạch
thương mại hai chiều đã tăng 4,3 lần từ mức 4,1 tỷ USD năm 2000 lên 17,75 tỷ
13
USD năm 2010 (và khoảng 24,29 tỷ USD năm 2011). Một số mặt hàng XK chủ lực
của Việt Nam vào EU là giày dép, may mặc, thủy sản, đồ gỗ, điện tử, hàng tiêu
dùng. Việt Nam nhập từ EU chủ yếu là các loại máy móc thiết bị, tân dược, hóa

chất, phương tiện vận tải (Chính phủ, 2012).
1.2.2. Đặc điểm thị trường thủy sản EU
1.2.2.1. Quy mô thị trường
EU là một thị trường rộng lớn với nhu cầu tiêu thụ thủy sản rất cao. Theo
Hiệp hội Các nhà Chế biến và Kinh doanh thủy sản EU (AIPCE – CEP), năm 2011,
quy mô thị trường thủy sản EU (gồm sản xuất và nhập khẩu cá thịt trắng, cá hồi, cá
ngừ, các loài cá nổi, surimi, tôm và mực – bạch tuộc) đạt khoảng 14,7 triệu tấn.
Mức độ phụ thuộc của EU vào nhập khẩu thủy sản là 65%. Nguồn cung cá thịt trắng
khai thác tại EU đạt 2,9 triệu tấn, chiếm 20% thị phần thủy sản tại EU. Mức độ phụ
thuộc vào cá thịt trắng khai thác của EU rất cao vào khoảng 90% (Ngọc Thủy –
Ngọc Hà dịch, 2013). Ngay cả khi thương mại giữa các nước bị chặn thì EU vẫn là
một thị trường lớn nhất với 27% tổng nhập khẩu thủy sản, trị giá gần 16 tỷ Euro
(Trung Đông, 2010).
Biểu đồ 1.1: Sản lượng và giá trị thủy sản nhập khẩu toàn cầu năm 2009

(Nguồn: FAO – Fishcomm.)
Dựa vào biểu đồ trên ta dễ dàng thấy được, EU là thị trường nhập khẩu thủy
sản lớn nhất thế giới vào năm 2009, về sản lượng, EU bỏ xa hai cường quốc Mỹ và
Nhật Bản, về kim ngạch, giá trị nhập khẩu thủy sản của EU trong năm này vượt qua
cả phần còn lại của thế giới. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, Italy và Anh là
EU
32%
USA
7%
Nhật
8%
Thế
giới
53%
Sản lượng

EU
40%
USA
14%
Nhật
14%
Thế
giới
32%
Giá trị
14
những thị trường nhập khẩu chính, giá trị nhập khẩu thủy sản của những nước này
hàng năm vượt trên 1 tỷ USD, chiếm gần 80% giá trị nhập khẩu thủy sản của EU.
Tuy nhiên, phần lớn sản phẩm thủy sản được nhập khẩu từ nội bộ khối là chính.
Ngoài ra, để bổ sung một số sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ, chủ yếu là các sản
phẩm thủy sản nước ấm, EU cũng nhập khẩu thủy sản từ hơn 180 nước khác trên
thế giới. Trong đó nổi bật là Na Uy, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ.
Nhiều năm liền, Thái Lan luôn đi trước Việt Nam về sản lượng XK sang EU. Tuy
nhiên năm 2008 Việt Nam đã vượt mặt Thái Lan trong XK thủy sản vào thị trường
EU. Như vậy, có thể thấy hàng thủy sản của Việt Nam XK sang thị trường EU phải
cạnh tranh nhiều với các nước ở các châu lục khác nhau trong đó có những người
bạn láng giềng Trung Quốc và Thái Lan (hai nước XK thủy sản lớn của thế giới).
Sở dĩ, các nước EU phải nhập khẩu một lượng thủy sản lớn như vậy là do
nguồn cung trong khu vực (kể cả đánh bắt và nuôi trồng) không đủ để đáp ứng nhu
cầu quá cao của người dân EU.
Bảng 1.1: Tổng sản lượng thủy sản đánh bắt và nuôi trồng của EU
giai đoạn 1995 – 2010
Đơn vị: Tấn
1995 2000 2005 2010
EU-27

9.253.885 8.187.779 6.901.897 6.203.459
(Nguồn: Eurostat, 2012)
Từ năm 1995 đến năm 2010, sản lượng thủy sản sản xuất được ở EU-27
giảm dần, mặc dù vào 5 năm cuối, mức giảm không mấy rõ rệt. Năm 2010, tổng sản
lượng thủy sản đánh bắt và nuôi trồng được ở EU-27 thấp hơn 33% so với năm
1995, trong đó, ba quốc gia thành viên (Đan Mạch, Tây Ban Nha và Anh) chiếm
43% tổng thủy sản sản xuất được trong năm 2010.
Hiện nay, các nước EU chỉ có khả năng đáp ứng khoảng 35% nhu cầu tiêu
thụ thủy sản của người dân. Sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế xã hội là một
trong những nguyên nhân dẫn đến nhu cầu cầu thủy sản của EU không ngừng tăng
cao hằng năm. Năm 2012, dân số EU khoảng 504 triệu người. Theo dự đoán của
Eurostat, vào năm 2015, con số này sẽ tăng lên xấp xỉ 508 triệu (tăng thêm 4,6 triệu
người). Ước tính lượng thủy sản trung bình mỗi người dân Châu Âu tiêu thụ là 22,1
15
kg/năm (số liệu năm 2007), do đó, nhu cầu thủy sản sẽ tăng thêm tổng cộng
100.000 tấn trong 3 năm tới (Ngọc Thủy – Ngọc Hà dịch, 2013).
Bảng 1.2: Ước lượng mức tiêu thụ thủy sản trung bình của các nước EU
từ năm 1989 đến năm 2030
Đơn vị: kg/người/năm
2005 2010 2015 2020 2025 2030
EU-27
22 22 23 23 24 24
(Nguồn: Pierre Failler - FAO, 2007) (chi tiết xem thêm phụ lục 1)
Mức tiêu thụ thủy sản tính trên đầu người hiện nay của EU-27 là 22
kg/người/năm, như vậy toàn khối sẽ tiêu thụ hết khoảng 11 triệu tấn thủy sản/năm.
Các nước Trung và Đông Âu chỉ tiêu thụ khoảng 15 kg/người/năm và các nước
thuộc Tây Bắc Âu tiêu thụ nhiều hơn, khoảng 15-30 kg/người/năm, trong khi đó các
nước Nam Âu lại tiêu thụ thủy sản ở mức cao, 40-60 kg/người/năm.
Tiêu thụ thủy sản ở các nước EU có sự khác biệt lớn, chỉ với 5 thành viên có
mức tiêu thụ nhiều nhất đã chiếm khoảng hơn 70% sản lượng thủy sản tiêu thụ tại

EU (2010). Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha hiện là hai quốc gia dẫn đầu trong khả
năng tiêu thụ thủy sản tính theo đầu người với các con số lần lượt là 39
kg/người/năm và 59 kg/người/năm. Trong tương lai, theo dự đoán của FAO, mức
tiêu thụ này ở Tây Ban Nha có xu hướng giữ nguyên, tuy nhiên ở Bồ Đào Nha lại
giảm 2 kg/người/năm vào năm 2030.
Các nước trung tâm EU không có truyền thống ăn thủy sản do hầu hết các
nước này không có đường bờ biển. Do đó họ không có quen với mùi vị thủy sản.
Ngược lại, các nước thuộc vùng Địa Trung Hải (Ý, Tây Ban Nha, Malta,…) và các
nước Bắc Âu (Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch) là những thị trường tiêu thụ thủy sản
chính.
Người tiêu dùng EU có truyền thống ẩm thực khác nhau và thị hiếu tiêu dùng
về chủng loại thủy sản cũng khác nhau. Do đó, để thỏa mãn tất cả các nhu cầu này
là một yêu cầu hết sức khó khăn. Thêm vào đó, các nước EU ngày càng đưa ra
nhiều biện pháp hạn chế đánh bắt thủy sản nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản đã nằm
dưới giới hạn an toàn sinh học. Chỉ một phần nhu cầu tiêu thụ của EU được ngành
nuôi trồng thủy sản đáp ứng. Nguồn thủy sản để cung cấp cho nhu cầu ngày càng
16
tăng của người dân đã đặt ra yêu cầu đối với biện pháp tăng nhập khẩu.
Biểu đồ 1.2: So sánh sản lượng thủy sản đánh bắt và sản lượng thủy sản tiêu
thụ ở EU giai đoạn 1989 – 2007

(Nguồn: European Environment Agency, 2012)
Từ biểu đồ trên, có thể thấy, vào giai đoạn cuối những năm 90, sản lượng
thủy sản tiêu thụ ở EU tăng giảm không ổn định, nhưng với chiều hướng đi lên.
Trong khi đó, ngược lại, sản lượng đánh bắt lại giảm một cách đáng kể, điều này đã
dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung thủy sản ở EU, là cơ hội lớn cho các
nước đẩy mạnh XK thủy sản sang EU.
Biểu đồ 1.3: Cơ cấu khu vực nhập khẩu thủy sản vào EU năm 2011

(Nguồn: Eurostat)

5000
6000
7000
8000
9000
10000
1985 1990 1995 2000 2005 2010
năm
EU-27 Sản lượng tiêu thụ
EU-27 Sản lượng đánh bắt
Mỹ
Latin &
vùng
Ca-ri-

15,81%
Đông
Nam Á
29,83%
Châu
Phi
11,61%
EEA
27,36%
Khu
vực
khác
15,38%
Sản lượng
Mỹ

Latin &
vùng
Ca-ri-

14,92%
Đông
Nam Á
27,39%
Châu
Phi
13,77%
EEA
28,32%
Khu
vực
khác
15,60%
Giá trị
Nghìn tấn
17
Trong những năm gần đây, số lượng thủy sản nhập khẩu vào EU từ những
nước đang phát triển ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Vào năm 2011, sản lượng thủy
sản nhập khẩu vào EU có xuất xứ từ Đông Nam Á chiếm tỷ trọng lớn nhất
(29,38%). Từ đây, có thể thấy EU là thị trường lớn và đầy tiềm năng cho các DN
XK thủy sản của Việt Nam.
1.2.2.2. Thị hiếu người tiêu dùng
Ngoài việc chú trọng vào sự tinh tế, hài hòa trong các món ăn của mình,
người EU còn đặc biệt quan tâm đến vấn đề sức khỏe và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Khi chọn mua bất kì sản phẩm thủy sản nào, yếu tố quan trọng hàng đầu là vấn đề
chất lượng, an toàn vệ sinh, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm và mức độ thân thiện

với môi trường. Người tiêu dùng EU đặc biệt chú trọng đến thông tin sản phẩm
được thể hiện trên bao bì, nhãn mác. Các mặt hàng thủy sản có đóng dấu bảo đảm
vệ sinh an toàn thực phẩm và dán nhãn sinh thái nhằm đảm bảo sản phẩm thủy sản
được khai thác hoặc nuôi trồng một cách an toàn và không gây hại đến môi trường
được người dân EU rất ưa chuộng.
Bảng 1.3: Cơ cấu mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào EU giai đoạn 2001 – 2011
Đơn vị: %
Năm 2011

2001 - 11

2001 - 06

2006 - 11

Cá sống (0301)
0.1 -15,92 -11,64 -4,85
Cá tươi (0302)
15,28 34,92 24,07 8,74
Cá đông lạnh (0303)
13,79 -15,73 -12,71 -3,47
Cá phi-lê (0304)
27,98 43,34 30,93 9,48
Cá sấy khô và muối (0305)
3,33 -3,38 -8,06 4,6
Động vật giáp xác (0306)
10,22 40,09 44,39 -2,97
Động vật thân mềm (0307)
11,32 11,09 27,74 -10,94
Cá đã qua chế biến (1604)

13,38 24,29 31,42 -5,43
Động vật giáp xác và động vật
thân mềm đã qua chế biến
(1605)
4,59 94,47 40,85 38,07
(Nguồn: Eurostat-Market in EU JMFP)(chi tiết xem chú thích phụ lục 2)
18
Từ năm 2001 đến năm 2011, thị hiếu tiêu dùng về chủng loại sản phẩm thủy
sản nhập khẩu của người dân EU có sự thay đổi đáng kể, hai sản phẩm có tỷ trọng
tăng vượt bậc so với năm 2001 là cá tươi (0302) và phi-lê cá (0304). Đối với mặt
hàng phi-lê cá (0304), tỷ trọng sản phẩm năm 2011 tăng 40,09% so với năm 2001,
chiếm 27,98% cơ cấu sản phẩm thủy sản nhập khẩu năm 2011. Còn với cá tươi
(0304), trong giai đoạn 2001 – 2011, mặt hàng này đã tăng 34,92%, chiếm 15,28%
cơ cấu sản phẩm thủy sản nhập khẩu năm 2011. Trong khi đó, tỷ trọng mặt hàng cá
đông lạnh và cá sống lại giảm mạnh, xấp xỉ 15% đối với cả hai mặt hàng, đến năm
2011, tỷ trọng của cá đông lạnh và các sống lần lượt là 13,79% và 0,1%. Sở dĩ có sự
thay đổi này là do, dân số EU hiện chiếm tỷ lệ lớn là dân số già, nhóm người tiêu
dùng này có xu hướng lựa chọn thực phẩm an toàn và có lợi cho sức khỏe, đặc biệt
là những sản phẩm tươi đã được làm sạch. Họ yêu cầu sản phẩm phải được kiểm
soát gắt gao về khía cạnh vệ sinh an toàn. Ngoài ra, nhóm người này chấp nhận trả
một mức giá cao cho thực phẩm sử dụng miễn là chất lượng phù hợp với yêu cầu.
Bên cạnh đó, nhu cầu về thực phẩm chế biến cũng tăng nhanh, do đa số phụ nữ EU
rất bận rộn với công việc bên ngoài, họ có rất ít thời gian cho việc chuẩn bị bữa ăn
hằng ngày nên có thói quen sử dụng những thực phẩm tiện lợi, vì thế, thị trường các
sản phẩm tiện lợi, ăn liền ngày càng phát triển, đòi hỏi thời gian chế biến tối thiểu
và hương vị quen thuộc như thực phẩm chế biến tại gia. Xu hướng tiêu dùng thủy
sản hiện nay tại EU đặt nặng vấn đề sức khỏe, tiện lợi và đa dạng, vì thế, những sản
phẩm được ưa chuộng hiện nay đều cố gắng đáp ứng được các tiêu chí này của
người tiêu dùng EU.
1.2.2.3. Phân nhóm thị trường thủy sản EU

Theo khu vực
 Nhóm nước thị trường Bắc Âu, bao gồm Anh, Hà Lan và các nước vùng
Xcăng-đi-na-vơ. Các nước Bắc Âu đều nằm ven biển, sở hữu nguồn hải sản tự
nhiên tương đối phong phú, lại có thế mạnh về đánh bắt hải sản nên các nước này
là những nước chuyên XK hải sản, đặc biệt là tôm nước lạnh. Tuy nhiên, thị trường
này cũng nhập khẩu tôm nhưng chủ yếu nhằm đa dạng hóa chủng loại tôm tiêu
dùng trong người dân. Những nước này nhập khẩu từ châu Á rất ít do sức tiêu thụ
thấp. Một số sản phẩm ưa dùng tại Bắc Âu: cá trích, cá thu, cá minh thái, cá tuyết,
19
cá mình dẹt và cá hồi nước ngọt
 Nhóm nước khu vực Địa Trung Hải (Ý, Tây Ban Nha,…) chuộng các loại
nhuyễn thể bao gồm các loại nhuyễn thể chân đầu (mực, bạch tuộc) và nhuyễn thể
hai mảnh vỏ (ốc, hến, sò,…).
 Nhóm nước còn lại có xu hướng thích các sản phẩm như cá chỉ vàng, cá ngừ
và tôm
Thời gian gần đây, các sản phẩm cá nước ngọt như cá tra, cá basa, cá rô
phi… đã xuất hiện và dần chiếm lĩnh thị trường EU. Khách hàng EU tỏ ra ưa thích
những sản phẩm này, do đó, hi vọng trong tương lai những sản phẩm cá nước ngọt
sẽ có một vị trí đáng kể trên thị trường EU.
Theo nhóm tuổi
Ðộ tuổi của người tiêu dùng cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng hành vi tiêu dùng các sản phẩm thủy sản. Ở nhiều nước EU, những người
thuộc độ tuổi trên 50 tiêu thụ thủy sản nhiều nhất. Nhóm người này cũng ưa chuộng
và chọn mua nhiều sản phẩm tươi và nguyên con so với nhóm người trẻ tuổi hơn.
Theo dạng sản phẩm
Bao gồm các sản phẩm theo phương thức bảo quản sản phẩm tươi hoặc ướp
lạnh, đông lạnh; hoặc chế biến sẵn và dạng sản phẩm được chế biến như nguyên
con, phi-lê, cắt miếng, sơ chế, ăn liền
1.2.2.4. Kênh phân phối thủy sản tại thị trường EU
Kênh phân phối ở các nước EU rất khác nhau, nhưng mang một số đặc điểm

chung. Ở tất cả thị trường, hệ thống phân phối thủy sản hầu hết tập trung vào các
nhà nhập khẩu, nhà phân phối, nhà bán buôn, cũng như nhà môi giới thực phẩm, đại
lý và nhà bán lẻ, mỗi kiểu phân phối có những đặc trưng và kinh nghiệm riêng. Tuy
nhiên, số lượng các liên kết trong chuỗi cung ứng hiện đang giảm dần. Nguyên
nhân chính là do ngành hậu cần trong thương mại thủy sản ngày một phát triển,
mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành ngày càng khốc liệt đã đẩy những nhà cung
ứng yếu kém ra khỏi cuộc chơi.
Bốn loại hình chủ chốt trong kênh phân phối thủy sản ở EU bao gồm:
 Nhà nhập khẩu: là đơn vị tổ chức mua và bán thủy sản phần lớn cho các công
ty chế biến, nhà bán buôn, bán lẻ và tái XK. Thông thường những nhà nhập khẩu

×