§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
LỜI NÓI ĐẦU
Hoàn toàn không quá lỗi khi nhận định. Nếu không có tín dụng thì chẳng
có đường sắt ở châu Âu cũng như các công trình to lớn khác. Thật thế, tín
dụng ra đời như một tất yếu lịch sử, nó đánh dấu bước tiến vĩ đại trong sản
xuất và lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Nó giúp cho quá trình sản xuất được
thông suốt, giúp tích tụ vốn cho phát triển kinh tế, nhờ đó tạo những biến
chuyển đáng kinh ngạc. Sự phát triển không ngừng của các hình thức tín dụng
là minh chứng hùng hồn cho sự cần thiết của nó.
Ta hãy nhìn lại, trong thời kỳ bao cấp ở nước ta. Tín dụng vừa đơn điệu
về loại hình, vừa cồng kềnh về tổ chức lại không phát huy được vai trò của nó
với nền kinh tế. Mặc dù từ năm 1990, chúng ta đã có những xem xét sửa đổi
song nó vẫn chưa đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, củng cố và hoàn
thiện hệ thống tín dụng là thử thách đặt ra không chỉ với ngành Tài chính -
Ngân hàng mà còn là đối với cả đất nước.
Trong khuôn khổ đề án môn học, em chỉ xin đi vào một loại hình tín
dụng tiêu biểu - Tín dụng thương mại (TDTM). Đây là hình thức tín dụng ra
đời rất sớm và do những ưu thế riêng có, nó vẫn càng ngày càng được ưa
chuộng. Lúc đầu TDTM chỉ đơn giản là mối quan hệ mua bán chịu giữa
những người sản xuất kinh doanh với nhau trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, dần
dà nó phải hiểu sâu hơn và lợi ích của các bên được bảo đảm hơn. Riêng ở
Việt Nam, TDTM tồn tại ở khắp nơi song do một số lý do, đến nay nó vẫn
chưa được thừa nhận chính thức, gây nên những trở ngại không đáng có cho
người kinh doanh. Điều này đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để khắc
phục. Với mong muốn góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước em xin chọn
đề tài “Tín dụng thương mại và triển vọng ở Việt Nam”. Sau đây là nội dung
chính của đề tài:
- Tìm hiểu chung về TDTM
- Thực trạng ở Việt Nam
- Lựa chọn đối nghịch và biện pháp khắc phục.
1
§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
I/ TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI - MỘT VẤN ĐỀ CÒN GÂY NHIỀU TRANH CÃI
1. Vài nét về tín dụng thương mại
Tín dụng nói chung là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latin, đó là
“Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Ngay với ý nghĩa ban đầu này
nó cũng nói lên phần nào bản chất của tín dụng ngày nay. TDTM (Tradi
Credit) là một loại hình tín dụng giữa những người sản xuất kinh doanh với
nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Việc đặt tiền trước
cho người cung cấp mà chưa lấy hàng cũng là hình thức TDTM vì người mua
cho người bán tạm thời sử dụng vốn của mình.
TDTM khác với tín dụng Ngân hàng (TDND - bank - credit) mà cũng
khác với tín dụng tiêu dùng (TDTD) vì TDTM có đối tượng là hàng hóa trong
khi đối tượng của TDNH là tiền tệ. Do đó nó có ưu thế hơn TDNH ở chỗ tiết
kiệm thời gian và chi phí giao dịch với Ngân hàng. Thêm nữa, nhờ tính trừu
tượng, TDTM được ưa thích hơn ở chỗ người sử dụng nó không phải công
khai hoạt động của họ với ngân hàng.
So với TDTD, rõ ràng TDTM ưu việt hơn vì nó tạo nguồn vốn kinh
doanh, điều có ý nghĩa hết sức lớn lao với những nước nghèo và thiếu vốn
như nước ta, khi mà TDTD tạo tâm lý tiêu dùng, giảm tiết kiệm chưa phù hợp
với điều kiện cần tích lũy như nước ta.
2. Công cụ của TDTM
Sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển, việc mua bán không thể chỉ dựa
trên lòng tin của hai bên, vì vậy thương mại ra đời và ngay lập tức nó trở
thành công cụ hữu hiệu của TDTM. Thương phiếu gồm hai loại là hối phiếu
và kỳ phiếu.
2.1. Hối phiếu (Bill of Exchange)
2.1.1. Hình thức của hối phiếu
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền với điều kiện do người bán ký
phát, yêu cầu người mua khi nhìn thấy phiếu hoặc đến một ngày cụ thể hoặc
một ngày xác định trong tương lai phải trả một số tiền cho người bán hoặc
theo lệnh của người đó trả tiền cho một người khác hoặc người cầm phiếu.
2
§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
2.1.2. Đặc điểm của hối phiếu
- Hối phiếu có tính trừu tượng. Trên hối phiếu người ta không ghi nội
dung quan hệ tín dụng hay nguyên nhân sinh ra hối phiếu mà chỉ ghi rõ số
tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý
của hối phiếu không phụ thuộc vào nội dung tín dụng vì một khi tách khỏi
hợp đồng và nằm trong tay người thứ ba thì nó trở thành một trái vụ độc lập.
Nói theo cách khác, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng.
- Hối phiếu có tính bắt buộc cao. Bình thường, người trả tiền hối phiếu
phải trả tiền vô điều kiện trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với đạo
luật chi phối nó. Một khi hối phiếu đã qua tay người thứ 3 thì người mua buộc
phải trả tiền cho hối phiếu dù người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng, không
giao hàng cho người mua. Trong trường hợp bình thường, bên trả tiền nếu
chậm trễ hoặc không chịu trả tiền sẽ bị pháp luật can thiệp và bị tuyên bố phá
sản rất nhanh.
- Hối phiếu có tính lưu thông rộng rãi. Hối phiếu có thể được chuyển
nhượng nhiều lần trong thời hạn của nó. Tính chất này có được nhờ 2 tính
chất ở trên.
2.1.3. Phân loại hối phiếu
Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia nó thành 3 loại.
- Hối phiếu trả ngay là hối phiếu mà khi người trả tiền nhìn thấy hối
phiếu này phải trả tiền ngay cho người trình phiếu.
- Hối phiếu trả tiền ngay sau một số ngày nhất định (thường từ 5 đến 7
ngày là lợi mà người trả tiền ký chấp nhận trả tiền và sau 5 đến 7 ngày thì trả
tiền cho người chủ hối phiếu.
- Hối phiếu có kỳ hạn: Sau một thời hạn nhất định có trên hối phiếu, noời
trả phải trả tiền hoặc tính từ ngày ký phát hối phiếu hoặc tính từ ngày chấp
nhận hối phiếu hay một ngày quy định cụ thể.
* Căn cứ vào chứng từ kèm theo, người ta chia hối phiếu làm 2 loại:
- Hối phiếu trơn là hối phiếu gửi đến đòi nợ không kèm theo chứng từ
hàng hóa. Trong thanh toán quốc tế, hối phiếu này được dùng để thu cước phí
3
§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
vận tải, bảo hiểm, hoa hồng hoặc đòi tiền của những thương nhân quen biêt và
tin cậy.
- Ngược lại với hối phiếu trơn là loại kèm chứng từ hàng hóa. Nó gồm 2
loại riêng là hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay, ký hiệu D/P hoặc hối phiếu
kèm chứng từ chấp nhận D/A.
* Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng, hối phiếu được chia làm 2 loại:
- Hối phiếu đích danh là loại hối phiếu ghi rõ tên người hưởng lợi. Loại
này không chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hiệu.
- Hối phiếu theo lệnh là loại hối phiếu chi trả theo lệnh của người hưởng
lợi. Nó được chuyển nhượng bằng hình thức ký hiệu. Đây là loại được dùng
rộng rãi trong thanh toán.
* Căn cứ vào người ký phát, hối phiếu được chia làm 2 loại:
- Hối phiếu thương mại là hối phiếu do người ký phát đòi tiền người
mua.
- Hối phiếu ngân hàng là loại mà ngân hàng phát hành ra, lệnh cho ngân
hàng đại lý của mình thanh toán một số tiền nhất định cho người hưởng loại
chỉ định trên hối phiếu.
2.2. Kỳ phiếu (Promissory Notes)
2.2.1. Hình thức của kỳ phiếu
Kỳ phiếu là tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người mua chịu ký
phát, hứa trả một số tiền nhất định cho người bán hoặc theo lệnh người này trả
cho một người khác quy định trong kỳ phiếu đó.
- Điều luật của kỳ phiếu tương tự như của hối phiếu song do tính thụ
động kỳ phiếu ít được dùng hơn hối phiếu.
2.2.2. Đặc điểm của kỳ phiếu
- Trên kỳ phiếu người ta phải ghi rõ kỳ hạn của nó
- Kỳ phiếu có thể do một hoặc nhiều người ký phát, cam kết trả tiền cho
một hoặc nhiều người hưởng lợi.
4
§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
- Để đảm bảo khả năng thanh toán của kỳ phiếu, nó phải được một ngân
hàng hoặc công ty tài chính nào đó bảo lãnh.
- Kỳ phiếu chỉ gồm một bản chính do người thu trái viết ra.
3. TDTM trong mối quan hệ với TDNH.
Tuy là hai hình thức tín dụng hoàn toàn khác nhau song TDTM và
TDNH lại liên quan mật thiết với nhau. Hai hình thức này bổ sung, hỗ trợ lẫn
nhau, TDTM làm lợi cho TDNH, đến lượt nó TDNH giúp cho TDTM linh
động, dễ dàng và an toàn hơn.
3.1. NHTM với việc mở L/c phục vụ TDTM quốc tế
3.1.1. L/c là gì?
L/c viết tắt của Lettes of Credit - là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng
mở L/c cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình được một bộ chứng
từ thanh toán phù hợp với nội dung L/c.
3.1.2. Các bước thực hiện
Hãy xem sơ đồ sau:
5
ExportersImporters
ExportersImporters
Purchase order
Goods shipment
Shipping documents
L/c application
L/c paid at
maturity
L/c delivered
L/c draf and shipping
documents delivered
Draft accepted
and funds remitted
L/c draft and
shipping documents
L/c notification
Payment
5
1
610
42
911
3
7
8
Process preceding creation of L/c
Process after creation of L/c
§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
- Người mua căn cứ vào hợp đồng mua hàng làm đơn xin mở một thư tín
dụng (L/c) tại một ngân hàng nhất định mà 2 bên đã thỏa thuận.
- Ngân hàng mở L/c căn cứ vào đơn xin mở L/c, mở L/c và thông báo
cho người bán biết về L/c đó rồi gửi bản chính của L/c cho người bán.
- Người bán kiểm tra kỹ nội dung của L/c, nếu hợp lệ thì chấp nhận và
tiến hành giao hàng theo L/c. Nếu không, ngân hàng sẽ dừng ngay hợp đồng.
3.1.3. Ưu và nhược điểm của TDTM quốc tế
* Ưu điểm:
- Thanh toán bằng L/c giúp cho thủ tục đơn giản, việc mua bán giữa các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhanh chóng, thuận tiện.
- Mang tính chặt chẽ và nghiêm ngặt, nhờ đó giảm rủi ro trong quá trình
buôn bán. Trong trường hợp người nhập vì một lý do nào đó không hoặc
không thể thanh toán cho người xuất khẩu, họ vẫn thu được tiền của ngân
hàng nhà nhập khẩu. Hơn nữa do hoạt động thương mại diễn ra trong phạm vi
rộng, thông tin lẫn nhau ít nhiều hạn chế, việc mở L/c ở ngân hàng nhà nhập
khẩu là một yếu tố đảm bảo khá chắc chắn vì họ nắm được tình hình tài chính
của nhà nhập khẩu.
* Nhược điểm:
- Gây rủi ro không đáng có cho nhà kinh doanh do sự ràng buộc chặt chẽ
về nội dung L/c và sự khác biệt trong pháp luật của mọi nước.
- Gây những trùng lặp tiêu cực khi một doanh nghiệp mở L/c ở nhiều
ngân hàng trong khi khả năng thanh toán của họ rất hạn chế.
3.2. Chiết khấu thương phiếu
3.2.1. Khái niệm về chiết khấu thương phiếu
Trên thế giới, chiết khấu thương phiếu đã có lịch sử khá lâu. Nó là
nghiệp vụ cổ điển nhất về huy động các khoản vay thương mại. Hiện nay,
chiết khấu thương phiếu vẫn giữ vị trí then chốt trong các nghiệp vụ của ngân
hàng bởi nó giải quyết tốt nguồn vốn kinh doanh và tương đối an toàn so với
tín dụng ứng trước. Hơn thế, lợi nhuận mang lại từ việc chiết khấu thương
phiếu rất lớn. Đó là một nghiệp vụ tín dụng, qua đó ngân hàng giao cho khách
6
§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
hàng một số tiền ghi trong thương phiếu mà không phải chờ đến ngày thanh
toán của nó.
Việc chiết khấu thương phiếu mà ngân hàng trở thành chủ sở hữu thương
phiếu thông thương phải đem lại sự hoàn trả cho ngân hàng - người chiết khấu
khoản tiền mà họ đã ứng trước: người cung cấp hàng hóa hay dịch vụ lập ra
các thương phiếu thể hiện số hàng đã cung cấp hoặc dịch vụ đã làm và
nhượng lại cho ngân hàng để được thanh toán trước hạn. Đây là công cụ tín
dụng và thanh toán mà giới kinh doanh ưa sử dụng, nó là loại tín dụng đầu
tiên mà doanh nghiệp có thể xin cấp.
Xét theo nghĩa rộng, chiết khấu là một kỹ thuật tài trợ dẫn đến việc cấp
tín dụng nhằm tái tài trợ. Với mục đích này nó được thực hiện dựa trên các
thương phiếu ký chuyển nhượng của người đi vay giao cho ngân hàng - người
cho vay. Kỹ thuật này cũng được sử dụng để tài trợ ngắn hạn, kể cả tín dụng
ngân quỹ cũng như cho các tài trợ trung và dài hạn. Như vậy chiết khấu
thương phiếu bao trùm tất cả các lãnh vực hoạt động - trừ cam kết bằng chữ
ký - và đáp ứng các nhu cầu - thực tế rất khác nhau.
Trong thực tiễn hoạt động ngân hàng, chiết khấu là nghiệp vụ qua đó
ngân hàng sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn hoặc một trái phiếu có kỳ
hạn giao số tiền tương ứng cho khách hàng sau khi trừ đi phần thù lao (lãi
suất chiết khấu) của ngân hàng. Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng vì nó
đem lại ngay cho khách hàng một số tiền mà bình thường chỉ được trả vào
ngày đáo hạn thương phiếu.
Nhìn về bản chất, chiết khấu thương phiếu không phải là khoản cho vay
vì ngân hàng không cho khách hàng vay số tiền mà khách hàng sẽ phải trả
cho ngân hàng. Ở đây ngân hàng ứng trước trị giá của thương phiếu chưa đến
hạn và đổi lại bằng việc sở hữu thương phiếu đó. Nhờ đó ngân hàng được trả
lại khoản ứng trước đây bằng cách truy đòi khi đáo hạn thương phiếu.
3.2.2. Cơ chế chiết khấu
Nghiệp vụ chiết khấu là một thỏa ước giữa khách hàng với ngân hàng có
thể chấp nhận chiết khấu từng món một hoặc cam kết trước là sẽ chiết khấu
cho các chứng từ mà khách hàng xuất trình cho đến mức tối đa nào đó trong
một thời hạn nhất định. Trường hợp này người ta gọi là tín dụng chiết khấu.
7
§Ò ¸n: Lý thuyÕt tiÒn tÖ Ng©n hµng NguyÔn Hïng ViÖt - 1905
Tuy nhiên ngân hàng cũng như một doanh nghiệp - vẫn từ chối một thương
phiếu khả nghi.
Trong hoạt động chiết khấu, ngân hàng chiết khấu trở thành chủ sở hữu
thương phiếu. Việc chuyển giao thương phiếu thường được thực hiện bằng
cách để tránh ký hiệu hoặc chỉ định ngân hàng là người thu hưởng thương
phiếu. Ngân hàng ứng cho người cầm thương phiếu sau khi tính thù lao, phần
thu này gồm nhiều loại phí và lãi suất thương phiếu.
3.2.3. Đặc điểm chiết khấu
Thông thường thương phiếu do ngân hàng xuất trình đều được thanh
toán và tín dụng được thu hồi. Tuy nhiên khi người trả tiền không hoặc không
có khả năng thanh toán, ngân hàng vẫn có vị trí pháp lý rất mạnh với 2 cách
truy đòi.
- Với tư cách là chủ sở hữu của thương phiếu, ngân hàng có thể truy đòi
theo luật thương phiếu đối với mọi người ký trên phiếu với tất cả những đảm
bảo mà điều khoản này mang lại. Đồng thời ngân hàng có quyền theo đuổi
việc thanh toán đến cùng.
- Với tư cách là người chiết khấu, ngân hàng có quyền truy đòi khách
hàng của mình vì ngân hàng chỉ giao tiền theo giá trị của thương phiếu khi
đảm bảo thu được tiền. Trường hợp rủi ro, ngân hàng có thể đòi người xin
chiết khấu. Nếu khách hàng có quan hệ tài khoản với ngân hàng, ngân hàng
đòi tiền bằng cách trừ vào tài khoản của họ.
3.2.4. Ưu nhược điểm của chiết khấu
Ta biết rằng chiết khấu làm cho khả năng lưu thông của thương phiếu
tăng lên và trở thành phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khá hữu
hiệu, có khả năng hoán chuyển cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của
doanh nghiệp cho vay.
* Chiết khấu rất bảo đảm đối với ngân hàng vì ngân hàng có những công
cụ hữu hiệu để truy đòi các khoản TDTM. Ngoài ra khi cần thiết, NHTM có
thể đem thương phiếu đến tái chiết khấu ở NHTW. Tuy vậy các ngân hàng
cùng phải đương đầu với những khó khăn sau:
Thứ nhất, chi phí quản lý thương phiếu rất cao
8