Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội, từ Đại hội VI lịch sử - đại hội mở
ra thời kỳ đổi mới, đến nay đã luôn kiên trì và không ngừng phát triển đường lối đối
ngoại đổi mới, trong đó có đối ngoại về kinh tế. Quan điểm chủ đạo của chính sách
kinh tế đối ngoại nước ta được Đảng ta khẳng định là: “Tiếp tục thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với
tinh thần Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các
nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng”.
Riêng về kinh tế, Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm
vụ: “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại chủ động, tham gia các tổ chức quốc tế và khu
vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế”. Đại hội IX tiếp tục
khẳng định: “Phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Nghị
quyết 7 của Bộ Chính trị khóa IX một lần nữa khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng, ta nhận thấy việc hội nhập kinh tế quốc
tế là điều tất yếu khách quan. Hơn nữa, việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế, xã hội của một quốc gia đi lên, và quan trọng là sẽ có nhiều cơ
hội thu hút đầu tư từ nước ngoài đổ vào, đặc biệt là những nước còn chậm phát triển.
Việt Nam ngoài những thuận lợi đáng kể về mặt vị trí địa lý, tự nhiên, chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội thì việc là thành viên của ASEAN, APEC và WTO thì việc hội
nhập kinh tế quốc tế và thu hút đầu tư là cần thiết. Qua thực tiễn 15 năm đổi mới, đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta gồm 5 thành
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
phần: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đà Nẵng là thành phố nằm ở trung độ của đất nước, nằm trên trục đường chính
Bắc - Nam về đường bộ (Quốc lộ 1A), đường biển và đường hàng không. Bên cạnh đó
là một tiềm năng du lịch đáng kể với danh lam thắng cảnh hùng vĩ, những bãi biển đẹp
mơ mộng quyến rũ, gần kề với những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng như Cố đô
Huế, phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn… Tháng 9 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ
đã ký quyết định thành lập vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh và thành
phố: Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định nhằm phát
huy tiềm năng, vị trí địa lý và các lợi thế so sánh của vùng, từng bước phát triển vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung thành một trong những vùng phát triển năng động của
cả nước. Trong đó, Đà Nẵng được xác định là thành phố đóng vai trò hạt nhân tăng
trưởng, tạo động lực thúc đẩy phát triển cho cả khu vực miền Trung và Tây Nguyên;
để làm được điều đó Đà Nẵng phải phát triển nhanh và mạnh và bền vững về mọi mặt.
Tất nhiên, điều này phụ thuộc rất lớn vào con người, cơ sở vật chất và trình độ khoa
học công nghệ của thành phố, nhưng một yếu tố quan trọng không thể thiếu đó là
nguồn vốn để phát triển. Có thể nói trong thời gian qua Đà Nẵng đã thu hút được rất
nhiều lượng vốn đầu tư, đặc biệt là từ nước ngoài. Đầu tư nước ngoài sẽ giúp thành
phố Đà Nẵng bổ sung vốn đầu tư, tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật cao, tiên tiến, tạo việc
làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách và thúc đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính nhờ nguồn vốn phong phú này và sự nổ
lực của ban lãnh đạo cũng như toàn dân thành phố cùng với những tiềm năng phong
phú mà Đà Nẵng đã có sự chuyển mình rất đáng kể trong thời gian qua. Và từ đó việc
thu hút đầu tư nước ngoài đã trở thành một trong những mục tiêu quan trọng trong
chiến lược phát triển KT - XH của thành phố Đà Nẵng. Hơn nữa, hoạt động của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm cho tình hình kinh tế có sự
chuyển biến mạnh mẽ với sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, giữa các thành phần
kinh tế; giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên,
trong hoạt động thu hút và quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vẫn còn những hạn chế, yếu kém; trong đó công tác QLNN cũng là một nguyên
nhân quan trọng. Là một đứa con được sinh ra và lớn lên tại Đà Nẵng, SVTT cũng
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
mong muốn đóng góp chút sức mình vào công cuộc đổi mới của thành phố. Chính vì
thế SVTT chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là “Quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”
nhằm tìm ra các nguyên nhân gây ra tình trạng hạn chế, yếu kém của công tác QLNN
và một số giải pháp để khắc phục tình trạng trên, từ đó sẽ tạo nên động lực lớn cho
việc thu hút FDI và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại thành phố trong tương lai.
2. Mục đích nhiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm:
- Trình bày cơ sở lý luận, khoa học và thực tiễn về doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, khẳng định vai trò của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh
tế; nêu lên sự cần thiết khách quan QLHCNN đối với loại hình doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay.
- Nêu hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng và đánh giá thực trạng hoạt động QLNN đối với các doanh
nghiệp đó, các thành tựu đạt được, một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục và chỉ ra
các nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém đó.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
QLNN đối với các doanh nhiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
b. Khách thể nghiên cứu:
Các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
c. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn 2000 - 2009.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 3
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cùng các phương pháp như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống
kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, quan sát và với thực tiễn QLNN của Đà Nẵng về
thu hút FDI và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để
nghiên cứu đề tài.
5. Đóng góp của đề tài:
Đề tài cung cấp cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài, quản lý nhà nước
đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, đề tài phân tích thực trạng QLNN đối với việc thu
hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó đề tài đề xuất các giải pháp cụ thể như sau:
- Quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch, chuẩn bị sẵn quỹ đất để thu hút
đầu tư hiệu quả, không làm nản lòng các nhà đầu tư.
- Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, chính sách theo hướng kích cầu đầu tư
cởi mở, thông thoáng.
- Cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian phê duyệt, thẩm định các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao.
- Chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất tốt nhất để tiếp đón nhà đầu tư.
- Tập trung nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư.
- Tổ chức bộ máy QLNN về đầu tư theo hướng đơn giản, hiệu quả.
- Kết hợp kiểm tra định kỳ và đột xuất để chấn chỉnh hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp, kịp thời phát hiện các sai phạm để có những phương
hướng khắc phục.
6. Bố cục
Đề tài gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 4
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
- Chương II: Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Chương III: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 5
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Lý luận QLNN và sự cần thiết của QLNN đối với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Lý luận QLNN nói chung
Có nhiều khái niệm khác nhau về thuật ngữ “quản lý”. Theo bản thân SV thì
“quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng những
phương tiện khác nhau nhằm đạt được mục tiêu nhất định”.
Nhà nước là thiết chế quyền lực công, đại diện cho toàn thể nhân dân quản lý
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhà nước có những quyền lực đặc biệt, nắm trong tay
những công cụ quản lý đặc biệt, đảm bảo thực hiện quyền lợi của giai cấp thống trị và
quyền lợi của toàn xã hội. Vì vậy, có thể định nghĩa quản lý nhà nước như sau:
“Quản lý Nhà nước là tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước
bằng nhiều biện pháp tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện những chức năng của
nhà nước trên cơ sở pháp luật”.
1.1.2 Lý luận QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư nước ngoài (đầu tư quốc tế) là một hình thức của đầu tư, từ đó xuất khẩu
tư bản, đưa tư bản ra nước ngoài kinh doanh, một hình thức quan hệ kinh tế quốc tế,
qua đó tư bản của nước này di chuyển qua nước khác nhằm mục đích trực tiếp kinh
doanh thu lợi nhuận. Ngoài ra còn có các hình thức viện trợ cho vay, viện trợ không
hoàn lại không nhằm mục đích kinh doanh.
Đầu tư quốc tế chủ yếu gồm các hình thức: đầu tư một chiều như viện trợ không
hoàn lại; đầu tư tín dụng không có lãi hoặc lãi nhẹ; đầu tư có tính chất công như: đầu
tư của Chính phủ, các tổ chức quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 6
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
phủ; đầu tư có tính chất là đầu tư của các tổ chức tư và tư nhân; đầu tư hỗn hợp có cả
tính chất công và tư; đầu tư nhiều bên…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo quan điểm vĩ mô là chủ đầu tư trực tiếp đưa
vốn và kỹ thuật và nước nhận đầu tư, thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ
sở thuê mướn, khai thác các yếu tố cơ bản ở nước sở tại như tài nguyên, sức lao động,
cơ sở vật chất…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo quan điểm vi mô là chủ đầu tư đóng góp một
số vốn lớn đủ để họ trực tiếp tham gia vào việc quản lý, điều hành đối tượng bỏ vốn.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), đầu tư trực tiếp nước ngoài là
hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách
thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền
quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đưa ra cách hiểu như sau: đầu tư trực tiếp
nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài
sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương
diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Tiêu thức phân biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với các hoạt động đầu tư nội địa
thường tập trung vào các đặc trưng sau:
- Về vốn góp: các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu theo
quy định của mỗi nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối quản
lý quá trình sản xuất kinh doanh.
- Về quyền điều hành, quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền
điều hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người
quản lý.
- Về phân chia lợi nhuận: Dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ đều được
phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp.
Do đó, có thể định nghĩa khái quát đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư
trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông
qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư đồng thời trực
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 7
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ
công nghệ, kinh nghiệm quản lý… nhằm mục đích thu lợi nhuận”.
b. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Chính phủ Việt Nam
đã cấp giấy phép cho nhiều loại hình đầu tư. Tuy nhiên có các loại hình đầu tư trực
tiếp nước ngoài thường gặp đó là: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business
Cooperation Contact - BCC); Doanh nghiệp liên doanh (Join Venture Enterprise - JVE);
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài (Enterprise with one hundred percent
foreign owned capital); Hợp đồng liên doanh; Hợp đồng phân chia sản phẩm
(Production Sharing Contract - PSC); Hình thức đầu tư thuê thiết bị
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contact - BCC):
Là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh
được ký kết giữa hai bên hay nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt
động kinh doanh tại nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không thành lập một xí nghiệp liên
doanh hoặc pháp nhân mới.
- Doanh nghiệp liên doanh (Join Venture Enterprise - JVE):
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành
lập gọi là doanh nghiệp liên doanh - là doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở liên
kết của các doanh nghiệp trong và ngoài nước theo luật pháp của nước chủ nhà; các
bên tham gia liên doanh sẽ chịu trách nhiệm lẫn nhau trong phạm vi phần vốn góp của
mình vào liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Enterprise with one hundred
percent foreign owned capital):
Là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ
nhà, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do nhà đầu tư nước ngoài tự
quản lý, điều hành và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Loại hình này
thường đầu tư vào khu chế xuất hoặc khu công nghiệp, thời hạn hoạt động kéo dài,
khoảng 50 đến 70 năm.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 8
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
- Hợp đồng liên doanh:
Là văn bản ký kết giữa các bên Việt Nam và bên nước ngoài để thành lập doanh
nghiệp liên doanh tại Việt Nam.
+ Hình thức đầu tư BOT (Built - Operate - Transfer): Hợp đồng xây dựng -
kinh doanh - chuyển giao: Là hình thức hợp đồng giữa chủ đầu tư (nhà thầu) và các cơ
quan Nhà nước (của nước sở tại) có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó
nhà thầu bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian nhất định
đủ để thu hồi vốn và có lợi nhuận thỏa đáng; sau đó chuyển giao công trình cho nước
chủ nhà mà không đòi bồi hoàn.
+ Hình thức đầu tư BTO (Built - Transfer - Operate): Hợp đồng xây dựng -
chuyển giao - kinh doanh: là hình thức đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước sở
tại, Chính phủ nước sở tại sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó
trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
+ Hình thức đầu tư BT (Built - Transfer): Hợp đồng xây dựng - chuyển giao: là
hình thức đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước của nước sở tại,
Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác
để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
- Hợp đồng phân chia sản phẩm (Production Sharing Contract - PSC):
Hợp đồng này quy định nhà đầu tư nước ngoài bỏ 100% vốn để tìm kiếm, thăm
dò và khai thác tài nguyên trên nước sở tại. Nếu tìm và khai thác được sản phẩm thì
thỏa thuận phân chia sản phẩm theo nguyên tắc:
Nước chủ nhà được hưởng tỷ lệ lớn hơn chủ đầu tư trong tổng số tiền bán sản
phẩm đối với mỏ có trữ lượng lớn, thời gian khai thác dài; và hưởng tỷ lệ nhỏ hơn chủ
đầu tư trong tổng số tiền bán sản phẩm đối với mỏ có sản lượng nhỏ, thời gian khai
thác ngắn.
Nếu không tìm thấy sản phẩm hoặc không đủ sản lượng công nghiệp để khai
thác thì nhà đầu tư phải chịu 100% rủi ro.
- Hình thức đầu tư thuê thiết bị: bao gồm thuê vận hành và thuê tài chính.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 9
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
+ Thuê vận hành: là hình thức đầu tư nước ngoài trong đó nhà đầu tư cho nước
sở tại thuê thiết bị hiên đại. Tiền thuê thiết bị được tính theo sản lượng sản phẩm làm
ra trên thiết bị đó. Phía nước ngoài hướng dẫn kỹ thuật và sáng tạo mẫu mã, cùng lo
tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước. Hình thức này hiện đang được áp dụng
phổ biến tại các nước chậm và đang phát triển.
+ Thuê tài chính: là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua mua máy
móc - thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc - thiết bị và
động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên
thuê sử dụng tài sản thuê và không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc
thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục mua lại tài
sản đó theo các điều kiện đã được thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
Ngoài ra còn có một số hình thức khác chưa thông dụng tại Việt Nam như:
- Hình thức đầu tư LDO (Lease - Develop - Operate): Cho thuê - Nâng cấp -
Kinh doanh công trình:
Nhà nước sở tại cho thuê công trình; nhà thầu nâng cấp và khai thác, kinh doanh
công trình trong thời hạn nhất định, sau đó chuyển giao cho nước chủ nhà.
- Hình thức đầu tư BLT (Built - Lease - Transfer): Hợp đồng xây dựng - Cho
thuê - Chuyển giao:
Chủ thầu xây dựng và cho thuê công trình trong một thời hạn nhất định, sau đó
chuyển giao cho nước chủ nhà.
c. QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
“Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài là tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước bằng nhiều biện pháp
tới các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động thu hút đầu tư
nước ngoài nhằm thực hiện những chức năng của nhà nước trên cơ sở pháp luật”.
Công tác QLNN đã tạo ra một trật tự nhất định và sự ổn định cho các đối tượng
mà nó quản lý, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đưa
các đối tượng đó vào một quy luật vận động chung dưới sự kiểm soát của pháp luật và
các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo cho các hoạt động này diễn ra theo đúng quy
định của pháp luật về đầu tư, hoạt động của doanh nghiệp và phù hợp với định hướng
chung trong phát triển kinh tế - xã hội.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
1.1.3. Sự cần thiết khách quan của QLNN đối với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình đặc thù,
nó có những đặc điểm chung của kinh tế đối ngoại. Chính vì thế, nói đến sự cần thiết
khách quan của QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh
nêu ra sự cần thiết khách quan của QLNN đối với các doanh nghiệp thì còn cần phải
nói đến sự cần thiết khách quan của QLNN đối với kinh tế đối ngoại.
Nhà nước phải quan tâm đến các doanh nghiệp, vì những lý do cụ thể sau:
Thứ nhất, tính chất giai cấp, tính chất dân tộc trong các doanh nghiệp có lao
động làm thuê và có tư bản nước ngoài. Trong hệ thống các doanh nghiệp hiện nay có
hai loại doanh nghiệp thuộc loại có vấn đề nói trên, đó là doanh nghiệp tư bản dân
doanh và doanh nghiệp của tư bản nước ngoài. Trong các doanh nghiệp này, quan hệ
chủ - thợ, quan hệ chủ nước ngoài - thợ bản xứ là vấn đề chính trị. Vấn đề bóc lột lao
động làm thuê, vấn đề bình đẳng dân tộc là những vấn đề thường trực trong các doanh
nghiệp thuộc loại nói trên. Với tính chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của mình,
Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc, mà phải quan tâm điều chỉnh các quan hệ trên
trong các doanh nghiệp có vấn đề đã nêu.
Thứ hai, sự mâu thuẫn lợi ích quyết liệt giữa các doanh nhân trên thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nhân tham gia nhiều mối quan hệ lợi
ích, các quan hệ này có khả năng dẫn tới xung đột mà chỉ Nhà nước mới có khả năng
xử lý thăng bằng các xung đột đó.
Bản chất của sản xuất kinh doanh là kiếm lời. Do đó, mâu thuẫn giữa các doanh
nhân với nhau và với các đối tác khác có quan hệ với các doanh nhân là lẽ đương
nhiên, nó bao gồm các quan hệ sau:
- Quan hệ giữa các doanh nhân với nhau. Thuộc các đối tác này có nhiều nội
dung quan hệ cụ thể: quan hệ hàng - tiền với rất nhiều chi tiết liên quan đến hàng;
quan hệ cổ phần, cổ phiếu trong việc chia lời lãi; quan hệ tranh chấp tài nguyên môi
trường khi hoạt động liền kề bên nhau.
- Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp.
Thuộc quan hệ này cũng có nhiều nội dung cụ thể, nhưng tựu trung là quan hệ lao
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 11
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
động - tiền công - điều kiện làm việc - thái độ đối xử với thợ - sự tuân thủ hợp đồng và
thỏa ước lao động giữa đôi bên.
- Quan hệ giữa doanh nhân với xã hội nói chung thông qua hành vi của họ trong
việc sử dụng tài nguyên, môi trường, bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo vệ bí mật
quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội…
Thứ ba, sự hữu hạn giữa các doanh nhân trong việc xử lý các vấn đề sản xuất
kinh doanh của họ.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các doanh nhân phải giải quyết
hàng loạt vấn đề, trong đó có những vấn đề mà mỗi doanh nhân không đủ khả năng
giải quyết.
Nội dung cụ thể của các vấn đề mà mỗi doanh nhân không giải quyết nổi tùy
thuộc vào trình độ của doanh nhân mỗi nước, mỗi ngành, trong mỗi hoàn cảnh quốc tế
và trong từng nước nhất định. Nhà nước nào cũng phải bằng hoạt động của mình để
phán đoán các nan giải của doanh nhân, tìm ra những nhu cầu của họ mà đáp ứng. Tuy
nhu cầu cụ thể có thể rất đa dạng, song suy cho cùng đó là các vấn đề thuộc về ý chí,
tri thức, vốn liếng, phương hướng, diễn biến chính sự có liên quan đến kinh tế. Chẳng
hạn, doanh nhân nào cũng cần biết triển vọng của đồng đô la Mỹ và một số ngoại tệ
mạnh khác trong tương lai nhưng không thể dự đoán được.
Ngoài ra, như đã nói ở trên, việc phát triển nền kinh tế trong xã hội hiện tại
không thể bỏ qua quan hệ kinh tế đối ngoại, vậy thì cần phải xem xét vì sao cần có sự
QLNN đối với kinh tế đối ngoại.
Một là, vì kinh tế đối ngoại có một tầm quan trọng đặc biệt. Kinh tế đối ngoại
có ý nghĩa toàn diện sâu sắc đối với sự phát triển tổng thể kinh tế, xã hội, chính trị,
quốc phòng ngoại giao của đất nước.
Về kinh tế, kinh tế đối ngoại giải quyết những vấn đề then chốt của nền kinh tế
như vấn đề vốn đầu tư, vấn đề tiến bộ khoa học và công nghệ, vấn đề chuyển dịch cơ
cấu và phân công lao động quốc tế theo lợi thế so sánh. Đó là những vấn đề then chốt
để tăng năng suất lao động xã hội, cái quyết định sự thắng lợi của mọi chế độ kinh tế.
Về chính trị, ngoại giao, quốc phòng, kinh tế đối ngoại liên quan đến việc mở
rộng quan hệ bạn bè, loại trừ và cô lập kẻ thù, liên quan đến việc bảo vệ bí mật quốc
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 12
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
gia, vấn đề bảo vệ kinh tế của đất nước trên trường quốc tế, cơ sở để giữ vững độc lập
chính trị, an ninh quốc phòng.
Hai là, nhà nước đặc biệt quan tâm đến quản lý kinh tế đối ngoại vì nhu cầu đặc
biệt của doanh nhân trong kinh tế đối ngoại.
Doanh nhân trong hoạt động kinh tế đối ngoại cần đến nhà nước vì:
- Quan hệ xã hội trong kinh tế đối ngoại vượt khỏi tầm quốc gia, là thứ quan hệ
mà nhà nước mới có đủ tư cách pháp lý và đủ khả năng giúp các doanh nhân vận động
tốt trên thị trường quốc tế.
- Kinh tế đối ngoại là hoạt động kinh tế lớn về quy mô, phức tạp về khoa học và
công nghệ, nên doanh nhân trên mặt trận này hơn mọi doanh nhân khác trong việc cần
có sự hỗ trợ về tri thức, về vốn từ phía Nhà nước.
- Kinh tế đối ngoại là một địa bàn vừa rộng vừa đầy bắt trắc, bí hiểm và phức
tạp, chỉ có thể dựa vào nhà nước doanh nhân mới có thể yên tâm hoạt động.
1.2. Hiệu lực, hiệu quả, cơ sở pháp lý, hệ thống tổ chức QLNN đối với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1 Hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài
a. Hiệu lực, hiệu quả nói chung
- Hiệu lực là khả năng và tác dụng thực tế của một cơ quan, một tổ chức, một
nhà nước thực hiện có kết quả chức năng quản lý của mình. Một cơ quan nhà nước
quản lý có hiệu lực là biết sử dụng đúng đắn các quyền hạn, thẩm quyền, các phương
pháp và công cụ pháp lý về các mặt (luật pháp, hành chính, tổ chức), các phương pháp
tư tưởng, tâm lý cũng như các phương tiện vật chất, đề ra những quyết định hợp pháp,
hợp lý, đúng lúc và những biện pháp đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Hiệu lực gồm có hiệu lực chấp hành, hiệu lực hồi tố và hiệu lực pháp luật.
Khóa luận muốn nhấn mạnh đến hiệu lực pháp luật (hay còn gọi là hiệu lực của
các văn bản quy phạm pháp luật): là giá trị theo thứ tự cao thấp của một văn bản quy
phạm pháp luật trong hệ thống các hình thức pháp luật của nhà nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà
nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Bộ luật, Luật, Nghị quyết của Quốc hội có hiệu lực
pháp lý sau Hiến pháp. Pháp lệnh, Nghị định của Ủy ban thường vụ Quốc hội có hiệu
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 13
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
lực pháp lý sau các văn bản quy phạm pháp luật kể trên. Các văn bản quy phạm pháp
luật có hiệu lực pháp lý sau các quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường
vụ Quốc hội thường được gọi chung là văn bản dưới luật. Trường hợp các văn bản quy
phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Hiệu lực pháp luật thể hiện ở ba dạng:
+ Hiệu lực không gian: là giới hạn phạm vi lãnh thổ mà văn bản quy phạm pháp
luật có hiệu lực.
+ Hiệu lực về thời gian: là thời điểm một văn bản quy phạm pháp luật bắt đầu
hay chấm dứt hiệu lực.
+ Hiệu lực về đối tượng áp dụng: là hiệu lực thi hành chỉ đối với những cá
nhân, cơ quan, tổ chức mà văn bản quy phạm pháp luật đó điều chỉnh.
- Hiệu quả là kết quả thực hiện một chủ trương, chính sách được xác định qua
việc so sánh các kết quả đạt được với toàn bộ các nguồn lực đã sử dụng. Hiệu quả thể
hiện ở kết quả đạt được là tối đa, chi phí là tối thiểu.
Hiệu quả là chỉ tiêu quan trọng được sử dụng phổ biến ở nhiều lĩnh vực, ở tầm
vĩ mô lẫn vi mô. Trong hoạt động kinh tế, hiệu quả thể hiện ở lợi nhuận thu thập trên
một đồng vốn đầu tư hay sản xuất. Trong quản lý hành chính, không thể xét đơn thuần
hiệu quả theo giá trị bằng tiền vì hoạt động hành chính nhiều khi mang tính chất trừu
tượng rất khó tính toán cụ thể, vả lại hoạt động hành chính còn nhằm phục vụ nhu cầu
xã hội nên phải xét hiệu quả không chỉ ở khía cạnh hiệu quả kinh tế mà cả hiệu quả xã
hội.
b. Hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài
QLNN là sự quản lý bằng pháp luật của Nhà nước để thực hiện quyền lực nhà
nước. QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước
đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát
triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Theo từ điển thuật ngữ Hành chính thì: “Hiệu quả là kết quả thực hiện một chủ
trương, chính sách được xác định qua việc so sánh các kết quả đạt được với toàn bộ
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 14
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
các nguồn lực đã sử dụng. Hiệu quả thể hiện ở kết quả đạt được là tối đa, trong khi
chi phí là tối thiểu”.
“Hiệu quả QLHCNN là mối tương quan giữa kết quả thu được tối đa so với chi
phí thực hiện kết quả đó ở mức tối thiểu”. (Theo Giáo trình Tổ chức Hành chính Nhà
nước, Học viện Hành chính Quốc gia)
Trong khuôn khổ của hoạt động QLHCNN, cần đặt thuật ngữ “hiệu quả” trong
mối quan hệ biện chứng với các thuật ngữ khác, đặc biệt là thuật ngữ “hiệu lực”. Theo
nghĩa chung nhất, hiệu lực QLHCNN nhằm chỉ kết quả đạt được, tức tạo ra sản phẩm
nếu đó là một quyết định sản xuất, trong khi hiệu quả thường được xem xét gắn liền
với cả chu trình, quá trình nhằm tạo ra sản phẩm đó. Hiệu quả thường gắn với kết quả
và chi phí.
Trong khá nhiều trường hợp, quyền lực không gắn liền với hiệu lực. Trong
trường hợp các quyết định QLHCNN, kể cả các quyết định mang tính cưỡng chế
không được thi hành, thì các quyết định đó không có hiệu lực. Hiệu lực của quyết định
gắn liền với tính khả thi của cơ quan hành pháp. Không ít các quyết định ban hành ra
vừa thiếu tính pháp lý, vừa thiếu tính thực tiễn, do đó hiệu lực thấp hoặc không có hiệu
lực.
Như vậy, hiệu quả và hiệu lực là hai vấn đề có mối quan hệ tương hỗ mật thiết
với nhau trong hoạt động QLNN. Việc đánh giá hiệu lực và hiệu quả hoạt động
QLHCNN liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, cần sự đánh giá tổng hợp khi nghiên
cứu đến vấn đề này. Đánh giá hiệu quả hoạt động QLHCNN cần xem xét đến yếu tố
hiệu lực của chúng, mà trực tiếp là các quyết định QLHCNN do các cơ quan
QLHCNN ban hành.
Tóm lại, hiệu quả của hoạt động QLHCNN có thể được khái niệm như sau:
“Hiệu quả QLHCNN là sự so sánh, đối chiếu kết quả đạt được với toàn bộ các nguồn
lực đã sử dụng nhằm đánh giá kết quả đạt được với chi phí thấp nhất ”. Theo PGS.TS
Nguyễn Kim Sơn: “Hiệu quả được hiểu là làm được quyết định với chi phí thấp nhất”.
Như đã nêu rõ ở phần lý luận về hiệu lực, hiệu quả ở trên, ta thấy rằng hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động QLNN là dựa vào pháp luật mà căn bản là trên cơ sở của các
văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới luật.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 15
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
Các chủ thể, cơ quan có thẩm quyền quản lý sẽ dựa vào luật, các quy định được
nêu rõ trong luật hay các văn bản quy phạm pháp luật khác về hoạt động kinh tế đối
ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài để quản lý các hoạt động liên quan đến các lĩnh vực vừa kể trên.
Hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp được xác định bởi các văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực về mặt
thời gian, không gian và đối tượng là các hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư
và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng các đối tượng khác
liên quan và hiệu quả sẽ tính cả hiệu quả đối với sự tăng trưởng kinh tế và đóng góp
cho sự phát triển xã hội.
c. Các tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, khía cạnh phát triển bền vững trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã được quan tâm nhiều hơn.
Trong những năm gần đây, mỗi năm các tờ báo ngoại ngữ của nhóm thời báo Kinh tế
Sài Gòn đều tiến hành trao giải thưởng “Doanh nghiệp và phát triển bền vững” cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh,
thành miền Đông Nam Bộ.
Để đánh giá được một cách toàn diện hơn khía cạnh phát triển bền vững trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, trên thế giới đã sử dụng nhiều
đến bộ tiêu chí “Phát triển bền vững Dow - Jones” (Dow - Jones Sustainability
Indexes). Bộ tiêu chí Dow - Jones được công bố vào năm 1999. Đây là bộ tiêu chí đầu
tiên trên thế giới được thiết lập nhằm đánh giá thành tích trên ba chiều kích của phát
triển bền vững là kinh tế, môi trường và xã hội của các doanh nghiệp lớn. Bộ tiêu chí
được thể hiện như sau:
Các chiều kích
của phát triển
bền vững
Các chỉ tiêu
Trọng số của các
chỉ tiêu (%)
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 16
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
Kinh tế
- Qui tắc ứng xử/ tuân theo luật lệ/ hối lộ - đút lót
- Quản trị doanh nghiệp
- Quản trị rủi ro và khủng hoảng
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
5.5
6.0
6.0
Tùy theo ngành
nghề
Môi trường
- Thành tích về môi trường
- Có bản báo cáo về môi trường
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
7.0
3.0
Tùy theo ngành
nghề
Xã hội
- Hoạt động từ thiện
- Ứng dụng các qui tắc sử dụng lao động của
quốc gia và quốc tế
- Việc phát triển vốn con người
- Có báo cáo về hoạt động xã hội
- Khả năng thu hút
- Chỉ tiêu riêng của ngành nghề
3.5
5.0
5.5
3.0
5.5
Tùy theo ngành
nghề
Bảng 1: Bộ tiêu chí Dow - Jones
(Nguồn: Internet)
Các trọng số nói trên được xác định bởi phương pháp chuyên gia hay phương
pháp xã hội học, các chỉ tiêu được thể hiện bằng các câu hỏi cụ thể để đo lường và
người đứng đầu doanh nghiệp sẽ phải cung cấp câu trả lời.
Chẳng hạn đối với thành tích về môi trường, doanh nghiệp sẽ cho biết trong
năm qua hoạt động sản xuất và kinh doanh của họ đã thải bao nhiêu lượng khí CO
2
,
lượng nước sạch đã sử dụng, tổng lượng các loại năng lượng (điện, xăng dầu…) đã sử
dụng, lượng rác thải… Doanh nghiệp cũng phải giải trình về chiến lược của mình
trong tương lai xem có giảm thiểu các chỉ số trên dần dần hay không.
Về khía cạnh xã hội, doanh nghiệp sẽ phải cho biết có sự phân biệt đối xử về
giới tính trong vấn đề lương bổng hay không (lương trung bình của lao động nam và
lao động nữ); tỷ lệ nữ đảm trách các trách nhiệm lãnh đạo; khả năng tự do lập hội của
người lao động; vấn đề đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người lao động; tổng kinh
phí mà doanh nghiệp đã dùng cho các hoạt động từ thiện…
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 17
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
Dựa trên các tiêu chí của Bộ tiêu chí Dow - Jones thì ta có thể xác định được
hiệu lực và hiệu quả kinh tế, xã hội mà một doanh nghiệp mang lại, trong đó để đánh
giá các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu.
1.2.2. Cơ sở pháp lý về QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Cơ sở pháp lý là những điều kiện thuộc về luật lệ do nhà nước quy định, từ đó
làm cơ sở để xuất phát một việc có qui mô đáng kể để quản lý những đối tượng cần
thiết.
Các cơ sở pháp lý để căn cứ vào đó mà tiến hành công tác QLNN đối với các
hoạt động thu hút đầu tư và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là hệ
thống luật, các văn bản dưới luật có quy định về các vấn đề nêu trên, như:
- Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005;
- Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005;
- Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;
- Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy
định về đăng ký kinh doanh;
- Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy
định về việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi Giấy chứng nhận đầu tư của
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
- Quyết định số 1088/2006/QĐ-BKH ngày 19 tháng 10 năm 2006 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư về việc ban hành các mẫu văn bản thực hiện thủ tục về đầu tư tại Việt
Nam.
- Quyết định số 23/2003/QĐ-UB ngày 03 tháng 03 năm 2003 của UBND thành
phố Đà Nẵng về việc ban hành bản quy định một số chính sách ưu đãi nhằm thu hút
đầu tư trực tiếp (FDI) tại thành phố Đà Nẵng.
1.2.3. Hệ thống các cơ quan QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 18
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
Trách nhiệm QLNN đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp và hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với việc thu hút đầu tư, đặc biệt là
công tác thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Cơ quan QLNN đối với thu hút đầu tư trực tiếp và hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở TW chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện QLNN đối với việc thu hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, chủ trì phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc quản
lý nhà nước đối với việc thu hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
- Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo
sự phân công của Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan QLNN đối với việc
thu hút đầu tư trực tiếp và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở TW trong việc quản lý nhà nước đối với thu hút đầu tư trực tiếp và hoạt
động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình và theo sự phân cấp của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện QLNN đối với việc
thu hút đầu tư trực tiếp và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại địa phương, cụ thể hóa chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính
sách phát huy tiềm năng để thu hút đầu tư và quản lý hoạt động của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với thực tế địa phương.
Tổ chức bộ máy QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài:
- Ở Trung ương:
Cơ quan QLNN ở cấp TW là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Các cơ quan chức năng
làm nhiệm vụ quản lý nhà nước thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư bao gồm: Văn phòng
Bộ; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân; Vụ Kinh tế địa phương và
lãnh thổ; Vụ Tài chính, tiền tệ; Tổng cục thống kê; Cục phát triển doanh nghiệp; Vụ
Kinh tế đối ngoại; Vụ Kinh tế dịch vụ; Cục Đầu tư nước ngoài; Vụ Quản lý các khu
kinh tế; Vụ Giám sát và Thẩm định đầu tư; Cục Quản lý đấu thầu; Vụ Kinh tế công
nghiệp; Vụ Kinh tế nông nghiệp; Vụ Kết cấu hạ tầng và Đô thị; Vụ Lao động, Văn
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 19
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
hóa, Xã hội; Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường; Vụ Quốc phòng - An
ninh; Vụ Pháp chế; Vụ Hợp tác xã; Thanh tra Bộ; Vụ Quản lý quy hoạch, Vụ Thi đua -
khen thưởng.
Các chức năng cơ bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là:
+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH chung của cả
nước.
+ Tham mưu về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực cụ
thể.
+ Tham mưu về đầu tư trong nước, ngoài nước, khu công nghiệp, khu chế xuất.
+ Quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA), đấu thầu, doanh
nghiệp, đăng ký kinh doanh trong phạm vi cả nước.
+ Quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý
Bộ theo quy định của pháp luật.
- Ở địa phương:
Cơ quan QLNN ở địa phương là Sở Kế hoạch và Đầu tư.
Sở Kế hoạch và đầu tư là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố, giúp
UBND thành phố thực hiện chức năng QLNN về kế hoạch và đầu tư bao gồm các lĩnh
vực: tham mưu tổng hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH; về đầu
tư trong nước, ngoài nước ở địa phương; về khu công nghiệp, khu chế xuất; quản lý
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, đấu thầu, đăng ký kinh doanh trong phạm vi
địa phương và các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp
luật. Sở Kế hoạch và Đầu tư chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác
của UBND thành phố; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên
môn nghiệp vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Một số nhiệm vụ của Sở Kế hoạch và Đầu tư là:
+ Trình UBND thành phố ban hành các quyết định, chỉ thị về quản lý các lĩnh
vực kế hoạch và đầu tư ở địa phương theo quy định của pháp luật và phân cấp của
Chính phủ.
+ Giúp UBND thành phố hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kế hoạch và đầu tư ở địa phương, trong đó có
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH của cả nước đã được phê duyệt và
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 20
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
những vấn đề có liên quan đến việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát
triển KT - XH của thành phố.
+ Trình UBND thành phố quyết định việc phân cấp quản lý các lĩnh vực kế
hoạch và đầu tư cho UBND cấp Quận, Huyện và các Sở, ban, ngành của thành phố;
hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các quy định phân cấp đó.
+ Quản lý các vấn đề liên quan đến các lĩnh vực như: quy hoạch, kế hoạch; đầu
tư trong nước và ngoài nước; quản lý ODA; quản lý đấu thầu; quản lý các khu công
nghiệp, khu chế xuất; quản lý các doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và kinh tế hợp
tác xã…
+ Chủ trì phối hợp với các Sở, ban, ngành đề xuất các mô hình và cơ chế, chính
sách đối với kinh tế hợp tác xã, kinh tế gia đình trên địa bàn; hướng dẫn, theo dõi, tổng
hợp báo cáo UBND thành phố và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình phát triển kinh
tế hợp tác xã, kinh tế gia đình của thành phố.
+ Giúp UBND thành phố chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho cơ
quan chuyên môn của UBND các quận, huyện thực hiện nhiệm vụ QLNN về kế hoạch
và đầu tư trên địa bàn; theo dõi, kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
+ Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật và thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư theo quy định
của pháp luật. Tổ chức quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp,
dịch vụ công thuộc Sở.
+ Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực;
xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc thẩm quyền của
Sở.
+ Tổng hợp, thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất tình hình thực hiện nhiệm vụ
về các lĩnh vực được phân công cho UBND thành phố, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các
cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
+ Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức theo quy
định của pháp luật và phân cấp của UBND thành phố; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước thuộc quyền
quản lý của Sở và phát triển nguồn nhân lực ngành kế hoạch và đầu tư ở địa phương.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 21
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
+ Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân
bổ theo quy định của pháp luật và phân cấp của UBND thành phố.
+ Thực hiện những nhiệm vụ khác được chủ tịch UBND thành phố giao.
1.3. Quan điểm, định hướng của Nhà nước Việt Nam về QLNN đối với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.3.1. Quan điểm về QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Quan điểm là cơ sở của người quan sát nhìn nhận sự vật để giải quyết một vấn
đề… (thường theo lợi ích hoặc theo thế giới quan của giai cấp cầm quyền).
Ngay từ khi bắt đầu thực hiện đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định những
quan điểm định hướng về thu hút, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó để
phát triển thêm loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Những
quan điểm đó đã được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội Đảng và tiếp tục được
khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, thể hiện những nội dung chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất, thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm phát huy
cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, thực hiện CNH - HĐH đất
nước.
Thứ hai, gắn chặt việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó tạo sự
năng động cho nền kinh tế nhiều thành phần trong nước.
Thứ ba, phải đặt nhiệm vụ thu hút, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài là bộ phận khăng khít của chính sách phát triển kinh tế đối ngoại và
chiến lược phát triển KT - XH, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò là
động lực, nguồn lực quan trọng thúc đẩy quá trình CNH - HĐH đất nước.
Thứ tư, đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải gắn
liền với việc nâng cao hiệu quả trong phân bố, sử dụng một cách toàn diện và hợp lý
để phát huy cao nhất vai trò, tác dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 22
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế nước ta. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải tạo ra động lực phát triển KT - XH,
giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Thứ năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài phải góp phần thúc đẩy tiến bộ, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và
bảo vệ môi trường.
1.3.2. Định hướng QLNN đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Theo tìm hiểu của SV thì định hướng tức là xác định phương hướng cho một
vấn đề hay một mục tiêu nào đó nhất định.
Từ những quan điểm cơ bản về thu hút, sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài và
hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Đảng và Nhà
nước ta tiếp tục đưa ra những chủ trương, định hướng cụ thể về các vấn đề nêu trên,
bao gồm những nội dung sau:
- Ưu tiên thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp đặc biệt sử dụng công nghệ
cao, gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng
công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Hỳ, EU, Nhật Bản; hết
sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.
Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của các sản phẩm sản xuất trong nước.
- Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong
nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các
cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ
ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính - viễn thông; y tế; văn hóa; giáo dục
đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.
- Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh có điều kiện đối với đầu tư nước ngoài có tính tới các yếu tố hội nhập và
toàn cầu hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút FDI bằng việc
xem xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự
tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 23
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
- Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ
đầu tư vào Việt Nam, chú trọng hơn vào việc thu hút đầu tư nước ngoài từ các nhà đầu
tư, các công ty, tập đoàn đa quốc gia có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ
nguồn từ các trung tâm kinh tế lớn của thế giới như Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU… để
thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu, tạo thêm việc làm,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng
cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Giảm
mạnh, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước
và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hóa việc cấp
phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Tăng cường hỗ trợ và quản lý
sau cấp phép, tạo điều kiện cho các dự án đã được cấp phép triển khai có hiệu quả.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế
xuất và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.4. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới và các địa phương khác ở
Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
a. Trung Quốc
Đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã tăng với vận tốc kỷ lục trong năm
2002 về cả số dự án, số vốn cam kết và thực hiện… Nước này lần đầu tiên vươn tới vị
trí dẫn đầu thế giới về tiếp nhận FDI, đẩy Hoa Kỳ xuống hàng thứ hai. Tại thời điểm
đó, đã có gần 400 trong tổng số 500 công ty lớn nhất thế giới đã đầu tư vào Trung
Quốc, cho thấy sức hấp dẫn mạnh mẽ của mảnh đất này đối với thương nhân toàn cầu.
Vậy “bí quyết” nào để thu hút FDI mạnh mẽ như vậy? Đó là nhờ có sự thống nhất cao
trong quan điểm về FDI không chỉ trong giới lãnh đạo cao cấp, mà còn tới từng địa
phương, từng doanh nghiệp thậm chí tới mỗi người dân. Mọi giới ở Trung Quốc đều
nhận thức rất rõ về vai trò và tầm quan trọng của FDI, từ TW đến địa phương, nơi nào
cũng hiểu rằng thu hút FDI là yêu cầu cấp bách để phát triển kinh tế.
Hơn nữa Trung Quốc rất nhất quán thực hiện chính sách coi kinh tế là trọng
tâm. Họ không phân biệt nguồn lực nhà nước, tư nhân hay nước ngoài, miễn là có ích
cho sự phát triển của đất nước thì đều được khuyến khích phát huy.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 24
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Huy Hoàng
3 giai đoạn của FDI ở Trung Quốc:
- 1979 - 1991: Giai đoạn thử nghiệm với các khoản đầu tư quy mô nhỏ.
Nguồn vốn chủ yếu đến từ cộng đồng Hoa kiều ở nước ngoài. Lĩnh vực đầu tư là các
ngành cần nhiều lao động.
- 1992 - 2000: FDI phát triển đến quy mô lớn, bài bản. Bước ngoặt được tạo
ra từ chuyến công du miền Nam của ông Đặng Tiểu Bình. Một loạt các chính sách
khuyến khích đầu tư (nới lỏng hoạt động tín dụng, cắt giảm thuế, mở cửa một số lĩnh
vực nhạy cảm ). Lượng vốn FDI vào Trung Quốc nhảy vọt từ 4,4 tỷ USD năm 1991
lên hơn 10 tỷ USD năm 1992. Năm 2000 con số này là hơn 59 tỷ.
- Từ năm 2001: Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, các công ty nước ngoài
''bước hẳn'' vào Trung Quốc. Một số lĩnh vực trước đây được mở cửa một cách hạn
chế, nay sẽ được mở cửa toàn bộ. Tổng vốn FDI năm 2001 đạt khoảng 47 tỷ USD, 8
tháng đầu năm 2002 đạt 34,5 tỷ USD.
Về chính sách chung, Trung Quốc huy động vốn FDI thông qua các hình thức
như: hợp đồng sản xuất, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực đặc
biệt.
Để thu hút được nhiều FDI, chính sách quan trọng mà Trung Quốc áp dụng đó
là chính sách thuế. Trung Quốc có một hệ thống thuế áp dụng riêng cho các hình thức
và khu vực đầu tư: hợp tác, liên doanh, 100% vốn nước ngoài và cho 14 thành phố ven
biển. Các doanh nghiệp liên doanh đóng thuế lợi tức 30% và 10% thêm cho địa
phương. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài áp dụng mức thuế lợi tức từ 20 đến 40%
và 10% cho địa phương. Tại 14 thành phố ven biển, các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài được giảm thuế lợi tức 15% so với các khu vực khác. Các liên doanh đầu tư 10
năm trở lên được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ kinh doanh có lãi và được giảm 50%
thuế lợi tức cho 3 năm tiếp theo. Nếu liên doanh đầu tư vào các vùng khó khăn sẽ
được giảm thuế lợi tức tiếp từ 15 đến 30% trong vòng 10 năm. Nếu liên doanh có sản
phẩm xuất khẩu trên 70% được giảm 50% số thuế hàng năm. Nếu doanh nghiệp áp
dụng công nghệ tiên tiến được giảm tiếp 50% trong 3 năm so với các doanh nghiệp
cùng loại nhưng không có công nghệ cao. Nếu đầu tư vào 14 thành phố ven biển trên
10 năm thì miễn thuế 2 năm, giảm thuế 3 năm tiếp theo.
SVTT: Nguyễn Thị Thanh Hải
Trang 25