Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

So sánh quy chế pháp lý của thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.64 KB, 5 trang )

Bài tiểu luận
So sánh quy chế pháp lý của thềm lục địa và vùng
đặc quyền kinh tế:
I/ Đặt vấn đề:
Hai vùng biển: thềm lục địa và đặc quyền kinh tế là hai vùng biển quốc
gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán, và là hai trong số các các chế định
được quy định trong Công Ước về Luật Biển được ký kết vào ngày 30/4/1982,
quy định những vấn đề thuộc pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác, giải
quyết tranh chấp, … Nhưng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là hai
vùng biển mới được xem xét và đưa vào Luật biển quốc tế, và là hai vùng
biển khá đặc thù không giống bất kỳ vùng biển cổ điển nào trước đây. Chính
vì vậy, để rõ hơn những quy chế pháp lý của hai vùng biển này, ta sẽ đi so
sánh chúng trên nhiều khía cạnh khác nhau.
II/ Giải quyết vấn đề:
1/ Khái niệm:

+ Vùng đặc quyền kinh tế: Là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải, đặt
dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần V – Vùng đặc quyền kinh tế
của công ước luật biển 1982, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc
gia ven biển, các quyền cũng như các quyền tự do của các quốc gia khác đều
do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh. Vùng biển này có chiều
rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
+ Thềm lục địa: bao gồm đáy biển và phần đất dưới đáy biển bên ngoài
lãnh hải của quốc gia đó cho đến bề ngoài của rìa lục địa hoặc cách đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải 200 hải lý khi bề ngoài của rìa lục địa
của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài
giới hạn 350 hải lý hoặc không đươc vượt quá 100 hải lý kể từ đường đẳng
sâu 2500m (điều 77 Công ước 1982).
2/ So sánh quy chế pháp lý giữa vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục
địa:
a/ Giống nhau:


• Đều là hai vấn đề mới được đề cập và mới được xem xét thêm vào luật
biển quốc tế tại Công ước luật biển năm 1982.
1
• Các quốc gia ven biển đều không có quyền chủ thể mà chỉ có các quyền
mang tính chất chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên
nhiên của mình. Đây là quyền mà chỉ có quốc gia hoặc một số các cơ quan
chính phủ của nó có thể có và sự sở hữu quyền có tính chất chủ quyền này là
cho lợi ích chung và có khả năng thực hiện các chức năng riêng của mình.
• Các quốc gia ven biển đều có quyền tài phán trên cả hai vùng về việc:
+ Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
+ Nghiên cứu khoa học về biển;
+ Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Quyền tài phán là hệ quả của quyền chủ quyền, có tác dụng bổ trợ, tạo ra
môi trường để thực hiện quyền chủ quyền được tốt hơn và là quyền của các cơ
quan hành chính và tư pháp của quốc gia thực hiện và giải quyết các vụ việc
theo thẩm quyền của họ.
• Trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các quốc gia ven biển đều
có những đặc quyền nhất định như sau:
+ Về vùng đặc quyền kinh tế: Tính đặc quyền thể hiện ở chỗ các quốc gia
ven biển có toàn quyền đánh giá nguồn tiềm năng đối với các tài nguyên sinh
vật, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc
khai thác, duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức.
+ Về vùng thềm lục địa: nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay không
khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì quốc gia khác cũng
không có quyền tiến hành các hoạt động như vậy khi không có sự thỏa thuận
rõ ràng của các quốc gia sở tại.
• Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không và tự do
lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.
b/ Khác nhau:

Các tiêu
chí so
sánh
Vùng đặc quyền kinh tế Vùng thềm lục địa
Cơ sở
phát sinh:
- Để khai sinh ra vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia ven
biển, buộc phải có một tuyên
- Thềm lục địa được hình
thành do sự kéo dài tự nhiên
của lãnh thổ, tạo nên quy chế
2
bố đơn phương từ phía quốc
gia đó. Từ đó mới hình thành
nên quy chế pháp lý của các
quốc gia trên vùng đặc quyền
kinh tế của mình.
pháp lý cho các quốc gia ven
biển trên thềm lục địa.
- Các quyền của quốc gia ven
biển đối với thềm lục địa
không phụ thuộc vào bất cứ
tuyên bố rõ ràng nào.
Phạm vi
quyền
chủ
quyền
- Các quốc gia có quyền chủ
quyền ở vùng đặc quyền kinh

tế cũng có quyền đối với cả
phần vùng nước phía trên và
vùng trời trên vùng nước này.
- Ngoài giới hạn 200 hải lý
(tính từ đường cơ sở), vùng đặc
quyền kinh tế chấm dứt sự tồn
tại, do đó các quốc gia không
còn có quyền trên những vùng
đó nữa.
- Quyền của quốc gia ven biển
đối với thềm lục địa không
đụng chạm đến chế độ pháp lý
của vùng nước ở phía trên hay
của vùng trời trên vùng nước
này.
- Ngoài giới hạn 200 hải lý,
thềm lục địa vẫn có thể tồn tại
(trong khi vùng đặc quyền
kinh tế không còn tồn tại). Vì
vậy, trong giới hạn 200 hải lý,
vùng đặc quyền kinh tế bao
gộp cả thềm lục địa.
Đối tượng
quyền
chủ
quyền
- Quốc gia ven biển chỉ thực
hiện quyền chủ quyền trên các
tài nguyên thiên nhiên của
vùng chứ không phải trên

chính vùng đặc quyền kinh tế.
- Tài nguyên của vùng đặc quyền
kinh tế không bao gồm các loài
định cư.
- Quốc gia ven biển không chỉ
có quyền chủ quyền đối với tài
nguyên của thềm lục địa mà
còn đối với cả chính thềm lục
địa.
- Tài nguyên thiên nhiên là đối
tượng tác động của quyền chủ
quyền của các quốc gia ven
biển không chỉ bao hàm các tài
nguyên không sinh vật mà còn
cả tài nguyên sinh vật thuộc
loài định cư.
Tính chất
quyền
chủ thể
- Do được phát sinh trên cơ sở
phải do quốc gia ven biển yêu
sách vùng này một tuyên bố
đơn phương nên quyền chủ
quyền của quốc gia ven biển
trên vùng đặc quyền kinh tế
không tồn tại một cách thực tế và
- Do cơ sở phát sinh là sự kéo
dài tự nhiên của lãnh thổ nên
quyền của các quốc gia trên
thềm lục địa là quyền đương

nhiên và ngay từ đầu. Đó là
quyền không thể chuyển
nhượng và không thể mất hiệu
3
ngay từ ban đầu
- Quốc gia ven biển không có
chủ quyền trên vùng đặc quyền
kinh tế với tư cách là người chủ
hoàn toàn.
- Tính đặc quyền của quốc gia
ven biển chấp nhận ngoại lệ là
nếu trường hợp quốc gia ven
biển không khai thác hết mà
tồn tại một số dư của khối
lượng cho phép đánh bắt thì
quốc gia ven biển phải có nghĩa
vụ “tạo điều kiện thuận lợi cho
việc khai thác tối ưu các tài
nguyên sinh vật của vùng đặc
quyền kinh tế” mà không
phương hại đến đặc quyền bảo
tồn tài nguyên sinh vật của
mình, có ưu tiên cho các quốc
gia không có biển hoặc bất lợi
về mặt địa lý.
lực. Các quyền này tồn tại
không phụ thuộc vào việc thực
hiện nó có hiệu quả hay
không.
- Nếu quốc gia ven biển không

thăm dò thềm lục địa hay
không khai thác tài nguyên
thiên nhiên của thềm lục địa,
thì không ai có quyền tiến
hành các hoạt động như vậy
nếu không có sự thỏa thuận rõ
ràng của các quốc gia đó.
III/ Kết thúc vấn đề:
Việc hiểu rõ quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm
lục địa là vô cùng quan trọng và cần thiết để các quốc gia ven biển thực hiện
một cách hợp pháp và đúng đắn quyền của mình, không xâm phạm đến những
quyền của quốc gia khác cũng như đối với quốc tế, giúp họ quản lý tốt tài
nguyên của mình và thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với các vùng biển
này.
4
Tài liệu tham khảo:
1/ giáo trình luật quốc tế - Khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội 1994
2/ giáo trình luật quốc tế - đại học Luật Hà Nội 2009.
3/ www.google.com.vn
Mục lục:
I/ Đặt vấn đề.
II/ Giải quyết vấn đề
1/ Khái niệm
2/ So sánh quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa.
a/ Giống nhau
b/ Khác nhau
III/ Kết thúc vấn đề.
5

×