Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Hình ảnh của cá nhân và quyền đối với hình ảnh của cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.35 KB, 19 trang )

Bộ môn Luật Dân sự Bài tập lớn học kỳ
LỜI MỞ ĐẦU
Hai năm trước, dư luận Việt Nam từng xôn xao về đoạn quay cảnh
quan hệ tình dục giữa một nữ diễn viên tuổi học trò và bạn trai, thì thời gian
gần đây cư dân mạng lại rộ lên những clip quay lén nữ sinh cùng bạn trai vào
nhà nghỉ. Bên cạnh vấn đề về đạo đức, lối sống của thanh niên hiện nay thì
câu hỏi về quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong pháp luật Việt Nam cũng
được đặt ra. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh các
thiết bị quay phim, chụp ảnh ngày càng hiện đại hơn: có khả năng ghi hình từ
xa, ghi hình trong bóng đêm, được thiết kế nhỏ gọn để dễ ngụy trang, cất
giấu. Hơn nữa, với sự trợ giúp của Internet thì những hình ảnh, những đoạn
clip đó được phát tán với một tốc độ nhanh chóng mặt. Vì vậy mà việc ngăn
chặn và tìm ra thủ phạm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Có thể nói chưa
bao giờ nguy cơ bị xâm phạm hình ảnh cá nhân lại cao như hiện nay, bất cứ ai
cũng có thể trở thành nạn nhân bị xâm phạm quyền về hình ảnh.
Về vấn đề quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình, BLDS 2005
đã có những quy định khá cụ thể. Tuy vậy, có vẻ những quy định đấy chưa đủ
“mạnh” để buộc mọi người từ bỏ thói quen sử dụng không xin phép hình ảnh
của người khác. Vậy đâu mới là giải pháp cho vấn đề này? Trước thực tế trên,
bản thân em quyết định lựa chọn đề tài: “Hình ảnh của cá nhân và quyền đối
với hình ảnh của cá nhân” làm nội dung nghiên cứu trong bài viết này. Mong
rằng, với những khía cạnh mà bản thân hướng tới trong bài viết này sẽ góp
phần vào việc đưa ra giải pháp nhằm ngăn chặn thói quen sử dụng trái phép
hình ảnh của cá nhân như hiện nay.
Nguyễn Thu Phương_341558
1
Bộ môn Luật Dân sự Bài tập lớn học kỳ
NỘI DUNG
1. Khái niệm hình ảnh của cá nhân
Về khái niệm hình ảnh của cá nhân, cho đến nay vẫn chưa có văn bản
nào quy định rõ. Tuy nhiên dựa vào quy định về quyền đối với hình ảnh của


cá nhân tại Điều 31 BLDS và thực tiễn thì có thể hiểu: “Hình ảnh của cá nhân
bao gồm mọi hình thức tác phẩm nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người
cụ thể như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh họa chép và suy luận rộng ra có thể cả bức
tượng của cá nhân đó nữa”. Hay có thể hiểu hình ảnh cá nhân là những hình
ảnh mang tính chất riêng tư, hạn chế, ở những nơi riêng tư. Điều này trái
ngược với hình ảnh ở những nơi sinh hoạt công cộng, nơi đông người...
Chẳng hạn như hình ảnh của một người đứng trên một bãi biển, nếu chỉ có
riêng người đó thì có thể xem là ảnh riêng tư, ảnh cá nhân. Nhưng nếu là một
tấm ảnh chụp quang cảnh chung trên bãi biển, có nhiều người trong tấm ảnh
thì có thể xem là ảnh sinh hoạt tập thể nơi công cộng, không phải là ảnh cá
nhân, riêng tư nữa.
Đứng về mặt “quyền sở hữu trí tuệ” thì bức ảnh, tấm hình, pho tượng
đều là loại hình tác phẩm nghệ thuật, người sử dụng tác phẩm trước hết phải
xin phép người chủ bản quyền (chủ sở hữu quyền tác giả) và trả cho họ một
khoản lợi ích vật chất, đồng thời phải trả thù lao, nhuận bút cho người sáng
tác (người chụp ảnh, sao chép, hoạ hình…). Nhưng đứng về mặt “quyền nhân
thân của con người” thì theo quy định tại Điều 31 BLDS thì ai muốn sử dụng
hình ảnh của cá nhân đều phải được sự đồng ý của người có hình ảnh đó
(người thật trong bức ảnh).
2. Quy định của pháp luật về quyền đối với hình ảnh của cá nhân
2.1. Quyền đối với hình ảnh của cá nhân trong BLDS 2005
Quyền đối với hình ảnh cá nhân là một nội dung quan trọng trong
quyền nhân thân của con người. Quyền đối với hình ảnh của cá nhân được
quy định tại Điều 31 BLDS 2005 đã thể hiện sự tiến bộ của BLDS Việt Nam
Nguyễn Thu Phương_341558
2
Bộ môn Luật Dân sự Bài tập lớn học kỳ
bởi lẽ không phải ở nước nào quyền của cá nhân đối với hình ảnh cũng được
quy định cụ thể trong BLDS như vậy. Ngay như BLDS tiêu biểu nhất thế giới
hiện nay là BLDS của Pháp cũng không có điều nào quy định về quyền đối

với hình ảnh của cá nhân mà quyền này chỉ được pháp luật Pháp ghi nhận
thông qua án lệ. Điều 31 BLDS 2005 quy định: “1. Cá nhân có quyền đối với
hình ảnh của mình; 2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó
đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa
đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc
người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước,
lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác; 3. Nghiêm cấm việc sử
dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người có hình ảnh”.
Trong quy định này, BLDS 2005 đã bổ sung thêm một số nội dung mới so với
BLDS 1995. Đó là việc quy định rõ việc sử dụng hình ảnh của người dưới 15
tuổi phải được cha, mẹ hoặc người đại diện của người đó đồng ý, nhằm điều
chỉnh hiện tượng một số lịch in hình trẻ em mà không xin phép. Như vậy,
theo quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS 2005
thì về nguyên tắc cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình. Mỗi người
đều có quyền cho hay không cho người khác sử dụng hình ảnh của mình. Nếu
chưa được sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền của cá nhân đối với
hình ảnh. Trường hợp người trong ảnh đã chết hoặc mất trí, không chủ động
quyết định được hoặc đối với hình ảnh của trẻ dưới 15 tuổi thì phải được sự
đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con (đã thành niên) hoặc người đại diện của
họ đồng ý. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 31 BLDS 2005, pháp luật còn nghiêm
cấm việc sử dụng hình ảnh của cá nhân mà xâm phạm đến nhân phẩm, danh
dự và uy tín của người có ảnh.
Thông qua quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại Điều 31
BLDS 2005 có thể thấy pháp luật dân sự Việt Nam đã thực sự thể hiện sự
quan tâm, tôn trọng bảo vệ của pháp luật đối với hình ảnh của cá nhân.
Nguyễn Thu Phương_341558
3
Bộ môn Luật Dân sự Bài tập lớn học kỳ
2.2. Quyền đăng hình của báo chí

Theo Điều 4 Luật báo chí thì công dân có quyền được thông tin qua
báo về tình hình mọi mặt của đất nước và thế giới. Tương ứng với quyền đó,
báo chí có nhiệm vụ thông tin trung thực, làm diễn đàn ngôn luận của nhân
dân. Trong tác nghiệp, báo chí có quyền đăng hình để chuyển tải thông tin tới
người dân. Theo khoản 6 Điều 4 Nghị định 133/HĐBT ngày 20/4/1992 của
Hội đồng bộ trưởng, thì việc đăng, phát ảnh người thật phải được chủ nhân
hoặc người được giao quyền sử dụng đồng ý “trừ ảnh thông tin các buổi họp
công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn văn nghệ, thể dục thể
thao”. Có thể thấy quy định này theo xu hướng bảo vệ quyền hình ảnh rất chặt
chẽ trong pháp luật Pháp: việc đăng phát hình ảnh không cần sự đồng ý của
chủ nhân chỉ giới hạn trong các hoạt động chính thức và các sinh hoạt tập thể.
Tuy nhiên, việc liệt kê đóng kín các trường hợp này sẽ dẫn đến sự hạn chế
đáng kể trong hoạt động của báo chí, mâu thuẫn với quyền được thông tin của
công dân về mọi mặt của đời sống xã hội. Ví dụ như vụ sập cầu Cần Thơ thu
hút sự quan tâm của nhân dân cả nước nhưng nếu theo đúng quy định tại nghị
định này thì báo chí không thể đưa hình ảnh về các nạn nhân để phản ánh mức
độ nghiêm trọng của vụ tai nạn khi chưa được người đó hay người thân của
người đó đồng ý.
Nhận thức được vấn đề này, Nghị định 21/2002/NĐCP ngày 26/4/2002
của Chính phủ đã điều chỉnh vấn đề này theo hướng tạo thuận lợi cho cơ quan
báo chí. Khoản 3 Điều 5 của nghị định này quy định, báo chí “không được
đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh
hưởng đến uy tín danh dự của cá nhân đó”, trừ một số trường hợp cụ thể
1
.
Theo quy định này thì báo chí có quyền đăng ảnh của cá nhân mà không cần
xin phép nhưng phải có ghi chú thích hợp và không làm ảnh hưởng tới danh
dự, nhân phẩm, uy tín của người đó. Việc đăng, phát hình ảnh không hạn chế
trong các sự kiện chính thức và hoạt động tập thể mà có thể bao gồm cả sinh
1

Ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thểm các buổi lao động, những người có lệnh truy nã,
các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ án đã bị tuyên án
Nguyễn Thu Phương_341558
4
Bộ môn Luật Dân sự Bài tập lớn học kỳ
hoạt hàng ngày và đời sống riêng tư. Khoản 3 Điều 5 nghị định này đã chủ
động loại bỏ yêu cầu phải có được sự đồng ý của chủ nhân hoặc người được
giao quyền sử dụng hình ảnh.
=> Như vậy có thể thấy rằng, quy định trên tại khoản 3 Điều 5 Nghị
định 21/2002/NĐ-CP dường như không phù hợp với tinh thần của BLDS
2005 về quyền đối với hình ảnh của cá nhân. Dù khoản 2 Điều 5 của nghị
định này nghiêm cấm việc đăng, phát hình ảnh khỏa thân có tính chất khiêu
dâm hay hình ảnh không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam nhưng
điều này không đủ để bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Việc pháp
luật cho phép báo chí có quyền đăng phát hình ảnh về đời sống riêng tư mà
không cần có sự đồng ý của người đó là hoàn toàn không phù hợp với tinh
thần bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân trong BLDS 2005. Chính
những quy định này sẽ dẫn đến thực trạng báo chí có thể lợi dụng quyền này
để xâm phạm bí mật đời tư, đăng phát những hình ảnh câu khách, chạy theo
thị hiếu tầm thường của một số độc giả.
2.3. Phương thức bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân
Quyền đối với hình ảnh của cá nhân là một trong những quyền nhân
thân quan trọng. Khác các quyền dân sự khác, quyền nhân thân thể hiện trong
nhiều lĩnh vực đời sống của cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời
sống tinh thần của cá nhân. Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của
cá nhân ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người bị xâm phạm. Vì
vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm
có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có
tác dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền
nhân thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lý xã hội và giáo dục ý thức pháp

luật làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân. Mặt khác, bảo
vệ quyền nhân thân của cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân
thân của cá nhân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của
các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần
Nguyễn Thu Phương_341558
5
Bộ môn Luật Dân sự Bài tập lớn học kỳ
cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo. Tuy vậy,
quyền nhân thân của cá nhân có những điểm khác các quyền dân sự khác như
không thể trị giá được bằng tiền, không thể chuyển giao cho người khác, trừ
những ngoại lệ do pháp luật quy định… Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân
của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm có một số khác biệt với việc bảo
vệ các quyền dân sự khác như các biện pháp bảo vệ được áp dụng đa dạng,
việc khắc phục thiệt hại về quyền nhân thân bị xâm phạm trong một số trường
hợp phải do chính những người hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền
nhân thân của cá nhân phải thực hiện, việc bồi thường thiệt hại khắc phục
thiệt hại về quyền nhân thân không thể tính toán cụ thể, chỉ là tương đối và
mang tính giáo dục là chủ yếu… Ngoài ra, hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân
của cá nhân chịu sự ảnh hưởng rất lớn của cả các quy định pháp luật và những
điều kiện xã hội. Để nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân ngoài góc độ pháp lý thì vấn đề này cũng cần phải được quan tâm
nghiên cứu, xem xét kỹ cả dưới góc độ xã hội.
Để đảm bảo cho quyền nhân thân nói chung và quyền đối với hình ảnh
của cá nhân nói riêng được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, thì pháp luật
quy định: “Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có
quyền:
1. Tự cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc

người vi phạm bồi thường thiệt hại” (Điều 25 BLDS 2005).
Theo quy định tại điều luật này thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của cá
nhân bị xâm phạm được áp dụng các biện pháp dân sự sau để bảo vệ quyền
của mình như tự cải chính; yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt
Nguyễn Thu Phương_341558
6
Bộ môn Luật Dân sự Bài tập lớn học kỳ
hành vi vi phạm; yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.
“Tự mình cải chính” là biện pháp biện pháp cho phép người có quyền
đối với hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền của mình,
hạn chế được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần do những tin tức
không đúng ra gây ra.
“Yêu cầu người có vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm” là biện pháp
bảo vệ quyền của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền đối với
hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm. So với biện pháp tự cải chính thì biện
pháp này được áp dụng trong một phạm vi rộng hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng
biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường hợp người có hành
vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân sớm nhận thức được hành vi
trái pháp luật của họ. Nếu người có hành vi xâm phạm không nhận thức được
hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền đối với hình ảnh của cá nhân
bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ được quyền lợi
của mình.
“Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm” cũng là biện pháp bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá
nhân có thể áp dụng. Đây là biện pháp bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá
nhân có hiệu quả cao vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp đủ mạnh do pháp luật quy định buộc
người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền đối với hình ảnh của cá

nhân chấm dứt hành vi xâm phạm hình ảnh của cá nhân đó. Trên thực tế, biện
pháp này thường được người có hình ảnh cá nhân bị xâm phạm áp dụng trong
trường hợp đã yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật nhưng không được đáp
ứng. Trong các cơ quan Nhà nước áp dụng biện pháp dân sự thì Tòa án được
xem là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá
nhân có hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá
nhân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ được tiến hành theo trình tự, thủ
Nguyễn Thu Phương_341558
7

×