2
BÀI LÀM
A-LỜI MỞ ĐẦU
Nước là tài nguyên quý giá không thể thiếu đối với cuộc sống con người và
các loài sinh vật, là tư liệu sản xuất không thể thay thế được đối với một số ngành
kinh tế quốc dân, là một thành phần cơ bản tạo nên môi trường sống. Hiện nay, nhu
cầu về nước ngày càng lớn do dân số tăng nhanh, tốc độ đô thị hóa nhanh và do sự
phát triển của nền kinh tế. Tài nguyên nước toàn cầu nói chung, của Việt Nam nói
riêng đều có những giới hạn. Con người đã, đang và sẽ tiếp tục có những tác động
tiêu cực đối với nguồn nước, gây ảnh hưởng đối với đời sống con người cũng như
các ngành kinh tế. Chính vì vậy bảo vệ môi trường nước đã trở thành vấn đề quan
tâm lớn không chỉ của Việt Nam mà còn của các quốc gia khác trên thế giới. Việt
Nam đã thực hiện nhiều biện pháp để hạn chế, ngăn ngừa tình trạng ô nhiễm và suy
thoái nguồn nước. Một trong những biện pháp đem lại hiệu quả cao là biện pháp
pháp lý. Bằng các quy định của pháp luật, nhà nước vừa ràng buộc mọi tổ chức, cá
nhân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nguồn nước vừa định hướng cho họ thực hiện
những hành vi có lợi cho nguồn nước.
B- PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát về tài nguyên nước
1. Khái niệm
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống
và môi trường, quy định sự phát triển bễn vững của đất nước. Nước có thể chia
thành nhiều loại khác nhau, tùy theo đặc tính tự nhiên hay mục đích sử dụng của
con người. Căn cứ vào đặc tính lý hóa của nước, nước có thể chia thành nước mặn,
nước ngọt, nước nhạt, nước lợ…căn cứ vào dạng tồn tại của nước chia thành : nước
mặt, nước ngầm, hơi nước, băng tuyết… căn cứ vào nơi tồn tại, nước gồm : nước
2
biển, nước hồ, nước ao… căn cứ vào mục đích sử dụng thì có nước dung cho sinh
hoạt, sản xuất và nuôi trồng thủy sản, thủy điện… Dưới góc độ luật môi trường,
nguồn nước được hiểu là “ một thành phần cơ bản của môi trường, là yếu tố quan
trọng hàng đầu của sự sống.”
2. Vai trò
- Đối với đời sống xã hội :
Nước là yếu tố không thể thiếu và không thể thay thế cho sự sống của con người.
Trong đó có chứa nhiều chất có lợi cho cơ thể nhất là I ốt và Fluo. Nếu sử dụng
nước có hàm lượng T ốt quá nhỏ con người có thể mắc bệnh biếu cổ, đần độn, còn
nếu có hàm lượng Fluo quá thấp thì thường bị sâu răng. Nước ở các lưu vực song,
suối, biển giúp cho hoạt động đi lại của con người thuận tiện hơn…
- Đối với ngành kinh tế:
+ sản xuất nông nghiệp: với một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp và nguồn
lợi thủy sản phong phú như Việt Nam thì việc bảo vệ nguồn nước có ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển bền vững của các ngành này.
Theo thống kê ở Việt Nam, nông nghiệp là ngành tiêu dung nước nhiều nhất. Tổng
nhu cầu nước tưới cho năm 2000 là 76.6 tỷ m
3
, chiếm 84% tổng nhu cầu.
+ các ngành công nghiệp: Trong công nghiệp, nước thường được dung để làm
nguội thiết bị và hấp thụ, vận chuyển vật chất hay làm dung môi pha trộn và nhất
là sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng. Nước còn đóng vai trò lớn trong ngành sản
xuất điện. Sản lượng điện hàng năm chiếm 55% tổng công suất phát điện của toàn
bộ hệ thống lưới điện quốc gia đã được xây dựng.
+ Giao thông vận tải đường thủy: với nước có mật độ song suối dày đặc, ba
mặt giáp biển như Việt Nam thì giao thông đường thủy có ý nghĩa quan trọng.
2
+ dịch vụ, du lịch : nguồn nước có vai trò quan trọng trong phục vụ nhu cầu
nghỉ ngơi, chữa bệnh, du lịch, là điều kiện quan trọng để phát triển các ngành du
lịch- dịch vụ.
3. Thực trạng tài nguyên nước ở Việt Nam
Giống như một số nước trên thế giới, Việt Nam cũng đang đứng trước thách thức
hết sức lớn về nạn ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường nước nói
riêng, đặc biệt là tại các khu công nghiệp và đô thị.
- thực trạng ô nhiễm nước mặt :
Hiện nay chất lượng nước ở vùng thượng lưu các con song chính còn khá tốt. Tuy
nhiên ở các vùng hạ lưu đã và đang có nhiều vùng bị ô nhiễm nặng nề. Đặc biệt
mức độ ô nhiễm tại các con song tăng cao vào mùa khô khi lượng nước đổ về các
con song giảm. Chất lượng nước suy giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu như : BOD, COD,
NH
4
, N, P cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
+ ô nhiễm nước mặt khu đô thị: các con song chính ở Việt Nam đều đã bị ô nhiễm.
Ví dụ như song Thị Vải, là con song ô nhiễm nặng nhất trong hệ thống song Đồng
Nai, có một đoạn song chết dài trên 10km. Giá trị đo thường xuyên dưới 0.5mg/l,
giá trị thấp nhất ở khu cảng Vedan ( 0.04 mg/l) Với giá trị gần bằng 0 như vậy, các
loài sinh vật không còn khả năng sinh sống.
- Thực trạng ô nhiễm nước dưới đất:
Hiện nay nguồn nước dưới đất ở Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những vấn
đề như bị nhiễm mặn, nhiễm thuốc trừ sâu, các chất có hại khác… Việc khai thác
quá mức và không có quy hoạch đã làm cho mực nước dưới đất bị hạ thấp. Hiện
tượng này ở các khu vực đồng bằng bắc bộ và đồng bằng song Cửu Long. Khai
thác nước quá mức cũng sẽ dẫn đến hiện tượng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển.
Nước dưới đất bị ô nhiễm do việc chon lấp gia cầm bị dịch bệnh không đúng quy
cách.
2
- Thực trạng ô nhiễm nước biển:
Nước biển Việt Nam đã bị ô nhiễm bởi chất rắn lơ lửng (đồng bằng song Cửu Long
và sông Hồng), nitrat, nitrit, colifom ( chủ yếu là đồng bằng song Cửu Long), dầu
và kim loại kẽm…
II. Vai trò của pháp luật bảo vệ tài nguyên nước
Đứng trước thực trạng ô nhiễm nước đang xảy ra ở nhiều nơi, việc kiểm soát
ô nhiễm nước đang trở thành yêu cầu bức thiết. Về vấn đề này, Chiến lược bảo vệ
quốc gia đến 2010 và định hướng 2020 đã xác định rõ : “Ngăn chặn về cơ bản mức
độ gia tăng ô nhiễm, phục hồi suy thoái và nâng cao chất lượng môi trường, đảm
bảo sự phát triển bền vững đất nước…” “ Để thực hiện các mục tiêu đó đòi hỏi
chúng ta phải áp dụng các biện pháp tổng thể, trong đó nâng cao vai trò của việc
điều chỉnh bằng pháp luật là đặc biệt quan trọng. Cụ thể như:
- Pháp luật kiểm soát ô nhiễm định hướng xử sự của con người khi tác động
vào môi trường:
Với tư cách là công cụ điều tiết hành vi con người trong xã hội, pháp luật có thể
kiểm soát ô nhiễm nước một cách có hiệu quả. Chẳng hạn như thông qua hệ thống
Quy chuẩn kiểm tra môi trường nước, pháp luật buộc các chủ thể có nước thải chỉ
được thải vào nguồn nước ở một giới hạn nhất định. Khi các chủ thể thực hiện tốt
các quy định này sẽ góp phần phòng ngừa khắc phục ô nhiễm nước có thể xảy ra.
- Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan
quản lý nhà nước để đảm bảo kiểm soát ô nhiễm nước một cách hiệu quả.
Thông qua pháp luật, nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan như sau: xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, định kỳ
đánh giá dự báo tình hình môi trường nước, xây dựng và quản lý các công trình bảo
vệ môi trường nước…
2
- Pháp luật ràng buộc các chủ thể có liên quan phải thực hiện nghiêm chỉnh
những đòi hỏi của pháp luật để kiểm soát ô nhiễm nước.
Pháp luật quy định những chế tài cụ thể đối với các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật môi trường khi họ không tuân theo quy định của pháp luật. Các chế tài hành
chính ,dân sự, hình sự được pháp luật quy định buộc các cá nhân, tổ chức thực hiện
đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng nước.
III. Những tồn tại của hệ thống pháp luật về bảo vệ tài nguyên
nước ở Việt Nam
- Một là, còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của luật Tài
nguyên nước làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước về tài nguyên nước.
Thiếu các văn bản quy định về thành lập và hoạt động của hệ thống thanh tra
chuyên ngành về tài nguyên nước. Điều 66 luật tài nguyên nước quy định “ Chính
phủ quy định cụ thể tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành về tài nguyên
nước”. Trên thực tế, chưa có văn bản nào quy định cụ thể về việc thành lập, tổ chức
của hệ thống này.
Thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết về điều tra cơ bản, đánh giá chất lượng, quy
hoạch tài nguyên nước.
Thiếu các văn bản hưỡng dẫn chi tiết về các hành vi gây cạn kiệt nguồn nước. Điều
9 luật tài nguyên nước quy đinh “ Nghiêm cấm mọi hành vi làm suy thoái, cạn kiệt
nguồn nước” nhưng chưa có sự hướng dẫn cụ thể để xác định đó là hành vi nào.
Thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định về phí nước thải.Hiện nay, thông tư
hướng dẫn tính toán khối lượng các chất gây ô nhiễm chưa được ban hành.
- Pháp luật bảo vệ tài nguyên nước còn thiếu các văn bản hướng dẫn bảo vệ tốt
hơn các thành phần môi trường khác giảm nhẹ các tác động tiêu cực của các
hoạt động phát triển tới môi trường để phát triển bền vững tài nguyên nước.